Đề án Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh ở Việt Nam

MỤC LỤC

Trang

Lời nói đầu 1

Chương I : Cơ sở lý luận 2

1. Cạnh tranh là gì? 2

2. NHTM và các hoạt động cơ bản của NHTM: 3

2.1. Ngân hàng thương mại: 3

2.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng. 4

3. Các yếu tố nâng cao năng lực cạnh tranh. 9

3.1. Quy mô vốn chủ sở hữu: 9

3.2. Hệ thống thông tin. 10

3.3. Khả năng cung ứng dịch vụ ngân hàng. 11

3.4. Chiến lược khách hàng. 12

3.5. Chất lượng nhân viên ngân hàng. 13

Chương II : Cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng ở việt nam 16

1. Hoạt động kinh doanh của NHTM Việt Nam. 16

1.1. Tổng quan về hệ thống NHTM Việt Nam. 16

1.2. Hoạt động cho vay của các NHTM. 18

1.3. Các dịch vụ của ngân hàng thương mại 20

2. Cạnh tranh giữa các ngân hàng. 21

Chương III. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh ở việt nam 24

1. Giải pháp đối với các NHTM. 24

1.1. Bổ sung tăng vốn chủ sở hữu. 24

1.2. Hệ thống thông tin. 24

1.3. Mở rộng các loại dịch vụ ngân hàng. 25

1.4. Chiến lược khách hàng. 25

1.5. Đào tạo cán bộ, nhân viên ngân hàng. 26

1.6. Cơ sở vật chất, địa điểm giao dịch, tác phong nhân viên. 27

2. Vai trò của ngân hàng nhà nước trong hoạt động cạnh tranh của các NHTM. 28

Kết luận 29

 

