Đề án Cho vay hợp vốn và một số giải pháp phát triển và hoàn thiện phương thức cho vay hợp vốn ở Việt Nam

 Hiện nay ở nước ta nhiều tổ chức tín dụng cùng cho một khách hàng vay vốn là hiện tượng khá phổ biến. Có những khách hàng có quan hệ với 9 tổ chức tín dụng. Các khách hàng vay vốn nhiều tổ chức tín dụng thường là các doanh nghiệp lớn như các Tổng công ty 90,91. Thời hạn cho vay bao gồm cả ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Việc “ cùng cho vay” này các tổ chức tín dụng không có sự trao đổi bàn bạc, không có một tổ chức tín dụng nào đứng ra làm đầu mối phối hợp với các bên để đầu tư theo quy chế đồng tài trợ ( cho vay hợp vốn). Về thực trạng này em xin nêu ví dụ cụ thể: Công ty xây dựng cầu 75( đơn vị thuộc Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 8 – tổng công ty 90) có trụ sở chính tại thành phố Vinh- Nghệ An. Trong cùng một thời gian thực hiện nhiều dự án tại nhiều địa phương và tiến hành vay vốn ở nhiều tổ chức tín dụng như dự án II ( xây dựng 11 cầu đoạn Nha Trang – TPHCM ) vay ngân hàng đầu tư phát triển Thăng Long, dự án xây dựng cầu Đô Lương, Khe Tụ( Nghệ An ) vay ngân hàng đầu tư phát triển Nghệ An, dự án xây dựng cầu Thạch Đồng , Hộ Độ ( Hà Tĩnh) vay ngân hàng đầu tư phát triển Hà Tĩnh.v.v.

 

doc25 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1776 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Cho vay hợp vốn và một số giải pháp phát triển và hoàn thiện phương thức cho vay hợp vốn ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sản Vốn chủ sở hữu Thẩm định cho vay Ký kết hợp đồng tín dụng Giải ngân ... Thực hiện cho vay Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh Vốn cho vay Vốn của TCTD Vốn của TCTD .... Hợp vốn để cho vay Hợp vốn để cho vay Với tư cách là đại lý thu xếp, tổ chức tín dụng phải thực hiện các bước cụ thể sau: a. Xác định nhu cầu người vay: tổ chức tín dụng đầu mối phải chủ động tìm dự án và nhu cầu vay của khách hàng. Bằng các biện pháp tiếp thị và nghiệp vụ hợp lý để có được đề nghị vay vốn của khách hàng. Khi nhận được hồ sơ xin vay của khách hàng tổ chức tín dụng đầu mối đơn phương thẩm định sơ bộ kháchb hàng và hiệu quả của dự án bao gồm thẩm định thông tin về tài chính và phi tài chính như: tình trạng người vay, mức độ tăng trưởng của doanh nghiệp, lĩnh vực kinh doanh, nhu cầu đầu tư, khả năng tự trang trải, mục đích sủ dụng vốn, thời hạn vay, lãi suất cho vay có thể chấp nhận được, kế hoạch trả nợ... đánh giá quan tín dụng trước đây và các quan hệ kinh tế- xã hội khác của khách hàng.Đánh giá mức độ rủi ro của khoản vay và đánh giá khả năng đơn phương cho vay của mình. Sau khi xác định nhu cầu người vay cũng như đánh giá sơ bộ khách hàng và dự án, tổ chức tín dụng đầu mối cung cấp mức chào vốn hợp lý và hấp dẫn với người vay. Thoả thuận để có được uỷ nhiệm và thống nhất kế hoạch cho vay hợp vốn. b.Tiến hành quá trình hợp vốn: khi đã xem xet nhu cầu vay vốn của khách hàng và thấy cần phải cho vay theo phương thức cho vay hợp vốn. Tổ chức tín dụng đầu mối tiến hành quá trình hợp vốn bằng cách gửi giấy mời tham gia hợp vốn kèm theo dự thảo hợp đồng hợp vốn để cho vay và văn bản thoả thuận với người vay đến các tổ chức tín dụng khác. Tiến hành triệu tập các thành viên đồng ý tham gia hợp vốn đẻ thoả thuận và xác định mức vốn góp của các tổ chức tín dụng. c. Chuẩn bị hợp đồng hợp vốn: tổ chức tín dụng đầu mối