Đề án Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp phân phối bán lẻ Việt Nam trong điều kiện là thành viên của WTO

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP PHÂN PHỐI BÁN LẺ 2

1.1 Khái quát năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 2

1.1.1 Khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 2

1.1.2 Các tiêu chí đánh giá năng lực canh tranh của doanh nghiệp phân phối bán lẻ 4

1.1.2.1 Các chỉ tiêu đánh phản ánh năng lực thị trường 4

1.2 Những yếu tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phân phối bán lẻ 6

1.2.1 Các nhân tố ngoài doanh nghiệp 6

1.2.1.1 Các nhân tố vĩ mô 6

1.2.1.2 Các nhân tố thuộc môi trường ngành 8

1.2.2 Các nhân tố trong nội bộ doanh nghiệp 10

1.3 Những cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO liên quan đến phân phối bán lẻ 11

1.4 Tác động của gia nhập WTO đối với các doanh nghiệp phân phối bán lẻ Việt Nam 12

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP PHÂN PHỐI BÁN LẺ VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIÊN LÀ TRÀNH VIÊN CỦA WTO 14

2.1 Khái quát chung về hệ thống các doanh nghiệp phân bán lẻ Việt Nam từ trước 2006 và từ 2007 đến nay 14

2.1.1 Giai đoạn từ 2006 trở về trước 14

2.1.2 Giai đoạn từ 2007 tới nay 15

2.2 Thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp phân phối bán lẻ Việt Nam 16

2.3 Đánh giá chung về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp phân phối bán lẻ Việt Nam trong quá trình hội nhập WTO 20

2.3.1 Những kết quả đạt được 20

2.3.2 Những hạn chế yếu kém và nguyên nhân 21

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP PHÂN PHỐI BÁN LẺ VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN LÀ THÀNH VIÊN CỦA WTO 24

3.1 Phương hướn phát triển của các doanh nghiệp phân phối bán lẻ Việt Nam trong thời gian tới 24

3.2 Một số giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp phân phối bán lẻ Việt Nam trong thời gian tới 25

3.3 Một số kiến nghị với nhà nước 35

KẾT LUẬN 36

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 37

 

 

