Đề án Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn lao động

MỤC LỤC

Trang

CHƯƠNG I: YÊU CẦU NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN LAO ĐỘNG 1

1. Nguồn lao động 1

1.1. Các khái niệm 1

1.1.1 Khái niệm lao động, lực lượng lao động và nguồn lao động 1

1.1.2. Vai trò của nguồn lao động 6

1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lao động 6

1.1.3.1. Các nhân tố tự nhiên 7

1.1.3.2. Các nhân tố kinh tế 7

1.3.3. Các nhân tố xã hội 8

1.1.3.4. Nhân tố về giáo dục và đào tạo 9

Chương II: Thực trạn chất lượng nguồn lao động ở Việt Nam 10

2. Đặc điểm cơ bản của Việt Nam 10

2.1. Đặc điểm cơ bản của Việt Nam và ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lao động 10

2.1.1. Đánh giá, dự báo các yếu tố nguồn lực 10

2.1.1.1. Về nguồn lực 10

2.1.1.1.1. Áp lực lớn về việc làm 11

2.1.1.1.2. Cơ cấu lao động bất hợp lý 11

2.1.1.1.3. Tỷ lệ lao động tham gia vào quan hệ thị trường thấp 12

2.1.1.1.4. Thực trạng việc làm 13

2.1.1.1.5. Trình độ chuyên môn, kỹ thuật 15

2.1.1.1.6. Thực trạng lao động, việc làm 1991-2000 18

2.1.1.1.7. Trình độ tổ chức cuộc sống 18

2.1.1.1.8. Trình độ ý thức pháp luật 19

Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng lao động 21

3. Những vấn đề đặt ra với việc nâng cao chất lượng nguồn lao động 21

3.1. Kinh tế thị trường và yêu cầu đặt ra về chất lượng nguồn lao động 21

3.1.1. Một số vấn đề cơ bản của kinh tế thị trường 21

3.1.2. Yêu cầu mới về chất lượng nguồn lao động 23

3.1.3. Chủ trương phương hướng chung về nâng cao chất lượng nguồn lao động 24

3.1.4. Mục tiêu của chiến lược 10 năm và kế hoạch 5 năm 25

2.1.5. Định hướng phát triển các ngành kinh tế và các vùng 26

3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn lao động 29

3.2.1. Xây dựng chiến lược nâng cao chất lượng nguồn lao động và triển khai thành các đề án trong từng ngành, từng địa phương 29

3.2.2. Tiến hành rà soát lại nguồn lao động ở tất cả các địa phương 30

3.2.3. Phát triển giáo dục và đào tạo 30

3.2.4. Dân số và việc làm 32

3.2.5. Tiền lương và thu nhập 32

3.2.6. Sử dụng đầy đủ và hợp lý nguồn lao động 33

3.2.7. Hoàn thiện và đổi mới cơ chế chính sách nhằm khuyến khích người lao động nâng cao trình độ về mọi mặt 33

3.2.8. Chính sách tạo điều kiện kinh tế, pháp lý cho các cơ sở đào tạo và dạy nghề 34

KẾT LUẬN 35

 

 