chuẩn bị hợp đồng hợp vốn, trong đó xác định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp vốn, củ thể là: tổ chức tín dụng đầu mối, các tổ chức tín dụng thành viên, mức vốn tham gia cho vay của từng thành viên, thời hạn tham gia hợp vốn, phí cam kết hợp vốn, phương pháp thẩm định( sư dụng kết quả thẩm định đơn phương của tổ chức tín dụng đầu mối hay phối hợp thẩm định chung), phương thức cho vay, biện pháp đảm bảo tiền vay có thể được sử dụng, phương thức giải ngân và thu hồi nợ vay, mức phí thu xếp hợp vốn để cho vay, xử lý rủi ro trong quá trình hợp vốn. d. Ký kết hợp đồng hợp vốn và hợp đồng tín dụng: sau khi dã thoả thuận , các bên tiến hành ký kết các hợp đồng hợp vốn và hợp đồng tín dụng và chuyển các văn bản cần thiết lên các cơ quan liên quan. Tiến hành đàm phán lại với khách hàng để thực hiện giải ngân. 2.2 phương thức cho vay: a. thẩm định cho vay: Trong cho vay hợp vốn tổ chức tín dụng đầu mối thường đứng ra thu xếp và thực hiện nghiệp vụ đại lý, trong đó có nghiệp vụthẩm định cho vay. Tuy nhiên, trong trường hợp các tổ chức tín dụng thành viên không chấp nhận kết quả của tổ chức tín dụng đầu mối thì các tổ chức tín dụng có thể lập hội đồng thẩm định chung, để thẩm định lại dự án và có quyết định hợp lý khi hợp vốn cho vay. b. Hợp đồng tín dụng: hợp đồng hợp vốn được ký kết giữa bên cho vay hợp vốn ( bên tài trợ) với bên vay( bên nhận tài trợ). Trong hợp đồng tín dụng cho vay hợp vốn ngoài các nội dung như hợp đồng tín dụng song phương mà các tổ chức tín dụng vẫn thường ký với bên vay vốn, có thể ghi thêm các thanh viên hợp vốn, số tiền và tỷ trọng hợp vốn của mỗi thành viên, phương thức hợp vốn của từng thành viên và có thêm chữ ký của các thành viên hợp vốn. Trong trường hợp vay vốn kèm theo hợp đồng tín dụng, tổ chức tín dụng đầu mối phải ký khế ướccho vay với bên vay đối với từng lần giải ngân. Tổ chức tín dụng đầu mối theo thoả thuận của các bên hợp vốn thực hiện mọi nghĩa vụ và quyền lợi của bên cho vay hợp vốn với bên vayđược quy định trong hợp đồng tín dụng. Nội dung của hợp đồng bao gồm: Tổng số tiền Thời hạn cho vay Lãi suất cho vay Biện pháp đảm bảo tiền vay Phương thức cho vay Theo dõi thu hồi nợ Xử lý tranh chấp rủi ro... c.Phương thức cho vay: phương thức cho vay trong cho vay hợp vốn cũng giống như trường hợp đơn phương cho vay, tổ chức tín dụng đầu mối và các thành viên có thể thoả thuận với khách hàng để áp dụng một trong các phương thức cho vay sau: - Cho vay từng lần: phương thức cho vay này được tiến hành căn cứ vào kế hoạch, phương án hoặc từng khâu, từng đối tượng củ thể để xác định là một lần vay. Phương thức này áp dụngvới những khách hàng có nhu cầu vay, trả không thường xuyên, kinh doanh theo từng mùa vụ. Đặc điểm của phương thức cho vay nàylà việc cho vay và thu nợ được được phân định ranh giới một cách rõ ràng, dễ nhận biết được khi nào cho vay, khi nào thu nợ. Việc cho vay và thu nợ được thực hiện thông qua tài khoản cho vay thông thường. - Cho vay theo hạn mức: các tổ chức tín dụng và khách hàng xây dựng một hạn mức tín dụng duy trì trong thời hạn nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất, kinh doanh. Phương thức này chỉ áp dụng với những khách hàng có nhu cầu vay trả thường xuyên và có tín nhiệm trong quan hệ tín dụng, vòng quay vốn nhanh. Đặc điểm của phương thức cho vay này là việc cho vay và thu nợ đan xen nhau, không phân định ranh giới và thời điểm củ thể khi nào cho vay, khi nào thu nợ. Việc cho vay, thu nợ được thực hiện thông qua tài khoản cho vay luân chuyển(bên nợ của tài khoản này phản ánh các khoản tiền vay của khách hàng, bên có phản ánh các khoản trả nợ của khách hàng) - Cho vay theo dự án: phương thức này được áp dụng khi các tổ chức tín dụng hợp vốn cho khách hàng vay để thực hiện dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án phục vụ đời sống. - Cho vay theo hạn mức dự phòng dự phòng: phương thức cho vay là các tổ chức tín dụng cam kết bảo đảm sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong hạn mức tín dụng nhất định. Các tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận thời hạn của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí phải trả cho tín dụng dự phòng. - Cho vay trả góp: khi áp dụng phương thức cho vay này thì các tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả thuận mức lãi tiền vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay. II. Các nguyên tắc 1. Nguyên tắc hợp tác cho vay: các tổ chức tín dụng tham gia hợp tác trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi, tương trợ lẫn nhau trên cơ sơ thống nhất hai nội dung: - Xác định tổng nhu cầu vốn của từng doanh nghiệp, từ đó thông nhất mức tham gia vốn của từng tổ chức tín dụng. Các tổ chức tín dụng căn cứ vào đó để cho vay không được vượt quá mức quy đinh của ngân hàng nhà nước. - Thống nhất chung một mức lãi suất khi cùng cho vay một loại hình doanh nghiệp. 2. Nguyên tắc cho vay: khi các tổ chức tín dụng hợp vốn để cung cấp tín dụng cho khách hàng, họ phải có cơ sơ để tin rằng khách hàng sẽ trả nợ, nếu như các tổ chức tín dụng không có cơ sơ để tin thì quan hệ tín dụng sẽ không xảy ra. Vì thế, các nguyên tắc trong việc cho vay mang tinh chất luật pháp chính thức mà người cho vay và người vay đều phải tuân theo. Nếu như khách hàng nhận tín dụng của các tổ chức tín dụng, thì phải ký hợp đồng tín dụng. Đơn xin vay là cơ sơ để tổ chức tín dụng : kiểm tra khả năng vay và khả năng chi trả của người vay, ký hợp đồng tín dụng, ký hợp đồng bảo đảm tín dụng. Khi kiểm tra khả năng vay, phải phát hiện xem khách hàng xin vay có khả năng hoạt động và quyền hoạt động hay không. Kiểm tra khả năng vay là tiền đề để cho tất cả các hoạt động khác của tổ chức tín dụng đối với khách hàng nào đó , trong đó kể cả kiểm tra khả năng chi trả của họ. Thực chất của việc kiểm tra trước hết là xem khách hàng đó có thể trả nợ tiền vay, tiền lãi và các khoản chi trả khác kịp thời hay không. Tất cả những điều còn lại là đặc trưng bên ngoài của hợp đồng tín dụng mà mục đích chính là thu được lợi nhuận tối đa. Tất nhiên, trong việc kiểm tra khả năng chi trả của khách hàng vay số tiền nhỏ và khách hàng vay số tiền lớn có những khác biệt to lớn. Bắt đầu từ một số tiền vay nhất định, tất cả các khách hàng đều phải giải trình các chỉ tiêu kinh tế của mình. Trước hết đó là xuất trình bảng cân đối kế toán hàng năm và các chỉ tiêu hoạt động khác. Trong bảng cân đối kế toán, khi cấp tín dụng các tổ chức tín dụng chú ý nhất tới cân đối thương nghiệp và cân đối thuế. Theo quan điểm của các tổ chức tín dụng, điều quan trọng nhất để giải quyết vấn đề cấp tín dụng là việc phân tích các chỉ tiêu sau: cơ cấu tài chính, các nguồn vốn thanh toán, kế hoạch tài chính, báo cáo tài chính hàng năm của công ty. Sau khi việc kiểm tra khả năng chi trả