doc42 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1646 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp phân phối bán lẻ Việt Nam trong điều kiện là thành viên của WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tầng của doanh nghiệp Quản trị nguồn nhân lực Phát triển công nghệ Mua sắm Cung ứng nội bộ Cung ứng bên ngoài Marketing và Bán hàng Dich vụ Giá trị gia tăng Giá trị gia tăng Hình 1.2: Mô hình chuỗi giá trị doanh nghiệp của Michael Porter Làm khác biệt hóa sản phẩm của mình, quá trình tạo ra giá trị gia tăng của một doanh nghiệp được mô tả như mô hình trên. 1.3 Những cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO liên quan đến phân phối bán lẻ Trong lĩnh vực phân phối, VN không mở cửa thị trường phân phối xăng dầu, dược phẩm, sách báo, tạp chí, băng hình, thuốc lá, gạo, đường và kim loại quí cho nước ngoài. Nhiều sản phẩm nhạy cảm như sắt thép, ximăng, phân bón... chỉ mở cửa thị trường sau ba năm. Quan trọng nhất, VN hạn chế khá chặt chẽ khả năng mở điểm bán lẻ của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Việc mở điểm bán lẻ từ thứ hai trở đi phải được sự cho phép theo từng trường hợp cụ thể. Cụ thể: - Đối với kinh doanh thương mại trong nước: phải thành lập liên doanh với doanh nghiệp VN và phần đóng góp không vượt quá 49% cổ phần. Kể từ 1-1-2008, bỏ qui định về 49% cổ phần. Kể từ 1-1-2009 cho phép lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. - Sau khi gia nhập WTO, các công ty phân phối nước ngoài được phép ủy nhiệm cho các chi nhánh, các dịch vụ bán buôn và bán lẻ các mặt hàng ngoại trừ ximăng và clinker, lốp xe, giấy, máy kéo, các loại xe có gắn động cơ, ôtô và xe máy, sắt thép, các thiết bị nghe nhìn, rượu và phân bón. Kể từ 1-1-2009, các công ty phân phối nước ngoài được phép phân phối các loại máy kéo, xe có động cơ, ôtô và xe máy. Ba năm sau khi gia nhập, các công ty có thể kinh doanh không hạn chế các mặt hàng trên. Tuy vậy, việc lập các điểm bán lẻ từ thứ hai trở lên sẽ phải xin phép cho từng mặt hàng cụ thể. * Đối với việc nhượng thương quyền: Các công ty cũng sẽ phải lập liên doanh với đối tác VN và không nắm giữ quá 49% cổ phần. Kể từ 1-1-2008, hạn chế về 49% được bãi bỏ. Kể từ 1-1-2009, được phép thành lập công ty 100% vốn nước ngoài. 1.4 Tác động của gia nhập WTO đối với các doanh nghiệp phân phối bán lẻ Việt Nam “Việc gia nhập WTO đem lại rất nhiều cơ hội cho Việt Nam mà một trong những cơ hội và cũng là thách thức lớn là việc Việt Nam phải thực hiện cam kết WTO về mở cửa thị trường dịch vụ phân phối bán lẻ“. Ông Nguyễn Thành Biên, Thứ trưởng Bộ Công Thương đã nhận định như vậy tại Hội thảo "Việt Nam- WTO: Mở cửa thị trường trong lĩnh vực dịch vụ phân phối và bán lẻ" do Ủy ban hợp tác kinh tế quốc tế phối hợp với Hiệp hội bán lẻ Việt Nam tổ chức ngày 13-10 tại Hà Nội. Theo Thứ trưởng Nguyễn Thành Biên, hoạt động dịch vụ phân phối, bán lẻ có tầm quan trọng với nền kinh tế Việt Nam bởi lĩnh vực này đóng góp tới trên 15% vào GDP hàng năm. Sau khi gia nhập WTO, hệ thống phân phối và bán lẻ của Việt Nam đã có những thay đổi mạnh mẽ và căn bản với việc xuất hiện những nhà phân phối, bán lẻ chuyên nghiệp cùng hệ thống bán hàng tiện lợi, đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng. Bà Đinh Thị Mỹ Loan, Tổng thư ký Hiệp hội bán lẻ Việt Nam cho biết: Thời gian qua, đã có nhiều tập đoàn, doanh nghiệp phân phối và bán lẻ Việt Nam vươn lên và phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh đó, sự có mặt và kinh doanh thành công của một số doanh nghiệp phân phối và bán lẻ nước ngoài tại thị trường Việt Nam cũng đã tạo ra một môi trường kinh doanh hấp dẫn, kích thích các doanh nghiệp Việt Nam phát triển trong một môi trường kinh