doc38 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2941 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn lao động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăm nhìn chung còn chiếm tỷ lệ nhỏ (17% trong tổng số lực lượng lao động của xã hội, trong khi đó ở các nước có nền kinh tế phát triển tỷ lệ này thường chiếm từ 60-80%). Số liệu điều tra còn cho thấy giá công lao động đang có xu thế tăng lên, đồng thời có sự khác biệt đáng kể về giá công lao động giữa các địa phương. 2.1.1.1.4- Thực trạng việc làm. Hiện nay, nước ta có lợi thế về lực lượng lao động có trình độ giáo dục và kỷ luật cao. Lực lượng lao động của Việt Nam vào khoảng38 triệu người và tương đối trẻ. Cơ cấu lao động của nước ta tiêu biểu cho nền kinh tế nông nghiệp với 69% lực lượng lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp, 12, 3% trong công nghiệp và xây dựng, còn lại 18, 6% trong khu vực dịch vụ. Tuy nhiên, hầu hết lao động là không có nghề, giá nhân công lại thấp. Hơn nữa, các cơ hội tạo việc làm còn bị hạn chế. Ơ khu vực nông thôn, tình trạng thiếu đất đai và tài chính, sự hạn chế trong tiếp cận thị trường, kỹ thuật nông nghiệp không hiệu qủa, sự thay đổi theo thời vụ về yêu cầu lao động và thiếu các cơ hội có việc làm phi nông nghiệp đã hạn chế cơ hội tăng trưởng kinh tế. Vấn đề tạo việc làm trong khu vực nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài lại không thoả đáng. Việc làm trong khu vực nhà nước, kể cả trong các doanh nghiệp nhà nước đã giảm mạnh từ 14% năm 1988 xuống còn 9% năm 1998 do tinh giảm biên chế và nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước. Trong khi đó, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thu hút chưa nhiều lao động(chỉ khoảng 280. 000 lao động). Điều đó tất yếu làm tăng số thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn. Kinh nghiệm mở rộng các cơ hội có việc làm trong những năm 1980 của 69 nước trên thế giới đã cho kết luận: tốc độ tăng của việc làm liên quan chặt chẽ và tỷ lệ thuận với tốc độ tăng GDP theo đầu người và sự giảm thiếu hụt chỉ số phát triển nhân lực(HDI). Tốc độ tăng GDP theo đầu người hàng năm tăng lên 1% sẽ làm tốc độ tăng của việc làm lên 0, 18%. Và sự thiếu hụt chỉ số phát triển nhân lực giảm đi 1% sẽ làm tốc độ tăng của việc làm lên 0, 09%. Kết quả này cho thấy việc mở rộng cơ hội có việc làm phụ thuộc vào sự tăng trưởng kinh tế và vào việc tăng cường năng lực cơ bản của con người. Trong quá trình cải cách chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Trong những năm 1990-1997 tốc độ tăng GDP bình quân của nước ta hơn 8%. Từ năm 1998, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở một số nước trong khu vực Đông Nam á, đầu tư trực tiếp từ nước ngoài và xuất khẩu giảm làm cho GDP thực tế giảm sút (còn5, 8%) nhưng tăng trưởng kinh tế vẫn tích cực, tỷ lệ lạm phát vẫn được kiểm soát (dưới10%). Cải cách đã làm thay đổi cơ cấu của nền kinh tế và cấu thành của lao động. Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình phát triển trên tiến trình công nghiệp hóa và hiện đại hoá đất nước. Việc đô thị hoá nhanh đã thu hút thêm nhiều việc làm. Nhưng ngay cả ở những chỗ mà cơ hội có việc làm được mở rộng cũng không đủ thu hút hết số thất nghiệp tồn đọng, đặc biệt là ở khu vực thành thị, do tốc độ tăng đân số của nước ta vẫn còn cao(1, 8%). Tuy việc làm được mở rộng trong khu vực sản xuất công nghiệp nhưng không đủ để thu hút hết lực lượng lao động đang tăng nhanh với tốc độ trên 3%. Hơn thế, việc làm có hưởng lương thường xuyên không tiến triển đã làm tăng số người tự làm việc hay làm các công việc