doc30 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1420 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nguồn vốn, bổ sung vào vốn. Hay khi Nhà nước phát hành công trái thì thường nhờ các ngân hàng, thông qua NHTM làm trung gian tiêu thụ các chứng khoán có giá đó, và được nhận số tiền thù lao tỷ lệ quy định từ người phát hành. Nghiệp vụ này ngày càng phát triển trong nền kinh tế hiện đại. 3. Các yếu tố nâng cao năng lực cạnh tranh. Hoạt động của các NHTM rất phong phú và đa dạng nên có rất nhiều yếu tố ảnh hưởn đến khả năng cạnh tranh của mỗi ngân hàng (bao gồm cả yếu tố chủ quan và khách quan). Hơn nữa, các quan điểm khác nhau cũng sẽ dẫn đến các cách phân chia yếu tố nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi ngân hàng khác nhau. Vì khuôn khổ đề án có hạn và kiến thức hạn chế, em xin chỉ đề cập đến một vài yếu tố cơ bản sau: 3.1. Quy mô vốn chủ sở hữu: Vốn chủ sở hữu của NHTM đóng vai trò sống còn trong việc duy trì các hoạt động thường nhật và bảo đảm cho ngân hàng khả năng phát triển lâu dài. Nguồn vốn này đóng vai trò là một tấm đệm giúp chống lại rủi ro phá sản, vì vốn giúp trang trải những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ cho tới khi ban quản lý có thể tập trung giải quyết các vấn đề và đưa ngân hàng trở lại trạng thái hoạt động sinh lời. Vốn tạo niềm tin cho công chúng và là sự đảm bảo đối với chủ nợ (kể cả người gửi tiền) về sức mạnh tài chính của ngân hàng. Ngân hàng cần phải đủ mạnh để có thể đảm bảo với những người đi vay rằng ngân hàng có thể đáp ứng được các nhu cầu tín dụng của họ ngay cả trong điều kiện nền kinh tế đang gặp khó khăn. Hơn nữa, quy mô vốn lớn mạnh sẽ giúp cho ngân hàng huy dộng được nhiều vốn hơn, do các khách hàng thường có quan niệm gửi tiền vào các ngân hàng lớn thì sẽ yên tâm hơn. Vốn cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển của các hình thức dịch vụ mới, cho những chương trình và trang thiết bị mới. Khi một ngân hàng phát triển, nó cần vố bổ sung để thúc đảy tăng trưởng và chấp nhận rủi ro gắn với sự ra đời của những dịch vụ mới và những trang thiết bị mới. Sự bổ sung vốn sẽ cho phép ngân hàng mở rộng trụ sở, xây dựng thêm những văn phòng chi nhánh để theo kịp với sự phát triển của thị trường và tăng cường chất lượng phục vụ khách hàng. Vốn được xem như một phương tiện điều tiết sự tăng trưởng, giúp đảm bảo rằng sự tăng trưởng của một ngân hàng có thể được duy trì ổn định, lâu dài. Có nghĩa là vốn ngân hàng cần phải được phát triển tương ứng với sự tăng trưởng của danh mục cho vay và của những tài sản rủi ro khác. Ngoài ra, quy mô vốn lớn giúp cho ngân hàng có thể đáp ứng được mọi nhu cầu về vốn của doanh nghiệp. Với các khoản cho vay kinh doanh giá trị lớn thì chỉ có những ngân hàng hàng đầu với trạng thái vốn chủ sở hữu dồi dào mới có thể đáp ứng được. Những ngân hàng có quy mô vốn giảm sút sẽ mất đàn vị trí trên thị trường cho vay kinh doanh giá trị lớn. Như vậy, quy mô vốn của một ngân hàng càng cao khả năng tham gia vào thị trường càng lớn và ngược lại. Hay nói cách khác, quy mô vốn của một ngân hàng xác định phạm vi cạnh tranh của ngân hàng đó. 3.2. Hệ thống thông tin. Khó có thể tưởng tượng nổi một doanh nghiệp kinh doanh trong môi trường luôn biến động và cạnh tranh gay gắt như ngày nay mà không cần đến thông tin. Thông tin đã trở thành vấn đề thiết yếu, không thể thiếu bởi các lý do sau: - Thông tin là cơ sở quan trọng trong hoạch định chiến lược kinh doanh cũng như xây dựng kế hoạch tác nghiệp mang tính khả thi cao. - Thông qua thông tin p0hản hồi người quản lý theo dõi được tốc độ thực hiện kế hoạch, phát hiện những lệch lạc trong xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch; từ đó đưa ra những điều chỉnh kịp thời. - Dựa vào thông tin trong quá khứ, hiên tại và các phương pháp dự đoán thích hợp, người quản lý tiên đoán được hiện tượng trong tương lai, giúp cho họ chủ động hơn trong điều hành công việc. Có hai luồng thông tin cơ bản mà người quản lý quan tâm. Đó là thông tin bên ngoài doanh nghiệp và thông tin bên trong doanh nghiệp. Luồng thông tin bên ngoài sẽ cung cấp cho người quản lý những diễn biến thay đổi của môi trường kinh tế, dân số, văn hoá, xã hội, chính trị, luật pháp, tự nhiên, công nghệ, đối thủ cạnh tranh, nhu cầu khách hàng... từ đó người quản lý sẽ thấy được các cơ hội kinh doanh tốt cũng như những mối đe doạ đối với ngân hàng mình. Luồng thông tin bên trong cung cấp cho người quản lý biết rõ các điểm mạnh và điểm yếu của các nguồn lực khác nhau trong ngân hàng mình. Trên cơ sở hai luồng thông tin đó, người quản lý có thể dự đoán trước được những điều gì sẽ xảy ra đối với ngân hàng mình nếu cứ tiếp tục kinh doanh như hiện tại và chủ động đề ra các phương án huy động các nguồn lực một cách tối ưu nhất, nhằm đối phó thành công với những biến đổi bất lợi của môi trường kinh doanh, giữ vững vị thế cạnh tranh của ngân hàng mình. Ngày nay thông tin được sử dụng như một nguồn lực kinh tế, một vũ khí trong môi trường cạnh tranh. Các tổ chức kinh tế nói chung, ngân hàng nói riêng phải sử dụng thông tin ngày càng nhiều để tăng năng lực, tăng hiệu quả trong hoạt động và đem lại lợi ích cho nền kinh tế cũng như cho ngân hàng. 3.3. Khả năng cung ứng dịch vụ ngân hàng. Khả năng cung ứng dịch vụ ngân hàng thể hiện ở việc phục vụ kịp thời, thuận tiên và tính linh hoạt của dịch vụ. Muốn vậy, các ngân hàng phải mở rộng và nâng cao chất lượng, hiệu quả các dịch vụ ngân hàng hiện có, đồng thời đa dạng hoá các sản phẩm cung cấp cho nền kinh tế và các kênh phân phối dịch vụ với công nghệ tiên tiến. Các ngân hàng mạnh không chỉ thể hiện ở chỗ cung ứng một khối lượng tín dụng lớn cho thị trường mà là ở chỗ phương thớc cấp tín dụng như thế nào. Đối với các ngân hàng tiên tiến, họ cấp tín dụng cho các doanh nghiệp với một lãi suất đầu vào - đầu ra tối thiểu, bùlại họ có rất nhiều nguồn thu nhập từ các dịch vụ khác, giúp cho doanh nghiệp chuyển tải vốn vay một cách kịp thời đúng lúc, đúng nơi và trôi chảy. Hơn nữa một doanh nghiệp kinh doanh đa năng sẽ có nhiều lợi thế trong nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh bởi vì: - Đa dạng hoá nghiệp vụ giúp ngân hàng phân tán và giảm rủi ro. Theo nghiệp vụ truyền thống và cổ điển, ngân hàng thu lợi nhuận chủ yếu từ hoạt động tín dụng, nhưng tín dụng lại là lĩnh vực chứa đựng nhiều rủi ro và bất trắc. Vì thế, thực hiện kinh doanh nhiều nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng khác bên cạnh nghiệp vụ tín dụng sẽ giúp phân tán và giảm rủi ro. - Đa dạng hoá nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng sẽ làm tăng lợi nhuận của NHTM: khi thực hiên đa dạng hoá nghiệp vụ, dịch vụ NHTM sẽ sử dụng triệt để, có hiệu quả cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ của mỗi ngân hàng; do vậy giảm chi phí quản lý và chi phí hoạt động, tăng lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp. - Chỉ khi thực hiện đa dạng hoá nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng mới cung cấp đượcnhiều loại dịch vụ ngân hàng một cách nhanh chóng, linh hoạt, có chất lượng cho khách hàng và cho nền kinh tế. Hơn nữa, việc phục vụ khách hàng theo phương thức “trọn gói” bao giờ cũng ưu việt hơn phương thức riêng lẻ. - Tăng khả năng cạnh tranh của NHTM trong nền kinh tế thị trường: để thu hút được nhiều khách hàng hơn, các ngân hàng phải thay đổi, cải tiến hoạt động sao