doanh bình đẳng tất cả cùng có lợi. Hơn nữa, hoạt động phân phối, bán lẻ trên thị trường Việt Nam chưa bao giờ phát triển sôi động như vào thời điểm này góp phần to lớn vào việc đẩy nhanh lưu thông, phân phối các loại hàng hoá, sản phẩm của doanh nghiệp và nông dân trong cả nước. Theo cam kết gia nhập WTO, Việt Nam sẽ cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong lĩnh vực phân phối và bán lẻ hoạt động trên thị trường Việt Nam. Xu hướng đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ phân phối đang tăng nhanh với sự lớn mạnh của các nhà phân phối nội địa cũng như sự hiện diện nhiều hơn các nhà phân phối và bán lẻ nước ngoài. Cùng đó, cạnh tranh trên thị trường phân phối bán lẻ Việt Nam tăng cao khi xuất hiện nhiều tập đoàn quốc tế. Hiện, các tập đoàn bán lẻ lớn như Metro của Đức, Casino của Pháp, Parkson...đều đã có mặt tại Việt Nam. Tuy nhiên, sự hiện diện của nhiều doanh nghiệp phân phối và bán lẻ nước ngoài đang đặt ra nhiều thách thức như sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn yếu kém; sự thu hẹp thị phần của nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể ảnh hưởng đến công việc làm ăn của hàng vạn người buôn bán nhỏ, xu hướng tiêu dùng hàng ngoại và sức ép nhập siêu gia tăng... CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP PHÂN PHỐI BÁN LẺ VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIÊN LÀ TRÀNH VIÊN CỦA WTO 2.1 Khái quát chung về hệ thống các doanh nghiệp phân bán lẻ Việt Nam từ trước 2006 và từ 2007 đến nay 2.1.1 Giai đoạn từ 2006 trở về trước Theo số liệu của bộ thương tháng 8 năm 2006, kênh phân phối bán lẻ chiếm khoảng 10% tổng mạng lưới phân phối bán lẻ của cả nước. trong đó kênh phân phối hiện đại của Việt Nam ( Thông qua hệ thống siêu thị, cửa hàng tiện ích ) mới chiếm khoảng 16%, còn lại kênh phân phôi truyền thống như chợ, tiệm tạp hóa, cửa hàng bán sỉ, bán lẻ chiếm khoảng 84%. Qua đây ta thấy, hàng hóa Việt Nam còn được phân phối chủ yếu qua chợ và cửa hàng tạp hóa truyền thống. Siêu thị chưa nhiều. Từ đó cho thấy, tâm lý tiêu dùng của người dân chưa quen với phương thức phân phối hiện đại. Có thể nói, giai đoạn từ năm 2006 chở về trước là giai đoạn của kênh phân phối bán lẻ truyền thống. Còn đối với kênh phân phối bán lẻ hiện đại thì phần lớn còn rất non trẻ. Trong khi đó tỷ lệ đầu tư vào lĩnh vực phân phối khoảng 72%, cao hơn rất nhiều so với những ngành khác như: Công nghiệp 20%, Thủy sản: 1%, Nông-lâm-ngư nghiệp:  7%. Mà đa phần các nhà phân phối trong nước vốn ít (55% có vốn dưới 100 triệu đồng). Quy mô doanh nghiệp nhỏ. Hệ thống phân phối yếu kém. Nguồn nhân lực chưa qua đào tạo nhiều. Việc chuyên môn hóa và tính năng quản trị doanh nghiệp chưa thật sự được tập trung do khởi nghiệp từ kinh doanh nhỏ đi lên. Xác định lợi thế cạnh tranh và tập trung vào xây dựng hệ thống phân phối là yếu tố bức thiết, quyết định sự thành, bại của doanh nghiệp thời nay. Quy mô về vốn của nhà phân phối Việt Nam: 14% trên 100 tỷ đồng. 31% dưới 500 triệu đồng. 55% dưới 100 triệu đồng.   Năm 2006 cả nước đã có trên 200 siêu thị, 30 trung tâm thương mại và khoảng 1.000 cửa hàng tiện lợi hoạt động trên 30/64 tỉnh, thành, nhưng quy mô chưa lớn, trình độ quản lý, công nghệ, thiết bị kỹ thuật và phương thức kinh doanh chưa theo được chuẩn mực quốc tế. Mới chỉ có một số đơn vị có phương thức kinh doanh và phân phối tương đối chuyên nghiệp như Tổng công ty Thương mại Sài Gòn SATRA với 40 doanh nghiệp trực thuộc, chuỗi siêu thị Citimax, hệ thống Maxi Mart, G7Mart, Co.opMart Hầu hết các nhà bán lẻ trong nước đều thiếu kinh nghiệm, nguồn lực, trình độ, chuyên môn, vốn và thương hiệu. Trong giai đoạn này, dù thị trường chưa chính thức mở, cũng đã và sẽ có sự góp