không thường xuyên. Nhiều công nhân phải chuẩn bị cho mình các công việc kinh doanh riêng vì họ không thể tìm được việc làm hưởng lương ổn định. Nhiều người chỉ làm việc không trọn ngày, trọn giờ. Việc làm còn tăng lên trong khu vực dịch vụ và đặc biệt trong khu vực phi chính quy. Nhưng hầu hết các khu vực này năng suất không cao. Ơ một cấp độ khác khu vực phi chính quy chiếm gần 60% tổng số việc làm. Đó có thể là nguồn chủ yếu tạo việc làm nhưng đòi hỏi sức cạnh tranh cao và phụ nữ làm hầu hết các công việc trong lĩnh vực này. Những người làm việc trong khu vực phi chính quy thường sử dụng vốn đầu tư thấp, kỹ năng nghề nghiệp và công nghệ hạn chế v. v.... Trong quá trình đổi mới, Việt Nam đang đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao trình độ giáo dục và năng lực làm việc của người lao động. Trình độ giáo dục của nguồn nhân lực ở nước ta vào loại cao so với một số nước trong khu vực nhưng chưa đủ đáp ứng các kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức cần thiết cho công nghiệp hoá, hiên đại hoá đất nước. Viêc tạo nguồn nhân lực có trình độ cao là một trong những vấn đề chủ yếu trong quá trình công nghiệp hoá hiện nay. Hệ thống công nghiệp đang đòi hỏi lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao và chuyên sâu. Khoa học và công nghệ đang tạo ra những thay đổi liên tiếp, do đó xuất hiện nhiều nghề mới thay thế liên tục các nghề cũ. Chính vì thế, công nghiệp hoá đòi hỏi hệ thống giáo dục và đào tạo phải quan hệ theo chức năng với các nghề và chuyên môn có tính cấp thiết đối với công nghệ hiện đại. Hiện nay chất lượng giáo dục và đào tạo của nước ta còn thấp. Theo kết quả Tổng điều tra dân số tháng 4/1999 số người có trình độ chuyên môn kỹ thuật chỉ chiếm 7, 6% tổng dân số từ 13 tuổi trở lên, tăng 13, 4% so với năm 1989, trong đó số ở thành thị chiếm 17, 5%, ở nông thôn 4, 2%. Tuy số người có trình độ chuyên môn kỹ thuật tăng hàng năm nhưng tỷ lệ đó thể hiện chất lượng của đội ngũ lao động còn thấp. Việc đào tạo chuyên môn kỹ thuật lại không gắn với thị trường lao động và với các khu vực sản xuất. Điều đó dẫn đến sự phân bố không hợp lý lao động có kỹ thuật giữa các ngành nghề và giữa các khu vực. GDP theo đầu người của Việt Nam hiện nay vẫn còn rất thấp(352USD) và chỉ số phát triển nhân lực nằm ở vị trí dưới trung bình so với các nước(122 trong số 174 quốc gia) nhưng công cuộc cải cách của nước ta đã đạt được tiến bộ đáng kể trong việc mở rộng cách lựa chọn và cải thiện cuộc sống của người dân. Tỷ lệ nghèo đói đã giảm từ 70% trong giữa những năm 1980 xuống khoảng 30%. 2.1.1.1.5- Trình độ chuyên môn, kỹ thuật. Lao động chuyên môn kỹ thuật cần được xem xét ở cả hai mặt số lượng và chất lượng. Về số lượng: Đến 1/10/1999, toàn quốc có 5. 241. 700 lao động có chuyên môn kỹ thuật(CMKT)gồm các trình độ từ sơ cấp đến sau đại học, trong đó: trình độ lao động sơ cấp là 544. 600 người, chiếm 1, 45%;lao động có trình độ trung cấp là 1. 516. 400 người, chiếm 4. 05%; lao động là công nhân kỹ thuật(CNKT) 1. 775. 900 người, chiếm4, 75%;lao động có trình độ cao đẳng trở lên chiếm 3, 1%(so với tổng lực lượng lao động thường xuyên). Lao động có CMKT có xu hướng tăng lên hàng năm, từ 1996-1999, tăng từ 4, 4 lên 5, 2 triệu, bình quân hàng năm tăng 5, 9%, với mức tăng tuyệt đối khoảng 276. 