của khách hàng được kết thúc trên cơ sơ phân tích nhiều chứng từ của họ và có được kết luận nghiệp vụ tín dụng đó sẽ có lợi , thì các tổ chức tín dụng mới đồng ý cấp tín dụng cho khách hàng. Sự đồng ý cho vay được thể hiện bằng văn bản, đây là điều bắt buộc đối với khoản cho vay hợp vốn vì cho vay hợp vốn thường là những khoản cho vay lớn. Và nếu như người vay đồng ý với điều kiện tín dụng, thì họ chuyển cho tổ chức tín dụng sự xác nhận của mình, sau đó xem như hợp đồng đã có hiệu lực 3. Nguyên tắc quản lý tiền cho vay Để thu được lợi nhuận cao các tổ chức tín dụng cần thực hiện món vay có hiệu quả, chúng phải được hoàn trả đầy đủ. Bởi vậy, khi tiến hành cho vay các tổ chức tín dụng phải đảm bảo nguyên tắc quản lý tiền cho vay. - Sàng lọc và giám sát khách hàng: là công việc mà các tổ chức tín dụng tiến hành thu thập thông tin, để phân loại khách hàng. - Duy trì mối quan hệ lâu dài với khách hàng: Một cách nữa để ngân hàng thu được những thông tin về khách hàng là nhờ quan hệ khách hàng lâu dài. Mối quan hệ lâu dài làm lợi cho cả người vay lẫn ngân hàng. Nếu trước đây khách hàng đã vay vốn tại ngân hàng, thì ngân hàng đã có sẵn những phương thức giám sát khách hàng đó. Do đó chi phí về việc giám sát những khách hàng lâu dài sẽ thấp hơn so vói những chi phí với khách hàng khác. Một khách hàng đã có mối quan hệ cũ sẽ để dàng được vay ở mức lãi suất thấp. - Vật thế chấp: vật thế chấp là vật sở hữu được hứa cho người vay nếu người vay vỡ nợ đối với món tiền vay. người vay có thể bán vật thế chấp và dùng tiền thu được để bù lại các tổn thất của mình do món nợ cho vay đó gây nên. - Hạn chế tín dụng: Một nguyên tắc khác giúp các tổ chức tín dụng hạn chế rủi ro là việc hạn chế tín dụng: ngân hàng có thể từ chối không cho vay hoặc cho vay nhưng với mức thấp hơn người vay yêu cầu. Chương II. Thực trạng cho vay hợp vốn ở Việt Nam. 1. Cho vay hợp vốn ở Việt nam chưa thực sự phát triển. Trong những năm cuối thế kỷ 20, cho vay hợp vốn là phương thức tài trợ của ngân hàng được sử dụng phổ biến từ lâu ở các nước phát triển, đã du nhập vào thị trường tín dụng nước ta. Thực ra phương thức cho vay hợp vốn đã du nhập vào nước ta từ những năm 1990, nhưng cho đến nay hình thức cho vay nay ở thị trường tín dụng nước ta chưa được các tổ chức tín dụng áp dụng nhiều. Ngược dòng thời gian, từ những năm 1989- 1990, đã bắt đầu hình thành những khoản cho vay hợp vốn ngắn hạn đầu tiên liên kết giữa một số ngân hàng thương mại vùng đồng bằng sông Cửu Long để chủ động tài trợ cho những hợp đồng xuất, nhập khẩu có giá trị tương đối lớn với các nước Đông Âu ( cho vay của một hiệp hội ngân hàng). Nhưng phải đến khoảng những năm 1996-1997 thì mới có chiều hướng sinh sôi nảy nở với việc hình thành những khoản cho vay hợp vốn thực sự, trong đó chỉ có những khoản cho vay hợp vốn sau là đáng kể: Năm 1996, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam và Ngân hàng công thương Việt Nam hợp vốn cho vay dự án xây dựng khách sạn Hà Nội của UBND thành phố Hà Nội và các dự án cải tạo, đổi mới thiết bị của công ty Dệt 8/3. Năm 1997, dưới sự chủ trì của NHNN tỉnh ĐắcLắc, các ngân hàng trên địa bàn tỉnh này đã góp vốn tài trợ cho dự án phát triển cây trồng của địa phương và một số hợp đồng về cà phê ở địa phương. Sau khi đúc rút kinh nghiệp về những khoản cho vay hợp vốn có hiệu quả nói trên, NHNN đã ban hành Quy chế Đồng tài trợ theo