mặt của một số một số nhà kinh doanh bán buôn và bán lẻ hàng đầu thế giới đã và sẽ có mặt tại Việt Nam như: Metro Cash & Carry (Đức), Big C của Bourbon (Pháp), Parkson thuộc tập đoàn Lion (Malaysia), Zen Plaza (Nhật Bản), Diamond Plaza (Hàn Quốc), Lotte (Hàn Quốc), Tesco (Anh), Walmart (Mỹ), Dairy Farm (Singapore)... Các nhà kinh doanh này với tiềm lực rất lớn về cả vốn và kinh nghiệm là một thách thức lớn mà các doanh nghiệp phân phối bán lẻ Việt Nam phải vượt qua. 2.1.2 Giai đoạn từ 2007 tới nay Ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức gia nhập WTO, là một ngày lịch sử của đất nước. Sự kiện này đã tác động rất lớn đến các doanh nghiệp phân phối bán lẻ và các doanh nghiệp phân phối bán lẻ nói riêng. Sau khi ra nhập WTO, các doanh nghiệp đã xây dựng được mạng lưới bán lẻ văn minh và hiện đại hơn trước nhiều. Siêu thị, cửa hàng tiện lợi, cửa hàng chuyên doanh, cửa hàng giá rẻ, cửa hàng nhượng quyền, cửa hàng tự chọn, cửa hàng phức hợp, trung tâm mua sắm sánh vai về tiêu chuẩn với các nước mọc lên khắp nơi. Song không vì thế mà nó đã đáp ứng được tất cả các tiêu chuẩn quốc tế. Xét về các tiêu chí như vị trí, quy mô diện tích, thiết kế, xây dựng, trang thiết bị nội, ngoại thất, tiện nghi vận hành, hàng hoá, giá cả, dịch vụ kinh doanh, dịch vụ khách hàng, các mô hình này chưa hội đủ những tiêu chuẩn là cơ sở bán lẻ văn minh. Ngày 1/9/2009 Việt Nam sẽ chính thức mở cửa thị trường bán lẻ, cũng chính là thời điểm mà các doanh nghiệp nước ngoài có thể thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Các doanh nghiệp nước ngoài như Metro Cash & Carry (Đức), Walmart (Mỹ), Big C của Bourbon (Pháp) với tiềm lực tài chính, công nghệ và trình độ quản lý, tính chuyên nghiệp cao, có khả năng cung cấp hàng hóa rộng khắp với mức giá hấp dẫn đang chiếm lĩnh thị trường hiện đại. Cuối năm 2008, NPP và bán lẻ điện tử Best Denki (Nhật Bản) thông qua hợp đồng nhượng quyền của Carings, đã đi vào hoạt động với siêu thị điện máy tại tòa nhà Lotte ở quận 7, TP Hồ Chí Minh. Đến đầu năm 2009, Tập đoàn Metro (Đức) đã xây dựng 8 trung tâm phân phối hàng hóa tại các thành phố lớn trên cả nước Trong khi đó, phần lớn các doanh nghiệp phân phối bán lẻ Việt Nam với quy mô vốn ít và năng lực cạnh tranh kém, do phần lớn các doanh nghiệp đều phát triển từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà lên. Do vậy, phần lớn ý kiến đều cho rằng các DN phân phối Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn để cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. 2.2 Thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp phân phối bán lẻ Việt Nam Tạp chí cộng sản điện tử - Thị trường bán lẻ Việt Nam được đánh giá cao bởi yếu tố đông dân, với gần 90 triệu người và đang đứng thứ 13 trên thế giới, lại có nền kinh tế đang có mức tăng trưởng khá, thu nhập bình quân đầu người (GDP) vượt ngưỡng 1000 USD và nền chính trị ổn định, đã trải qua hơn 20 năm đổi mới Bởi vậy, Việt Nam là thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới trong năm 2008, được đánh giá là vượt cả Ấn Độ, Trung Quốc, Nga. Trong năm 2004 – 2005 chi tiêu của người dân Việt Nam tăng 16-18,5%, chi tiêu bình quân đầu người đạt 5,7 triệu đồng (gấp đôi so với mức 2,8 triệu đồng của năm 2000). Doanh số bán lẻ tăng 20%, đạt 335 nghìn đồng (tương đương 21 tỉ USD). Tốc độ tăng trưởng trung bình của ngành đạt 15 – 20%/năm. Tính đến năm 2007 tổng doanh thu bán lẻ đã đạt 44 tỷ USD, tăng 25% so với 2006, 11 tháng 2008 tăng  trên 30,7% so với cùng kỳ năm 2007. Tính đến cuối năm 2005, cả nước có 9.063 chợ; trong đó 6.788 chợ ở nông thôn và 2.275 chợ ở khu vực thành thị. Cũng tính đến năm 2005, cả nước có trên 200 siêu thị, 30 trung tâm thương mại và khoảng 