000 người. Số tăng thêm chủ yếu là lao động có trình độ cao đẳng-đại học(CĐ-ĐH)(chiếm 60%)và lao động trình độ CNKT(chiếm 24%). Tuy về số tuyệt đối, nước ta đã có lực lượng LĐCMKT trên 5 triệu người, nhưng so với tổng số lực lượng lao động thường xuyên, tỷ lệ LĐCMKT còn rất thấp, năm 1999 mới đạt13, 87%. So với năm 1996, tỷ lệ LĐCMKT là 12, 29%, cho thấy sau 4 năm tỷ lệ LĐCMKT chỉ tăng thêm được 1, 56%, bình quân hàng năm tăng 5, 6%. Như vậy cho đến nay, vẫn còn gần 86% lao động Việt Nam không có chình độ CMKT. Chất lượng của LĐCMKT còn nhiều bất cập. Lao động không đáp ứng yêu cầu công việc;Chưa được đào tạo đủ trình độ quy định, năng lực thích ứng với việc làm trong nền kinh tế chuyển đổi còn yếu. Tỷ lệ LĐCMKT có trình độ cao thấp, cơ cấu bậc đào tạo mất cân đối với nhu cầu sử dụng. Xét trong tổng số LĐCMKT cả nước, cơ cấu như sau: sơ cấp 10, 9%, CNKT không bằng 16, 8%, CNKT có bằng 17%, trung học chuyên nghiệp (THCN) 30, 4%, cao đẳng đại học 24, 6%, và trên đại học 0, 3%. Như vậy số LĐ có chuyên môn kỹ thuật trình độ sơ cấp và không bằng cấp còn chiếm tới gần 30% trong tổng số LĐCMKT. Tính gộp cả sơ cấp, CNKT không bằng và có bằng là một bậc để so sánh với bậc THCN và bậc cao đẳng đại học(kể cả sau đại học), cơ cấu bậc đào tạo CNKT/THCN/CĐ-ĐH là: 1, 5/1/1 nghĩa là ứng với một lao động có trình độ đại học có 1 lao động trình độ THCN và 1, 5 lao động trình độ sơ cấp và CNKT. So với năm 1996, cơ cấu này là: 1/2, 4/2 ta thấy cơ cấu có su hướng giảm lao động trung cấp và CNKT. So với các nước có mức GDP bình quân đầu người từ 200-300 USD có cơ cấu ĐH/THCN/CNKT là 1/2/7 thì thấy cơ cấu lao động CMKT của ta hiện nay là bất hợp lý, nặng về tăng đại học cao đẳng. Sự bất hợp lý này có nguyên nhân bắt nguồn từ đào tạo. Từ 1990-1998, số học sinh đào tạo mới hệ chính qui dài hạn bậc đại học tăng bình quân hàng năm 20%, trong khi đó số học sinh trung học chuyên nghiệp chỉ tăng 2, 3%, số học sinh học nghề tăng 2, 3%. Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 Tổng số lao động 35866. 2 36296. 9 37407. 2 37783. 5 LLLĐ không có trình độ CMKT Số lượng 31452. 2 31837. 3 32431. 1 32542. 1 Tỷ lệ 87. 69 87. 71 86. 69 LLLĐ có CMKT 4414 4459. 6 4976. 1 5241. 7 Tỷ lệ 12. 31 12. 29 13. 31 13. 87 Trong đó chia theo trình độ đã qua đào tạo Công nhân 1571. 2 1590. 2 1775. 9 1780 Sơ cấp 636. 2 546. 4 544. 6 573 Trung cấp 1378. 3 1380. 1 1516. 4 1590 Cao đẳng, đại học, trên đại học 828. 3 942. 9 1139. 2 1310 LĐCMKT không chỉ mất cân đối về cơ cấu, mà còn phân bổ bất hợp lý. Gần 50% lao động có CMKT tập trung ở Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ, số này chủ yếu lại ở Thành phố Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Việc lao động có trình độ cao thường tập trung ở các thành phố lớn, khu công nghiệp phát triển là hợp lý. Vấn đề là ở chỗ những vùng đó tập trung quá nhiều, gây thất nghiệp, trong khi một số vùng kinh tế đầy tiềm năng phát triển kinh tế như ĐBSCL(chiếm 20% tổng GDP của cả nước), Tây Nguyên... lại thiếu lao động có trình độ CMKT, tỷ trọng LĐCMKT thấp nhất trong cả nước. Còn tỷ lệ đáng kể LĐCMKT thất nghiệp. Năm 1999, tỷ lệ thất nghiệp của lao động có CMKT toàn quốc là 2, 46%, trong đó LĐ trình độ CNKT thất nghiệp là 2, 57%, trung học chuyên nghiệp thất nghiệp 2, 46%, cao đẳng thất nghiệp 3, 82%, đại học thất nghiệp 4, 96%. Như vậy LĐ có trình độ CĐ-ĐH có tỷ lệ thất nghiệp cao hơn THCN và CNKT, đặc biệt có những ngành như máy tính, tỷ lệ thất nghiệp trình độ cao đẳng tới 46, 11%, đại học17, 21%. Tình trạng thất nghiệp của lao động CMKT thành thị còn trầm trọng hơn. Tỷ lệ thất nghiệp chung của LĐCMKT thành thị là 6, 74%, trong đó: dạy nghề là 4, 04%, THCN là 5, 43%, cao đẳng là 6, 54% và đại học là 3, 88%. So với năm 1998, tỷ lê LĐCMKT thất nghiệp ở khu vực thành thị năm1999 đã tăng thêm 1, 9%. LĐCMKT thất nghiệp với tỷ lệ cao trong khi Nhà nước, xã hội hàng năm phải đầu tư hàng