Quyết định số 154 ngày 29/ 04/ 1998 của Thống đốc NHNN, tạo cơ sở pháp lý và nghiệp vụ cho quan hệ Đồng tài trợ nói chung và cho vay hợp vốn nói riêng. Tiếp đó, trong các năm 1998-1999, quan hệ cho vay hợp vốn giữa các ngân hàng thương mại trong nước và các Doanh nghiệp có những bước phát triển nhất định với việc hình thành những khoản cho vay hợp vốn có quy mô, kim ngạch lớn, thời hạn dài như: Năm 1998: Ngân hàng ngoại thương Việt Nam và Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam đồng tài trợ cho Tổng công ty Điện lực 18 triệu USD, thời hạn 8 năm, để nhập hai tổ máy tuốc bin và các thiết bị điện khác cho nhà máy điện Trà Nóc( Cần Thơ), trong đó Ngân hàng ngoại thương Việt Nam tham gia 65% và Ngân hàng đầu tư phát triển Việt Nam tham gia góp vốn 35% Ba ngân hàng thương mại quốc doanh đồng tài trợ 100 triệu USD cho dự án khí Nam Côn Sơn. Năm 1999: Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, ngân hàng thương mại cổ phần quân đội và ngân hàng thương mại cổ phần quốc tế lần đồng tài trợ ngắn hạn (3 tháng) cho tổng Công ty Xăng dầu với hạn mức 230 tỷ VND để nhập nhiên liệu, trong đó ngân hàng ngoại thương Việt Nam tham gia hợp vốn 70%. Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, ngân hàng cổ phần quân đội và ngân hàng thương mại cổ phần á Châu đồng tài trợ cho công ty liên doanh VCB Tour xây dựng cao ốc VCB, với tổng số vốn 16 triệu USD, trong đó ngân hàng ngoại thương Việt Nam tham gia hợp vốn 70% , thời hạn 180 tháng. Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, ngân hàng công thương Việt Nam vàngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam cho vay hợp vốn dự án mở rộng cầu Điên Biên Phủ 330 tỷ VND. Tám ngân hàng thương mại, bao gồm các ngân hàng thương mại quốc doanh, một số ngân hàng thương mại cổ phần và ngân hàng thương mại liên doanh, cho vay hợp vốn cho Tổng công ty Điện lực 100 triệu USD thực hiện dự án nhiệt điện Phú Mỹ 2-1, trong đó ngân hàng ngaọi thương Việt Nam tham gia hợp vốn 45%. Như vậy, cho đến nay quan hệ cho vay hợp vốn đã có một bước phát triển mới. Tuy nhiên, so với tiềm năng và nhu cầu nền kinh tế đất nước, cũng như lợi ích của các tổ chức tín dụng cho vay hợp vốn thì những kết quả đạt được còn khá khiêm tốn. Biểu hiện sự chưa phát triển của cho vay hợp vốn ở nước ta đó là sức dư nợ hàng năm về cho vay hợp vốn so với tổng dư nợ hàng năm. Nếu như ở các nước phát triển cho vay hợp vốn là hình thức đầu tư tín dụng chủ yếu và chiếm tỷ lệ cao trong tổng dư nợ hàng năm thì ở Việt Nam ngay như ở ngân hàng ngoại thương Việt Nam- đơn vị đi đầu trong hầu hết các khoản cho vay hợp vốn với phần vốn lớn nhất trong từng khoản mục, mặc dù tổng dư nợ trong cho vay hợp vốn đã tăng nhưng nếu đem so sánh với tổng dư nợ hàng năm thì chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ bé. Nguyên nhân chính có thể là do các tổ chức tín dụng gặp một số vướng mắc về mặt kỹ thuật. Về nguồn vốn: nguồn vốn ngắn hạn tương đối sẵn sàng, nhất là trong giai đoạn trước mắt đang có hiện tượng “đọng vốn” tại nhiều ngân hàng thương mại. Trái lại, nguồn vốn dài hạn lại quá hiếm. Trong những khoản cho vay trung, dài hạn riêng rẽ cũng như cho vay hợp vốn, nguồn vốn hầu như đều thuộc loại ngắn hạn. Đây là điều kiêng kỵ trong hoạt động tín dụng, đẫn đến nguy cơ thiếu khả năng thanh toán. Những năm cuối thập niên 80 vừa qua, tình hình này đã gây nên đợt khủng hoảng