1.000 cửa hàng tiện lợi hoạt động tại 30/64 tỉnh, thành, phần lớn tập trung ở Hà Nội (50) và thành phố Hồ Chí Minh (60). Những năm gần đây số lượng siêu thị, trung tâm thương mại tăng nhanh chóng. Đến nay Vịệt Nam có 400 siêu thị, 60 trung tâm thương mại và gần 2.000 cửa hàng tiện ích. Dự kiến năm 2010 số siêu thị, trung tâm thương mại tăng lần lượt là 62,5% và 150%. Đáng chú ý là các Tập đoàn bán lẻ lớn của nước ngoài cũng đã có mặt tại Việt Nam như Metro Cash & Carry (Đức), Bourbon (Pháp), Seiyu, Parkson (Malaysia). Số siêu thị và Trung tâm thương mại liên doanh với nước ngoài chưa đến 10% nhưng lượng hàng hoá lưu thông rất lớn (khoảng 60%). Tuy nhiên, hệ thống phân phối và bán lẻ tại Việt Nam còn nhiều yếu kém. Những yếu kém này được bộc lộ ở nhiều mặt. Nhìn tổng quát, hệ thống thương mại bán lẻ của nước ta hiện nay còn mang nặng tính đại lý. Hình thức này tuy có thuận lợi là cần ít vốn, phát huy lợi thế lao động dồi dào về số lượng, còn thấp về trình độ kinh doanh, còn thiếu thốn về địa điểm kinh doanh, ít bị rủi ro.... nhưng bản chất là “đi làm thuê” nên hoạt động phụ thuộc rất nhiều vào bên cung cấp, lợi nhuận thu được rất nhỏ bé. Một yếu kém khác là hệ thống bán lẻ của Việt Nam sau khi chuyển đổi từ hệ thống cửa hàng mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán mang nặng tính phân phối theo định lượng, tem phiếu của thời bao cấp sang cơ chế thị trường, được bung ra, nhưng lại mang nặng tính tự phát, cạnh tranh với nhau nhưng thiếu lành mạnh, phong cách bán hàng chưa thoát khỏi tâm lý của người buôn bán nhỏ; tình trạng mất vệ sinh an toàn thực phẩm, buôn gian bán lận, bán hàng giả, trốn thuế, không niêm yết giá, nói thách... diễn ra khá phổ biến. Đó là chưa kể tình trạng buôn bán theo kiểu chụp giật, nâng giá theo kiểu "té nước theo mưa" mỗi khi Nhà nước buộc phải nâng giá như mấy đợt nâng giá xăng dầu trong thời gian qua, hoặc găm hàng chờ tăng giá, lạm dụng vị thế độc quyền nhà nước... Ngoài ra, hiện nay Việt Nam cũng đang rất thiếu các chuyên gia cao cấp để quản lý và điều hành những doanh nghiệp tầm cỡ trong ngành phân phối bán lẻ. Mặt khác, tính chuyên nghiệp của hệ thống phân phối trong nước hiện rất yếu, thể hiện ở việc tổ chức hệ thống phân phối ở từng địa phương, khu vực và toàn quốc chưa đồng bộ, chặt chẽ từ khâu thu mua kiểm định, sơ chế đến đóng gói và bán ra. Công tác xúc tiến thương mại, dự báo thông tin thị trường chưa được quan tâm và chưa chuyên nghiệp, hơn 60% đơn vị kinh doanh chưa sử dụng công nghệ thông tin vào lĩnh vực quản lý và kinh doanh, khoảng 20% mới xây dựng được trang web ở mức độ đơn giản Trong khi các nhà bán lẻ nội địa chạy đua từng ngày một để mở rộng thị phần, chiếm lĩnh thị trường, thì các nhà quản lý vẫn còn ngồi vạch kế hoạch quy hoạch mạng lưới. Một điểm nữa là các doanh nghiệp dịch vụ phân phối trong nước thiếu sự liên kết chiến lược giữa Nhà sản xuất – Nhà phân phối – Nhà bán lẻ để tạo ra các chuỗi cung ứng. Đặc biệt là tính chủ động trong hợp tác liên kết, liên doanh để thu mua, tiêu thụ hàng hoá còn rời rạc, liên kết giữa sản xuất với sản xuất, giữa sản xuất với kinh doanh chưa có sự phân công trách nhiệm rõ ràng, chủ yếu mạnh ai nấy làm, còn thiếu các đại siêu thị, các tổng kho tầm cỡ.     