cho đáp ứng kịp thời, thuạn tiên các nhu cầu của khách hàng. Những ngân hàng hoạt động đơn điêu dễ bị phá sản hoặc tự đóng cửa do không dễ dàng chuyển hướng kinh doanh hay giữ cho ngân hàng luôn hoạt động ổn định. Ngoài việc đa dạng hoá dịch vụ thì đa dạng hoá các kênh phân phối cũng là một trong những yếu tố quan trọng trong việc nâng coa khả năng cạnh tranh của mỗi ngân hàng. Đa dạng hoá các kênh phân phối sẽ giúp cho các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng nhanh chóng đến tay khách hàng. 3.4. Chiến lược khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng chính là người đóng vai trò quyết định sự tồn tại hay không tồn tại của một công ty, một tổ chức hoặc cá nhân tiến hành kinh doanh, cung cấp các sản phẩm dịch vụ trong thị trường. Khách hàng là người lựa chọn sản phẩm, hãng kinh doanh trên thị trường phù hợp với nhu cầu của mình. Nếu doanh nghiệp sản xuất ra những sản phẩm không phù hợp với thị trường thì dù cho sản phẩm đó có chất lượng tốt đến đâu đi chăng nữa nó cũng không thể tiêu thụ được, doanh nghiệp sẽ lỗ thậm chí sẽ phá sản. Trong kinh doanh ngân hàng cũng vậy, sự thành công hay thất bại của ngân hàng đều liên quan đến khách hàng. Khách hàng có quyền chọn bất kỳ một ngân hàng nào để gửi tiền, vay tiền hoặc giao dịch. Trước đây, khi chưa có sự thay đổi trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, ngân hàng quốc doanh giữ vai trò độc quyền. Khách hàng muốn có vốn vay hoặc đầu tư bắt buộc phải đến một ngân hàng nhất định tuỳ theo từng lĩnh vực như ngân hàng Công thương Việt Nam chuyên cho vay trong lĩnh vực công nghiệp, thương nghiệp, ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chuyên cho vay trong lĩnh vực nông nghiệp... Khách hàng không có quyền lựa chọn nên các ngân hàng không cần phải quan tam đến khách hàng, họ chỉ cung cấp những dịch vụ mà họ có. Ngày nay, với sự thay đổi lớn trong hệ thống ngân hàng và sự xuất hiện của hàng chục ngân hàng mới, cạnh tranh trong kinh doanh ngân hàng ngày càng trở nên khốc liệt. Nếu các ngân hàng không quan tâm đến nhu cầu của khách hàng, đến khả năng phục vụ, cách tiếp thị, giới thiệu sản phẩm và ngân hàng mình... hay nói ngắn gọn hơn là quan tâm đến chiến lược khách hàng, thì các ngân hàng đó khó mà tồn tại và phát triển được. Các nhà ngân hàng buộc phải chủ động quan tâm đến việc đáp ứng nhu cầu và mong muốn của khách hàng, ngân hàng cần phải nắm bắt nhanh chóng, chính xác nhu càu của khách hàng để có thể đáp ứng kịp thời. Hơn nữa, sản phẩm mà các ngân hàng cung cấp cho khách hàng thường ít có tính khác biệt, vì vậy chỉ cần ngân hàng có chiến lược khách hàng tốt như thái độ nhân viên hoà nhã, dịch vụ thuân tiện, quảng cáo rộng rãi...thì ngay lập tức ngân hàng sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn. 3.5. Chất lượng nhân viên ngân hàng. Chúng ta đều biết ngân hàng thuộc ngành kinh doanh dịch vụ, vì vậy có thể nói chất lượng nhân viên ngân hàng là một yếu tố quan trọng để kiến tạo sức mạnh cạnh tranh của các NHTM. Nhân viên ngân hàng là người trực tiếp thực hiện các chiến lược kinh doanh (bao gồm cả chiến lược cạnh tranh) của các NHTM. Trong quá trình giao dịch trực tiếp với khách hàng, nhân viên ngân hàng chính là một “hiện hữu” chủ yếu của dịch vụ. Vì vậy với kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn, nhân viên ngân hàng có thể làm tăng thêm giá trị cho dịch vụ cũng như làm giảm đi, thậm chí làm hỏng giá trị của dịch vụ. Bằng việc gây thiện cảm với khách hàng trong quá trình giao dịch, nhân viên ngân hàng đã trực tiếp tham gia quá trình xúc tiến bán dịch vụ. Đa số các ý tưởng cải tiến dịch vụ hoặc cung ứng dịch vụ được đề xuất bởi một nhân viên ngân hàng. Là lực