trầm trọng trong hệ thống ngân hàng, tổ chức tài chính Mỹ do trạng thái bất cập về nguồn vốn và sử dụng vốn. Theo qui chế Đồng tài trợ thì có thể “... sử dụng nguồn vốn huy động, vốn vay để tham gia đồng tài trợ” không phân biệt ngắn hạn hay dài hạn. Song ngân hàng nhà nước lại giới hạn chỉ được sử dụng 20-25% nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn. hiện nay, thị trường chứng khoán đã ra đời và hoạt động có hiệu quả. Các tổ chức tín dụng có cơ hội đẩy mạnh việc phát hành trái phiếu để thu hút vốn trung, dài hạn nhằm gia tăng nguồn lực cho chính mình đồng thời tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán. Hoạt động có hiệu quả của thị trường chứng khoán sẽ tác động thuận chiều đến việc huy động vốn dài hạn của tổ chức tín dụng. Khi chưa có biện pháp hữu hiệu thì thái độ dè dặt , e ngại của các tổ chức tín dụng tham gia cho vay hợp vốn dài hạn là điều dễ hiểu, phù hợp với nguyên tắc cơ bản của hoạt động tín dụng. Về lãi suất cho vay hợp vốn: khoản cho vay hợp vốn thường có kim ngạch lớn, thời hạn dài là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của tổ chức tín dụng và doanh nghiệp vay vốn. Đối với những khoản cho vay hợp vốn bằng nội tệ các tổ chức tín dụng khi cho vay hợp vốn chỉ áp dụng một múc lãi suất chung cho một khoản vay, nên các thành viên tham gia phải bàn bạc để đi đến một thoả thuận có thể chấp nhận được cho tất cả các bên. đây là việc không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Nó đòi hỏi có sự hiểu biết và nhân nhượnglẫn nhau thìmới dàn dựng được nhanh chóng thành công một khoản cho vay hợp vốn. Đối với khoản cho vay bằng ngoại tệ, tất nhiên phải áp dụng mức lãi suất quốc tế. Các tổ chức tín dụng có quan hệ ký thác ngaọi tệ tại các ngân hàng nước ngoài ở những thị trường tài chính khác nhau chỉ được căn cứ vao lãi suất SIBOR (Singapo Interbank offered Rates- lãi suất liên ngân hàng thị trường Singapo) có khi lại gây khó khăn cho một số tổ chức tín dụng. Lại còn việc áp dụng múc lãi suất nào, cố định, biến đổi hay điều chỉnhđể đề phòng rủi ro khi lãi suất biến động cũng đòi hỏi những hiểu biết và kinh nghiệm nhất định. Những điều đó còn khá phức tạp, có khi làm nản lòng một số tổ chức tín dụng chưa thật quen thuộc hoạt động của các thị trường tài chính quốc tế. Về lệ phí: Tại điều 11 của Quy chế Đồng tài trợ quy định chế độ lệ phí chỉ đề cập đến “phí thu xếp” mà tổ chức tín dụng đầu mối được hưởng có lẽ là chưa hợp lý. Sau khi dàn dựng xong một khoản cho vay hợp vốn, việc quản lý thực hiện hợp đồng tin dụng, khá nhiều phức tạp, kéo dài, đòi hỏi nhiều công sức như gom vốn để giải ngân theo kỳ hạn, thu, chia lãi phí thu hồi nợ theo dõi việc thực hiện hợp đồng tín dụng,... nên cần có mức thù loa thoả đáng cho tổ chức tín dụng đảm nhiệm công đoạn này. Về cơ chế: Ngân hàng nhà nước ban hành quyết định 154 ngày29/04/ 1998 về Quy chế Đồng tài trợ đã vạch ra những những quy định và hướng dẫn các tổ chức tín dụng thực hiện cho vay hợp vốn. Nhưng còn có một số điều chưa khiến cho các tổ chức tín dụng mặn mà với phương thức cho vay mới. 2. Nhiều tổ chức tín dụng cùng cho vay một khách hàng, nhưng không đảm bảo cho vay hợp vốn. Hiện nay ở nước ta nhiều tổ chức tín dụng cùng cho một khách hàng vay vốn là hiện tượng khá phổ biến. Có những khách hàng có quan hệ với 9 tổ chức tín dụng. Các khách hàng vay vốn nhiều tổ chức tín dụng thường là các doanh