Nhìn chung, cơ hội phát triển hệ thống phân phối và bán lẻ ở Việt Nam còn rất lớn. Trong những năm qua, mặc dù đã có những chuyển biến tích cực sau một thời gian dài bị “khoá” nhưng hệ thống phân phối và bán lẻ ở nước ta vẫn còn nhiều lạc hậu, manh mún. Kênh mua sắm truyền thống vẫn chiếm tỉ lệ khá cao (85%), các nhà phân phối và bán lẻ trong nước thiếu sự liên kết, công nghệ quản lý thấp. Các mô hình phân phối, bán lẻ hiện có ở Việt Nam: Hiện nay, ở nước ta tồn tại các mô hình phân phối và bán lẻ phổ biến sau: Mô hình phân phối và bán lẻ truyền thống: Đây là mô hình phổ biến nhất ở nước ta hiện nay (chiếm 84%). Biểu hiện của mô hình này là các chợ bán lẻ, chợ đầu mối, các phố mua sắm tổng hợp (chủ yếu ở các thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh), các cửa hàng chuyên dụng của nhà sản xuất và của tư nhân (Kinh Đô Bakery, Vissan, Nokia, Sam sung ). Mô hình phân phối và bán lẻ hiện đại: Đây là mô hình chủ yếu chỉ có ở các thành phố lớn, hiện chiếm tỷ trọng rất khiêm tốn trong thị trường phân phối và bán lẻ nước ta (chiếm 10%). Biểu hiện của mô hình này là các siêu thị, trung tâm thương mại và trung tâm mua sắm Mô hình phân phối và bán lẻ điện tử: Đây là mô hình rất hiện đại, áp dụng các thành tựu tiên tiến của khoa học công nghệ thông tin. Tuy nhiên, phương thức thanh toán hiện nay ở Việt Nam còn sơ khai (chủ yếu là giao hàng – lấy tiền mặt). Biểu hiện của mô hình này là E-Commerce, TV Shopping, Telephone Shopping, Online Shopping. Mô hình phân phối và bán hàng trực tiếp: Đây là mô hình chỉ áp dụng trong một số trường hợp cụ thể mang tính chất sự kiện. Biểu hiện của mô hình này là bán hàng theo tài khoản (corporate selling), bán hàng theo dự án, khách hàng lớn (fleet sales).     Mô hình phân phối và bán hàng đa cấp: Đây là mô hình bán hàng khá phổ biến trên thế giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam mô hình này đang bị hạn chế phát triển do các nhà kinh doanh không đảm bảo đạo đức trong hoạt động kinh doanh của mình, gây nhiều thiệt hại cho người tiêu dùng. 2.3 Đánh giá chung về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp phân phối bán lẻ Việt Nam trong quá trình hội nhập WTO 2.3.1 Những kết quả đạt được Sau 1 năm gia nhập WTO, Việt Nam là nước có nền kinh tế phát triển nhanh thứ hai châu Á. Dự báo đến năm 2010, chi tiêu cho bán lẻ tại Việt Nam sẽ đạt tới 50 tỉ USD/năm. Điều đó có nghĩa là trong tương lai, các siêu thị, trung tâm thương mại sẽ dần thay thế các chợ cóc và cửa hàng mặt phố như hiện nay. Ước tính năm 2007 tổng doanh thu bán lẻ đạt 44 tỷ USD, tăng 25% so với 2006, 11 tháng 2008 tăng  trên 30,7% so với cùng kỳ năm ngoái. Thị trường hấp dẫn Mặc dù hiện nay, hình thức kinh doanh truyền thống vẫn đang là nền tảng của thị trường kinh doanh bán lẻ (với 90% hàng hóa được lưu thông tại các chợ truyền thống và những cửa hàng mặt tiền), tuy nhiên, hình thức này cũng đang thay đổi: nếu như năm 1995, Việt Nam chỉ có 10 siêu thị và 2 trung tâm thương mại, thì năm 2007 đã có ít nhất 140 siêu thị/đại siêu thị, 20 trung tâm thương mại và gần một triệu mét vuông mặt bằng kinh doanh bán lẻ đang được đầu tư phát triển. Số lượng siêu thị, trung tâm thương mại tăng nhanh chóng. Đến nay Vịệt Nam có 400 siêu thị, 60 trung tâm thương mại và gần 2.000 cửa hàng tiện ích. Dự kiến năm 2010 số siêu thị, trung tâm thương mại tăng lần lượt là 62,5% và 150%. Sở dĩ có sự thay đổi nhanh chóng này là do cùng với tốc độ phát triển nhanh của nền kinh tế thì Việt Nam có khoảng 70% dân số hiện đang trong độ tuổi dưới 35, trong đó một số lượng lớn những công dân thành thị trẻ tuổi thu nhập cao và có thị hiếu ngày một sành điệu hơn. Tại khu vực thành thị, số hộ gia đình có thu nhập 600USD - 1.000USD/tháng đang tăng lên nhanh chóng; tiếp sau đó là những hộ gia đình có thu nhập trên 1.000USD/tháng. Thu nhập tăng và văn hóa tiêu dùng đang dần dần xuất hiện đã thúc đẩy sức tiêu dùng gia tăng, chi tiêu cho các loại hàng tiêu dùng tăng 20% mỗi năm. Năm 2000, chi tiêu cho bán lẻ tại Việt Nam mới đạt 15 tỉ USD; năm 2006 đạt 36 tỉ USD và đến năm 2010 dự kiến con số này sẽ vượt 50 tỉ USD. Theo phân tích của các chuyên gia trong lĩnh vực bán lẻ của Công ty tư vấn bất