nghìn tỷ đồng để mở rộng qui mô đào tạo, đáp ứng nhu cầu nhân lực cho CNH-HĐH là một nghịch lý không thể để tồn tại lâu dài. Với vai trò định hướng phát triển và cân đối nguồn lực Nhà nước cần có giải pháp khắc phục tình trạng mất cân đối về bậc đào tạo, thông qua cải tiến cơ chế, chính sách và phương pháp kế hoạch hoá. 2.1.1.1.6- Thực trạng lao động, việc làm 1991-2000. * Tổng số người có việc làm: tăng từ 30, 9 triệu lên 40, 6 triệu, tức 32, 2%;giai đoạn 1991-2000 số việc làm tăng bình quân 86, 3 vạn/năm, giai đoạn1996-2000 tăng bình quân 1, 2 triệu/năm. * Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị: từ 10% năm 1991, giảm xuống 5, 88% năm 1996. Do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, năm 2000 tỷ lệ này là 6, 5%. * Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn: từ 72, 1% năm 1996, tăng lên 74% năm 2000. * Tỷ lệ lao động qua đào tạo: từ 10% năm 1996, tăng lên 20% năm 2000(trong đó, qua đào tạo nghề khoảng 13, 4% năm 2000). * Cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng tăng lao động cho sản xuất công nghiệp, dịch vụ. * Kết quả sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước: lao động trong khu vực Nhà nước giảm từ 14, 7%(năm 1991) xuống còn 9%(năm 2000). * Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thu hút tạo việc làm cho 33 vạn lao động. 2.1.1.1.7- Trình độ tổ chức cuộc sống: Trình độ tổ chức cuộc sống thể hiện tổng hợp của nhiều tiêu thức phản ánh chất lượng nguồn lao động như: trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn kỹ thuật, các yếu tố về tâm lý tập quán... Mặt khác, nó còn thể hiện năng lực vận dụng các yếu tố mang tính tiềm năng của trình độ đó. Trên thực tế, có người học nhiều đạt trình độ bằng cấp cao trên nhiều mặt, nhưng do không có khả năng vận dụng tốt các tri thức đã tiếp thu được, nên trình độ tổ chức cuộc sống vẫn không đạt kết quả tương xứng, tuy nhiên, số đó không nhiều. + Về tổ chức sản xuất: Ơ các thành phố lớn và các nghành thương mại, dịch vụ, chất lượng nguồn lao động cao hơn nếu xét trên phương diện tổ chức sản xuất. Điều này phụ thuộc vào chất lượng nguồn lao động về trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và điều kiện của ngành và vùng. Điều này cũng biểu hiện ở tiêu thức tổng hợp là mức thu nhập, tỷ lệ đói nghèo của các vùng và các địa phương. Sự đói nghèo được biểu hiện trên các mặt: thiếu lương thực, thiếu tiền chữa bệnh, nhà ở dưới dạng tranh tre, trẻ em phải bỏ học... Những mức độ đó cũng khác nhau theo từng địa phương. + Về tổ chức sinh hoạt: Do yếu tố thu nhập và trình độ của nguồn lao động nên trình độ tổ chức sinh hoạt có sự chênh lệch giữa các ngành, các địa phương. Ơ các vùng nông thôn, ngoại thành hay các ngành nông, lâm nghiệp cuộc sống vật chất, tinh thần của người lao động có nhiều khó khăn hơn các ngành và địa phương khác. Điều này biểu hiện ở phương thức tổ chức sinh hoạt hàng ngày có sự khác nhau. 2.1.1.1.8- Trình độ ý thức pháp luật. So với các tiêu thức khác phản ánh chất lượng nguồn lao động, đây là tiêu thức khó lượng hoá nhất. Tuy nhiên đánh giá trình độ và ý thức pháp luật của nguồn lao động có thể rút ra một số nhận xét: Có sự chênh lệch rất lớn về trình độ và ý thức pháp luật giữa các loại lao động của nguồn lao động. + Về trình độ pháp luật: Những cán bộ làm chức năng quản lý và giám sát pháp luật là chuyên môn chính, họ cần phải trau dồi, còn lại trong tổng nguồn lao động, số cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế và quản trị kinh doanh là nhóm người có trình độ pháp luật cao nhất. Có thể khẳng định phần lớn nguồn lao động chưa được đào