nghiệp lớn như các Tổng công ty 90,91. Thời hạn cho vay bao gồm cả ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Việc “ cùng cho vay” này các tổ chức tín dụng không có sự trao đổi bàn bạc, không có một tổ chức tín dụng nào đứng ra làm đầu mối phối hợp với các bên để đầu tư theo quy chế đồng tài trợ ( cho vay hợp vốn). Về thực trạng này em xin nêu ví dụ cụ thể: Công ty xây dựng cầu 75( đơn vị thuộc Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 8 – tổng công ty 90) có trụ sở chính tại thành phố Vinh- Nghệ An. Trong cùng một thời gian thực hiện nhiều dự án tại nhiều địa phương và tiến hành vay vốn ở nhiều tổ chức tín dụng như dự án II ( xây dựng 11 cầu đoạn Nha Trang – TPHCM ) vay ngân hàng đầu tư phát triển Thăng Long, dự án xây dựng cầu Đô Lương, Khe Tụ( Nghệ An ) vay ngân hàng đầu tư phát triển Nghệ An, dự án xây dựng cầu Thạch Đồng , Hộ Độ ( Hà Tĩnh) vay ngân hàng đầu tư phát triển Hà Tĩnh..v..v. Như vậy, cùng một khách hàng nhưng khi thực hiện các dự án khác nhau họ tiến hành vay vốn ở nhiều tổ chức tín dụng khác nhau mà giữa các tổ chức tín dụng này không có sự bàn bạc trao đổi với các tổ chức tín dụng khác. Cùng với sự tồn tại nhiều loại hình ngân hàng, nhiều chính sách cạnh tranh thu hút khách thiếu thận trọng, các tổ chức tín dụng đã tạo điều kiện cho một số doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ nhưng lợi dụng vay vốn tại nhiều ngân hàng, tổ chức tín dụng để đảo nợ bất hợp pháp thậm chí ngay trên cùng một địa bàn. Tình hình trên đã dẫn đến một thực trạng đang diễn ra hiện nay là các cùng một thời điểm có dư nợ vay nhiều loại ( ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, nội tệ ngoại tệ) ở rất nhiều ngân hàng mà có khi các ngân hàng không hề biết hoặc biết cũng làm như không bởi nhiều lý do, nguyên nhân khác nhau. Có thể kể đến như: do nguồn lợi trước mắt, đó là dư nợ tăng, có thu lãi hàng tháng mà việc cho vay xem ra chẳng có gì vi phạm chế độ quy định và khả năng thu nợ trước mắt vẫn đảm bảo vì doanh nghiệp đã mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng mình. Hơn nữa, các khách hàng đó chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước nên các ngân hàng cũng yên tâm hơn. Nhưng trên thực tế, khả năng thanh toán của một số doanh nghiệp là rất mong manh vì với một khối lượng dư nợ lớn, kinh doanh không hiệu quả, có khi phải đảo nợ từ ngân hàng này sang ngân hàng khác lại được dựa trên vốn tự có rất nhỏ, đến lúc đó rủi ro là tất yếu. Về thực trạng này theo em là do một số nguyên nhân sau: Quan hệ giữa doanh nghiệp và ngân hàng chưa được cải thiện theo chiều hướng quan hệ đôí tác lành mạnh, tin nhau cậy lẫn nhau. Ngân hàng có tâm lý sợ khách hàng bỏ rơi, nên nhiều khi bỏ qua hoặc hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng, hậu quả thật khó lường. Khách hàng chưa thật lòng với ngân hàng, tình trạng vay ngân hàng này trả ngân hàng kia. Như vậy, vô tình giữa các ngân hàng đã có sự đồng tài trợ một cách tự phát, gây phương hại lẫn nhau. Hiện nay, có nhiều ngân hàng vì lý do an toàn của mình, đã đưa ra hạn mức tín dụng nhằm khống chế mức vay vốn của doanh nghiệp, khiến cho các doanh nghiệp gặp khó khăn hơn về vốn, phải chuyển sang quan hệ với ngân hàng khác để tìm nguồn tín dụng bổ sung. Chưa có sự liên kết hợp tác thống nhất giữa các tổ chức tín dụng: Hiện nay, quan hệ tin dụng giữa doanh nghiệp và ngân hàng diễn ra theo chiều