lượng chủ yếu chuyển tải những thông tin tín hiệu từ thị trường, từ khách hàng, từ đối thủ cạnh tranh đến các nhà hoạch định chính sách ngân hàng. Nhân viên ngân hàng có trình độ chuyên môn cao thì sẽ làm giảm rủi ro trong các khoản vay. Ngoài ra, họ còn có khả năng thực hiện tốt vai trò tư vấn, giúp đỡ khách hàng trong việc thực hiện các dự án, phương án sản xuất kinh doanh. Tóm lại, chất lượng nhân viên ngân hàng càng cao, lợi thế cạnh tranh của ngân hàng càng lớn. 3.6.Các yếu tố khác. - Hiện đại hoá công nghệ: hiện đại hoá công nghệ sẽ giúp cho ngân hàng nâng cao chất lượng dịch vụ, đảm bảo phục vụ khách hàng một cách nhanh chóng, chính xác. Ngoài ra, công nghệ hiện đại còn giúp cho ngân hàng mở rộng thêm loại hình dịch vụ cũng như thị trường hoạt động của mình. - Vị trí, địa điểm kinh doanh: ngân hàng có địa điểm kinh doanh tốt, ở những nơi tập trung dân cư, gần những trung tâm thương mại lớn sẽ có nhiều khả năng tiếp cận với khách hàng hơn. Nếu ngân hàng đặt trụ sở ở cạnh ngân hàng khác có nhiều ưu thế hơn hoặc nơi đặt trụ sở không phù hợp thì sẽ gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh, làm giảm khả năng cạnh tranh. - Danh tiếng và uy tín ngân hàng: được tạo ra từ chính mức độ thoả mãn của khách hàng trong các lần giao dịch trước, từ những người quen biết, truyền miệng, từ quảng cáo... Dịch vụ ngân hàng là vô hình, khách hàng không thể thử trước dịch vụ mình định mua, vì vậy cơ sở dẫn đến quyết định giao dịch với ngân hàng của khách hàng là hoàn toàn dựa vào danh tiếng và uy tín của ngân hàng. Vì thế đây là nguồn lực vô hình có giá trị lớn lao tạo nên sức mạnh cạnh tranh cho các NHTM. - Giá cả dịch vụ: cơ chế lãi suất hợp lý sẽ là một cơ hội để huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế đồng thời NHTM sẽ phải hạ thấp lãi suất đầu ra nhằm tăng trưởng tín dụng trên cơ sở hạn chế tối đa các chi phí không cần thiết. Chương II : Cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng ở việt nam 1. Hoạt động kinh doanh của NHTM Việt Nam. 1.1. Tổng quan về hệ thống NHTM Việt Nam. Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã phát triển và biến đổi qua một quá trình lịch sử lâu dài, đến nay nó bao gồm nhiều loại hình NHTM với những hình thức sở hữu khác nhau, tổ chức và hoạt động dưới một hành lang pháp lý với văn bản quy phạm pháp luật cao nhất là luật các tổ chức tín dụng. Theo luật các tổ chức tín dụng cũng như trên thực tiễn hiện nay, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã bao gồm nhiều loại hình ngân hàng khác nhau: ngân hàng quốc doanh (100% sở hữu của Nhà nước); chi nhánh ngân hàng nước ngoài (100% sở hữu của ngân hàng nước ngoài); ngân hàng liên doanh (sở hữu hỗn hợp giữa ngân hàng Việt Nam và ngân hàng nước ngoài); ngân hàng cổ phần (sở hữu cổ phần giữa Nhà nước, nhân dân, có thể có sở hữu cổ phần của nước ngoài); ngân hàng hợp tác (sở hữu tập thể). Tính đến thời điểm 31.7.1999, hệ thống NHTM Việt Nam có 6 ngân hàng quốc doanh, 51 NHTM cổ phần, 4 ngân hàng liên doanh và 22 chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Ngân hàng quốc doanh: trong số 6 ngân hàng quốc doanh, chúng ta có 4 NHTM quốc doanh (ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, ngân hàng Công thương Việt Nam, ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam). Các NHTM quốc doanh hoạt động kinh doanh đa năng, phục vụ mọi ngành, mọi lĩnh vực. Còn 2 ngân hàng quốc doanh là Ngân hàng phục vụ người nghèo và ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long được thành lập nhằm các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước, hoạt động với tư cách là ngân hàng chuyên doanh hoặc ngân hàng chính sách. Do ưu thế về