tạo cơ bản về kiến thức pháp luật, mà chủ yếu được phổ biến kiến thức pháp luật từng mặt như công nhân được học tập về luật lao động và hợp đồng lao động, qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua các tổ chức quần chúng như luật an toàn giao thông, luật bảo vệ trẻ em, luật bảo vệ rừng... qua hệ thống truyền thanh, truyền hình trung ương và địa phương, qua các hội phụ nữ đoàn thanh niên.... Nhìn chung, sự học tập còn hạn chế do các phương tiện thông tin không đều giữa các vùng, nội dung truyền tải các kiến thức pháp luật không hệ thống... nên trình độ pháp luật của phần lớn người trong nguồn lao động có chất lượng thấp. + Về ý thức pháp luật: ý thức pháp luật phụ thuộc vào trình độ nhận thức pháp luật. Có nhiều vụ vi phạm pháp luật do ý thức pháp luật kém của một bộ phận người dân trong nguồn lao động từ những vi phạm về kinh tế đến vi phạm về những quy định trong kỹ thuật sản xuất... Đặc biệt gần đây, do tác động của cơ chế thị trường nhiều nhà sản xuất vừa vô tình vừa cố ý, đã sử dụng các hoá chất trong sản xuất nông nghiệp như: Thuốc trừ sâu, các hoá chất bảo quản thực phẩm... đã làm giảm chất lượng và giảm độ an toàn thực phẩm, gây ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ của người tiêu dùng. Đơn vị: % Tên ngành Năm 1990 Năm 1997 Ước tính 2000 Công nghiệp 13. 9 12. 33 16. 7 Nông nghiệp 72. 3 68. 8 61. 3 Dịch vụ 13. 8 18. 57 22. 0 Biểu: Cơ cấu kinh tế và cơ cấu của lao động 1986 1988 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1. Dân số 61.11 63.73 66.23 67.77 69.41 71.03 72.51 73.96 75.36 76.71 78.06 Thành thị 19.43 19.87 20.05 20.09 19.14 19.24 19.50 19.71 20.02 20.50 21.07 2. GDP 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 Khu vực I 38.06 46.3 38.74 40.49 33.94 29.87 28.7 27.18 27.76 25.77 25.75 Khu vực II 28.88 23.96 22.67 23.79 27.26 28.9 29.65 28.75 29.73 32.06 32.59 Khu vực III 33.06 29.74 38.59 35.72 38.8 41.23 41.65 44.07 42.51 42.17 41.66 3. Lao động 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 Khu vực I 67.87 70.69 71.58 71.92 72.28 72.39 71.68 69.74 69.22 68.78 Khu vực II 14.29 14.06 13.90 13.60 13.44 13.36 12.93 13.25 12.93 12.52 Khu vực III 17.84 15.25 14.52 14.28 14.28 14.25 15.39 17.02 17.85 18.70 Kinh tế nhà nước 14.7 14.01 11.70 10.12 9.35 9.05 8.70 8.83 8.77 8.90 Tăng giảm* -39.2 -257 -409 -161 -14.8 -32.1 124.8 84.6 153.7 * Dân số tính triệu người, tăng giảm lao động trong khu vực nhà nước đơn vị tính nghìn người. Nguồn: Niên giám thống kê. Chương III Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn lao động 3- Những vấn đề đặt ra với việc nâng cao chất lượng của nguồn lao động. 3.1- Kinh tế thị trường và yêu cầu mới đặt ra về chất lượng nguồn lao động. 3.1.1- Một số vấn đề cơ bản của kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là kiểu tổ chức kinh tế xã hội, ở đó cơ chế kinh tế như là một guồng máy kinh tế tự điều chỉnh toàn bộ quá trình sản xuất hàng hoá, dịch vụ thông qua cạnh tranh, cung cầu, giá cả về số lượng trên thị trường. Đã có nhiều nghiên cứu về thị trường và cơ chế thị trường. Nguồn gốc cơ bản là sự phân công lao động xã hội và một số nhân tố khác đã tạo ra những tiền đề khách quan để kinh tế hàng hoá ra đời và phát triển. Về mặt bản chất, khi nghiên cứu kinh tế thị trường người ta đã tìm ra cơ chế tự điều chỉnh trong hoạt động sản xuất, lưu thông hàng hoá và cho rằng nếu xét trong nền sản xuất hàng hoá thì ở đó tồn tại những phạm trù, quy luật tương ứng. Sự vận động của các phạm trù, quy luật đó sẽ điều chỉnh các hoạt động của sản xuất và lưu thông hàng hoá một cách khách quan. Và vì vậy, người