hướng không có lợi cho ngân hàng. Hầu các khách hàng lớn luôn đòi hỏi các tổ chức tín dụng phải trả lời nhanh chóng, kịp thời khi đặt vấn đề vay vốn. Nếu tổ chức tín dụng không đáp ứng được hoặc đáp ứng không kịp thời yêu cầu của khách hàng thì khách hàng lập tức chuyển sang vay tại tổ chức tín dụng khác, trong khi các tổ chức tín dụng đang dồi dào nguồn vốn đói dự án để giải quyết đầu ra vì sợ mất cơ hội đầu tư nên tổ chức tín dụng thường vội vàng nhiều khi bớt quy trình thẩm định dự án, để đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Trên thực tế hiện nay các tổ chức tín dụng đều nhằm vào các doanh nghiệp lớn trọng tâm là các doanh nghiệo nhà nước để cạnh tranh lôi kéo, giành giật khách hàng. Những nguyên nhân trên đã làm phức tạp thêm tình trạng tự phát đồng tài trợ tín dụng, nhưng đồng thời lại là cơ hội để các ngân hàng ngồi lại với nhau nhằm thống nhất các giải pháp quản lý tin dụng hữu hiệu hơn. Điều cần thiết hiện nay là các tổ chức tín dụng phải chủ động tiếp xúc tiếp xúc với nhau để bàn bạc tìm ra giải pháp củ thể, phân tích cho khách hàng của mình thấy được lợi ích của phương thức Đồng tài trợ, vừa đáp ứng nhu cầu hợp lý về vốn, vừa thực hiện được nguyên tắc phân tán rủi ro đôi bên cùng có lợi. 3.Thực trạng về rủi ro trong cho vay hợp vốn. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và rủi ro trong cho vay hợp vốn nói riêng, đó là những ảnh hưởng xấu tới lợi nhuận của ngân hàng. Song với hình thức cho vay hợp vốn em xin đề cập tới hai dạng rủi ro chính đó là rủi ro liên kết và rủi ro tín dụng. Về rủi ro liên kết: như em đã trình bày ở chương I, rủi ro liên kết là rủi ro nảy sinh từ sự hợp tác liên kết trong hợp vốn không có hiệu quả. Rủi ro liên kết xảy ra ở các giai đoạn: giai đoạn mời gọi hợp vốn, giai đoạn ký kết hợp đồng, giai đoạn giải ngân và giai đoạn thu nợ. ở Việt Nam việc phát sinh các nghiệp vụ cho vay hợp vốn chưa nhiều, nhưng qua các khoản cho vay hợp vốn đã được tiến hành thì hầu hết các tổ chức tín dụng đầu mối thường đơn phương thẩm định dự án và kêu gọi hợp vốn. Mà đối tượng cho vay chủ yếu là các Tổng công ty nhà nước, nên khi thực hiện xong một khoản cho vay việc quản lý giám sát khoản vay chưa được chú ý.Một tình trạng phổ biến hiện nay ở nước ta là các tổ chức tín dụng chưa mặn mà với phương thức cho vay hợp vốn nên gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng đầu mối lựa chọn đơn vị cùng hợp tác cho vay. Các tình trạng trên dễ gây nên rủi ro trong giai đoạn mời gọi hợp vốn và giai đoạn thu nợ. Về rủi ro tín dụng: hầu hết các dự án cho vay hợp vốn đều đang trong thời hạn hoạt động, trực trạng rủi ro tín dụng còn nhiều vấn đề phức tạp. Tuy nhiên, một thực trạng chủ yếu hiện nay là việc các tổ chức tín dụng chỉ ngồi chờ khách hàng đem dự án tới ngân hàng để xin vay mà các tổ chức tín dụng chưa chủ động tìm dự án. Đây là nguy cơ rủi ro tiềm ẩn đối với hoạt tín dụng. Chương III. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển và hoàn thiện phương tức cho vay hợp vốn. I. Giải pháp 1. Các tổ chức tín dụng cần hợp tác thống nhất lành mạnh. Để thực tốt phương thức cho vay hợp vốn cũng như hạn chế những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả lợi dụng dự án để tiến hành vay vốn nhiều tổ chức tín dụng, thì bản thân các tổ chức tín dụng phải hợp

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35301.doc
Tài liệu liên quan