động sản quốc tế CBRE, đến năm 2011 gần ¾ dân số (69%) sẽ nằm trong độ tuổi từ 15 đến 64, và môi trường kinh doanh bán lẻ của Việt Nam dự đoán sẽ trưởng thành cùng với thế hệ những người tiêu dùng trẻ, tạo nên cuộc cách mạng về thị trường kinh doanh bán lẻ tại khắp các khu vực thành thị của Việt Nam. 2.3.2 Những hạn chế yếu kém và nguyên nhân Song song với thuận lợi luôn là những khó khăn, bên cạnh những điểm mạnh luôn là những điểm hạn chế, qua phân tích và đánh giá trong các phần trên, chúng ta có thể nhận thấy một số điểm còn hạn chế của các doanh nghiệp phân phối bán lẻ của Việt Nam trong những năm qua cùng các nguyên nhân của chúng như sau: Một là, các đơn vị bán lẻ trong nước còn chưa nhiều,lại thiếu tính chuyên nghiệp và vốn ít; hệ thống hậu cần như kho bãi, xe chuyên dùng, nguồn hàng rời rạc, thiếu đồng bộ và chưa đạt chuẩn; hạ tầng giao thông kém... Nguyên nhân của vấn đề này là do các doanh nghiệp phân phối bán lẻ Việt Nam vẫn còn rất non trẻ,và phần lớn các doanh nghiệp đều phát triển từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mặt khác, với sự góp mặt của các doanh nghiệp nước ngoài với tiềm lực tài chính lớn nên việc cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài để có các vị trí thuận lợi ngày càng khó khăn hơn. Bên cạnh đó,Chính phủ hầu như chưa phát huy được vai trò của mình trong việc định hướng cũng như giúp đỡ các doanh nghiệp trong nước. Điển hình là việc cấp giấy phép hoạt động cho các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài nhìn lại ta sẽ thấy hầu hết những siêu thị, trung tâm thương mại nước ngoài đều chọn được những vị trí đẹp nhất, gần vị trí trung tâm, nơi tập trung dân cư, giao thông thuận tiện, mặt bằng rộng Hai là, đối với doanh nghiệp và hộ kinh doanh Việt Nam đó là năng lực cạnh tranh của từng doanh nghiệp yếu vì đại bộ phận các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, trình độ quản lý lạc hậu, phương thức kinh doanh chưa tiên tiến, cơ sở hạ tầng kinh doanh chưa hiện đại, chiến lược kinh doanh chưa được quan tâm đúng mức. Ba là, các doanh nghiệp phân phối bán lẻ Việt Nam còn thiếu chiến lược phân phối lâu dài và mạng lưới bán hàng chuyên nghiệp. Yếu tố này ta có thể dễ dàng nhận thấy là do các doanh nghiệp phân phối bán lẻ Việt Nam nói riêng và hệ thống phân phối bán lẻ Việt Nam nói chung còn rất non trẻ. Chính vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn yếu về năng lực tài chính để xây dựng cho mình một mạng lưới bán hàng chuyên nghiệp. Cùng với đó là sự thiếu kinh nghiệm trong nghiên cứu và xây dựng chiến lược phát triển lâu dài. Bốn là, hiện nay Việt Nam cũng đang rất thiếu các chuyên gia cao cấp để quản lý và điều hành những doanh nghiệp tầm cỡ trong ngành phân phối bán lẻ. Nguyên nhân gây lên hạn chế này là do các doanh nghiệp phân phối bán lẻ Việt Nam chưa thực sự coi trọng vấn đề nguồn nhân lực, chưa coi nhân lực là yếu tố chính trong việc tạo ra giá trị cho mình. Ngoài ra, tuy Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào nhưng số lượng lao động được đào tạo bài bản, có chất lượng cao lại không nhiều, không đủ đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp. Năm là, các doanh nghiệp dịch vụ phân phối trong nước thiếu sự liên kết chiến lược giữa Nhà sản xuất – Nhà phân phối – Nhà bán lẻ để tạo ra các chuỗi cung ứng. Đặc biệt là tính chủ động trong hợp tác liên kết, liên doanh để thu mua, tiêu thụ hàng hoá còn rời rạc, liên kết giữa sản xuất với sản xuất, giữa sản xuất với kinh doanh chưa có sự phân công trách nhiệm rõ ràng, chủ yếu mạnh ai nấy làm. CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP PHÂN PHỐI BÁN LẺ VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN LÀ THÀNH VIÊN CỦA WTO 3.1 Phương hướn phát triển của các doanh nghiệp phân phối bán lẻ Việt Nam trong thời gian tới - Phát triển đa dạng các loại hình doanh nghiệp với nhiều quy mô khác nhau, tăng về số lượng, mới về phương thức hoạt động theo hướng hiện đại và chuyên nghiệp, phù hợp với quy luật của lưu thông hàng hoá.      