ta thường nhấn mạnh tính chất “tự điều chỉnh của cơ chế thị trường”. Tuy nhiên, các quy luật của sản xuất hàng hoá như quy luật cung cầu và giá cả thị trường, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh là các quy luật kinh tế xã hội, hoạt động của chúng thông qua hoạt động của con người. Con người nhận thức quy luật và vận dụng quy luật phục vụ lợi ích cho mình. Nhận thức quy luật để hiểu rõ cơ chế hoạt động của nó, tìm ra cơ chế vận dụng thích hợp. Vận dụng quy luật là từ cơ chế hoạt động của chúng, tìm ra các điều kiện để quy luật xuất hiện theo xu hướng có lợi cho con người. Từ đó, con người sẽ chủ động tạo ra các điều kiện gắn với các xu hướng vận động có lợi đó. Như vậy, nói tới cơ chế thị trường, một mặt hàm chứa yếu tố tự thân, tự điều chỉnh. Thực chất là sự tự điều chỉnh của các chủ thể kinh tế thông qua ứng xử của họ tới quá trình vận động của các quy luật kinh tế thị trường. Mặt khác, nó còn hàm chứa yếu tố tác động của nhà nước. Tất nhiên, về yêu cầu, đây là sự tác động theo một cơ chế vận dụng phù hợp với yêu cầu các quy luật của cơ chế thị trường và theo những mục đích định sẵn. Nghiên cứu thị trường và cơ chế thị trường trên ba khía cạnh: Về tổ chức thị trường, các quy luật kinh tế thị trường và tính kính thích xã hội hoá sản xuất, có thể rút ra những ưu việt của cơ chế thị trường như sau: Một là: Cơ chế thị trường tự nó đề cao nhu cầu xã hội, đề cao người tiêu dùng, đề cao khách hàng với tư cách là “Thượng đế”của các chủ thể sản suất kinh doanh. Sự đề cao này đã buộc người sản xuất phải hướng tới người tiêu dùng trên các phương diện: Tạo ra các giá trị sử dụng hữu ích, vì người tiêu dùng chỉ bỏ tiền ra khi việc mua hàng hoá đó có ích, phục vụ các nhu cầu thường xuyên đa dạng và biến động với chất lượng cao, giá thành hạ, với phương thức tương ứng thích hợp và thuận tiện. Hai là: Cơ chế thị trường đề cao tự do kinh tế, thừa nhận lợi ích cá nhân với tư cách là những động lực to lớn của sự phát triển kinh tế xã hội. Chính sự đề cao tự do kinh tế cộng với sự thừa nhận lợi ích cá nhân, về mặt tích cực đã tạo ra sự năng động, tính nhạy bén của từng ngành, từng cơ sở kinh tế và từng người lao động, tính nhạy bén của từng ngành, từng cơ sở kinh tế và từng người lao động. Đây vừa là kết quả, vừa là điều kiện cho quy luật cạnh tranh phát huy tính tích cực của nó, vì trong cạnh tranh, bằng cải tiến thiết bị, nâng cao tay nghề công nhân, sự năng động trong tìm kiếm sản xuất các giá trị sử dụng mới là con đường cơ bản để từng doanh nghiệp, từng ngành đạt được lợi nhuận siêu ngạch, Kết quả là doanh nghiệp đạt lợi nhuận cao, người tiêu dùng nhận được hàng hoá với chất lượng tốt, giá trị sử dụng ngày càng phong phú và đa dạng, giá cả hàng hoá ngày càng hợp lý. Ba là: Cơ chế thị trường có sự cạnh tranh quyết liệt, đồng thời các chủ thể kinh tế phải dám chấp nhận rủi ro trong sản xuất kinh doanh. Nó tạo được cơ chế sàng lọc, loại bỏ những công nghệ lạc hậu, doanh nghiệp thua lỗ, loại bỏ những người không có năng lực kinh doanh, đặt con người vào đúng vị trí theo đúng khả năng của họ. Qua đó, nó đã thúc đẩy thị trường, khoa học công nghệ và cả con người phát triển theo hướng ngày càng tiến bộ và hiện đại. Tóm lại: Mô hình kinh tế và vận hành nền kinh tế theo quy luật thị trường đòi hỏi nguồn lao động phải có chất lượng tương ứng ngày càng tăng. Tuy nhiên với kinh tế thị trường, mặt tiêu cực và tiêu cực không ít. Đó là thiếu hàng hoá công cộng, là phân hoá giàu nghèo quá mức, là dẫn tới ô nhiễm môi trường, huỷ hoại môi sinh do chạy theo mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, là lãng phí nguồn lực xã hội bởi khả năng dẫn tới độc quyền. Và cuối cùng, là sự bất bình đẳng về chính trị, kinh tế, xã hội lam cho khả năng vươn lên của mỗi người bị hạn chế đáng kể. Nghĩa là chất lượng nguồn nhân lực cũng bị hạn chế. 3.1.2- Yêu cầu mới về chất lượng nguồn lao động. Từ những vấn đề cơ bản trên về kinh tế thị trường cho thấy, kinh tế thị trường một mặt đòi hỏi đội ngũ nhân lực thuộc các cơ quan quản lý vĩ mô phải đủ năng lực nhận thức và nắm bắt được sự hoạt động của các quy luật tự nhiên, kinh tế, xã hội trong nền kinh tế, xác lập được cơ chế vận dụng phù hợp, từ đó chủ động sử dụng các phạm trù kinh tế, các đòn bẩy kinh tế để điều tiết nền kinh tế theo những mục tiêu định sẵn. Để làm tốt điều này, những người làm công tác quản lý vĩ mô phải có trình độ văn hoá cao để có thể tiếp nhận những tri thức về quản lý kinh tế, đáp ứng yêu cầu quản lý của cơ chế thị trường. Trong quản lý kinh tế việc sử dụng các công cụ đòn bẩy kinh tế trên cơ sở đáp ứng yêu cầu các quy luật khách quan để điều tiết nền kinh tế là phương thức quản lý hữu hiệu. Nhưng điều đó chỉ thực sự được thực hiện khi những người sử dụng nó hiểu biết nó một cách đầy đủ và thông thạo. Đây là phương pháp quản lý gián tiếp, người quản lý tác động đến đối tượng quản lý thông qua điều tiết lợi ích của họ. Trong bối cảnh đối tượng quản lý thông qua điều tiết lợi ích của họ. Trong bối cảnh đối tượng quản lý đã có những thay đổi theo hướng năng động, chủ động hơn thì chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý cần phải nâng cao là yêu cầu cơ bản và cấp bách. Mặt khác đối với người lao động, trong bối cảnh các doanh nghiệp ngày càng đầu tư để nâng cao năng lực sản xuất, trang bị các máy móc hiện đại... nếu không có sự nâng cao năng lực chuyên môn, không nâng cao kỹ năng lao động sẽ bị đào thải khỏi dây truyền sản xuất đó. Thực tế quá trình chuyển nền kinh tế nước ta từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường đã chứng minh rõ điều này. Chính đời sống kinh tế đã chỉ rõ những mặt trái của cơ chế kế hoạch hoá tập trung và thức tỉnh các nhà quản lý để mở ra bước chuyển đổi cơ chế quản lý thông qua chế độ khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động trong nông nghiệp. + Nhóm 1: Những người có kinh nghiệm và trình độ sản xuât kinh doanh. + Nhóm 2: Những người ở mức độ trung bình về trình độ sản xuất kinh doanh. + Nhóm 3: Những người trình độ thấp, không có trình độ kinh doanh, họ phải chuyển quyền sử dụng đất vừa được giao, tự tước bỏ quyền làm chủ trong quá trình sản xuất kinh doanh, phải đi làm thuê ngay chính trên ruộng đất của mình. Đây cũng là xu hướng vận động khá phổ biến trong nông nghiệp, nhất là ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. 3.1.3- Chủ trương phương hướng chung về nâng cao chất lượng nguồn lao động: Đường lối kinh tế của đảng ta là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp;ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa;phát huy cao độ nội lực của cả dân tộc gắn với tận dụng mọi nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững;tăng trưởng kinh tế đi liền với từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường quốc phòng, an ning. -Mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2001-2010 là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tập trung xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng và cong nghệ cao sản xuất tư liệu sản xuất để trang bị và tranh bị lại kỹ thuật công nghệ tiên tiến cho các nghành kinh tế nông nghiệp, dịc

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc236.doc
Tài liệu liên quan