Đổi mới mô hình tổ chức, công nghệ quản lý và phương thức kinh doanh theo hướng chuyên nghiệp hoá, hiện đại hoá để từng bước xây dựng các loại hình doanh nghiệp thương mại chủ yếu sau đây:      + Các tập đoàn, công ty mẹ - con kinh doanh hàng hoá chuyên ngành;      + Các tập đoàn, công ty mẹ - con kinh doanh hàng hoá tổng hợp;      + Các công ty thương mại bán lẻ hiện đại;     + Các công ty thương mại bán buôn hiên đại;     + Các công ty kinh doanh dịch vụ logistics;     + Các công ty (hoặc hợp tác xã) quản lý và kinh doanh chợ;     + Các công ty cổ phần sản xuất, chế biến, tiêu thụ hàng nông sản, thực phẩm;     +Các hợp tác xã thương mại và dịch vụ nông thôn; + Các hộ kinh doanh thương mại.  - Phát triển đa dạng các loại hình kết cấu hạ tầng thương mại, kết hợp hài hoà giữa thương mại truyền thống với thương mại hiện đại, phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của thị trường trên từng địa bàn (khu vực, vùng, miền và cả nước).  Căn cứ vào đặc điểm thị trường trên từng địa bàn và gắn với từng không gian kinh tế, các loại hình kết cấu hạ tầng thương mại được phân bố, phát triển với các quy mô, tính chất và trình độ khác nhau theo các định hướng chủ yếu sau đây:  a) Các loại hình chợ truyền thống và các loại hình bán buôn hiện đai:     - Chợ nông thôn;     - Chợ thành thị;     - Chợ biên giới, chợ cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu;     - Chợ đầu mối tổng hợp hoặc chợ chuyên doanh phát luồng bán buôn;     - Sàn giao dịch, trung tâm đấu giá;      b) Các loại hình thương mại hiện đại:      - Trung tâm thương mại, siêu thị;      - Khu mua sắm, khu thương mại - dịch vụ tập trung;      - Trung tâm logistics, tổng kho bán buôn;     - Siêu thị ảo, chợ ảo, nhà mua bán trung gian trên mạng Internet. 3.2 Một số giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp phân phối bán lẻ Việt Nam trong thời gian tới Các doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ hiện đại cần hoạch định và thực hiện chiến lược kinh doanh, chiến lược marketing một cách chuyên nghiệp, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, xây dựng chính sách chất lượng, tăng cường trang thiết bị hiện đại phục vụ kinh doanh, xây dựng và phát triển thương hiệu, đầu tư đào tạo nguồn nhân lựcđể tạo dựng niềm tin đối với khách hàng, nâng cao hiệu quả kinh doanh, giữ vững và phát huy vị thế cạnh tranh trên thị trường. Nhà nước cần sớm xây dựng định hướng, chiến lược cho sự phát triển của hệ thống phân phối cả về hạ tầng thương mại, hệ thống pháp lý, đào tạo nhân lực... tạo môi trường ổn định cho DN phát triển. Bên cạnh đó, cần có chính sách ưu đãi, khuyến khích DN trong nước đầu tư đổi mới và mở rộng hệ thống phân phối bằng các nguồn vốn ưu đãi trong các chương trình phát triển, có chính sách ưu đãi về thuế và đất đai, đổi mới công nghệ cũng như được hỗ trợ về thông tin thị trường, dự báo giá cả và xúc tiến thương mại. 3.2.1 Xây dựng chuỗi bán lẻ hiện đại với tính chuyên nghiệp cao Ví dụ điển hình đang hoạt động rất có hiệu quả đó là chuỗi siêu thị Sài Gòn Co.op.Các doanh nghiệp trong ngành nên tiến hành nghiên cứu để xây dựng những chuỗi riêng cho mình,trên cơ sở đó nhanh chóng mở rộng thị phần bán lẻ. Phát triển doanh nghiệp kinh doanh chuỗi để thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư khác nhau nhằm phát triể

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2279.doc
Tài liệu liên quan