vốn, mạng lưới và kinh nghiệm hoạt động lâu năm với độ an toàn cao hơn và là ngân hàng của Chính phủ nên các ngân hàng quốc doanh luôn phát huy được vai trò chủ đạo của mình trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ và hoạt động ngân hàng, góp phần ổn định và phát triển kinh tế, chính trị và thực thi chính sách tiền tệ của nhà nước. Trong quá trình hoạt động, các ngân hàng quốc doanh không ngừng hoàn thiện và phát triển quy mô, vốn, tổ chức và hoạt động, đáp ứng nguồn vốn cho nền kinh tế, đa dạng hoá các nghiệp vụ ngân hàng, mở rộng quan hệ quốc tế. Các ngân hàng quốc doanh có mạng lưới rộng khắp trong cả nước phục vụ cho phát triển kinh tế, bên cạnh các hoạt động kinh doanh ngân hàng, các ngân hàng quốc doanh còn thực hiện các mục tiêu chính sách kinh tế xã hội của nhà nước. Hoạt động kinh doanh của các ngân hàng này đều có lãi, tuy nhiên tỉ lệ lãi có khác nhau. Các ngân hàng này đều đóng góp cho ngân sách những khoản thu khá lớn. Cơ sở vật chất và công nghệ bước đầu đã được hiện đại hoá. Hoạt động của ngân hàng quốc doanh hiện đang chiếm trên 70% thị phần trong phạm vi cả nước về cung ứng vốn và các dịch vụ ngân hàng. Tuy vậy, trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, các ngân hàng quốc doanh cần phải nhanh chóng giải quyết được những tồn đọng về công nợ, phải tăng thêm vốn nhiều hơn, phát triển công nghệ và dịch vụ mạnh hơn mới duy trì được vai trò chủ đạo của mình. NHTM cổ phần: là một loại hình tài chính tín dụng được tổ chức dưới hình thức sở hữu cổ phần trong đó có vốn góp của nhà nước và nhân dân. Với tư cách là NHTM, NHTM cổ phần hoạt như NHTM đa năng. Các ngân hàng cổ phần hiện nay với hoạt động chủ yếu là nhận tiền gửi của dân để cho vay. Quy mô ngân hàng nhỏ, đặc biệt là các ngân hàng cổ phần nông thôn. Do đó, mức độ rủi ro trong hoạt động kinh doanhcủa các ngân hàng loại này nhìn chung cao hơn các ngân hàng quốc doanh. Trong quá trình hoạt động, các ngân hàng luôn phát triển cả về quy mô, về vốn , về tổ chức và hoạt động, đáp ứng được một số lĩnh vực phát triển kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá, kể cả trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn. Bước đầu mở rộng quan hệ với các nước, đa dạng hoá các hoạt động ngân hàng, qua đó tăng cường độ an toàn trong hoạt động của các ngân hàng này. Các ngân hàng cổ phần đã cùng các ngân hàng quốc doanh hình thành hệ thống ngân hàng đủ sức mạnh cạnh tranh với các loại hình ngân hàng khác, giữ vai trò phục vụ sản xuất kinh doanh cho mọi thành phần kinh tế, qua đó phát triển kinh tế đất nước và khi đó tính hội nhập của các ngân hàng này sẽ ngày càng cao, cũng như khả năng hội nhập của hệ thống ngân hàng Việt Nam vào cộng đồng tài chính quốc tế là rất lớn. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài và liên doanh: ngân hàng liên doanh là ngân hàng được thành lập bằng vốn góp của bên ngân hàng Việt Nam và bên ngân hàng nước ngoài, có trụ sở tại Việt Nam, hoạt động theo pháp luật Việt Nam. Ngân hàng liên doanh là một pháp nhân độc lập, là pháp nhân Việt Nam, là NHTM hoạt động tại Việt Nam. Ngân hàng liên doanh ở Việt Nam hiện nay là ngân hàng IndoVina, ngân hàng VidPublic, ngân hàng FirstVina, ngân hàng VinaSiam. Các ngân hàng liên doanh và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài đều hoạt động như các NHTM đa năng ở các lĩnh vực khác nhau, hoạt động tại Việt Nam, theo pháp luật Việt Nam. Mặc dù vốn điều lệ hiện tại của chi nhánh ngân hàng nước ngoài là 15 triệu USD, song do được ngân hàng mẹ ở nước ngoài bảo lãnh nên độ an toàn khá cao. Ngay kể cả ngân hàng liên doanh hiện nay, ngoài vốn điều lệ 15 triệu USD (có ngân hàng 20 triệu USD) đều là liên doanh giữa các ngân hàng quốc doanh với các ngân hàng lớn trong khu vực và trên thế giới. Do vậy độ an toàn của các ngân hàng này cũng rất cao. Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh hiện có khả năng cạnh tranh rất lớn với các ngân hàng quốc doanh. Do ưu thế về công nghệ và kỹ thuật hiện đại cũng như khả năng và trình độ quản lý, kinh doanh tiền tệ ngân hàng có nhiều nghiệp vụ ngân hàng mới và hiện đại. Hiện nay để bảo hộ các ngân hàng Việt Nam đang chưa thực sự đủ mạnh, ngân hàng nhà nước có chính sách hạn chế hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh qua việc hạn chế hoạt động bằng ĐVN của loại hình này. Tuy nhiên, các hạn chế này đang được mở rộng dần theo từng nấc cùng với sự phát triển của các ngân hàng và thị trường tài chính trong nước. Việc xuất hiện các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh Việt Nam là nhân tố kích thích quá trình đổi mới, phát triển công nghệ ngân hàng và khả năng đáp ứng các dịch vụ ngân hàng của các NHTM Việt Nam, đồng thời thể hiện khả năng hội nhập của các NHTM Việt Nam vào cộng đồng tài chính quốc tế. 1.2. Hoạt động cho vay của các NHTM. Kể từ khi hệ thống ngân hàng Việt Nam chuyển từ một cấp sang hai cấp cùng với sự xuất hiện của các ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng cổ phần. Hoạt động cho vay của hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Số lượng các NHTM ngoài quốc doanh ra đời và phát triển nhanh, do đó 4 NHTM quốc doanh của nhà nước từ chỗ độc quyền chiếm 70 - 74% thị phần cho vay năm 1990, thì đến hết năm 1999 chỉ chiếm khoảng 68% thị phần cho vay của toàn ngành ngân hàng. Số lượng các NHTM tăng lên cũng góp phần đáp ứng tốt hơn nguồn vốn cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng đang phát triển nhanh, đóng góp ngay càng lớn vào tỉ trọng GDP quốc gia. Tỉ trọng cho vay giữa doanh nghiệp nhà nước và kinh tế ngoài quốc doanh trong tổng dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng đã và đang thay đổi nhanh chóng.Trong cả nước, phân tích xu hướng diễn biến tỉ trọng cho vay giữa doanh nghiệp nhà nước và kinh tế ngoài quốc doanh trong mười năm qua (1990-2000) có thể thấy như sau: Năm 1991, dư nợ cho vay các doanh nghiệp nhà nước chiếm tỉ trọng 90%, khu vực ngoài quốc doanh chiếm 10%, đến năm 1993 tỉ trọng này lần lượt là 68,5% và 31,5%; năm 2000 là 48,5% và 51.5%. Qua đó ta thấy, tỉ trọng cho vay kinh tế ngoài quốc doanh của hệ thống ngân hàng tăng nhanh, điều này phù hợp với định hướng phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Tuy nhiên, thời điểm hiện nay thị trường vốn của nền kinh tế đang bị ứ đọng trong hệ thống ngân hàng. Lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay giảm xuống thấp nhất từ trước tới nay, một bộ phận lớn vốn bị khê đọng trong các doanh nghiệp và luồng vốn ngoại tệ đang bị chảy ra nước ngoài. Trong mấy năm gần đây, mặc dù lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn giảm liên tục, giảm xuống thấp nhất từ trước tới nay, nhưng vốn huy động vào hệ thống ngân hàng vẫn tăng nhanh, vốn cho vay giảm. Chỉ riêng trong năm 1999, hệ thống ngân hàng thực hiện 5 đợt giảm lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn. Trong 6 tháng đầu năm 2000, lãi suất tiếp tục giảm, mức lãi suất huy động vốn cao nhất của hệ thống ngân hàng chỉ có 0,4-0.5%/tháng,giảm 1/2 so với mức lãi suất của 2 năm trước đó. Lãi suất cho vay chung của các ngân hàng giảm xuống chỉ còn 0,85%/tháng, riêng lãi suất cho vay của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam giảm xuống còn 0,6- 0,65%/tháng, ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và ngân hàng Công thương Việt Nam giảm xuống còn 0,7- 0,8%/tháng.Thực ra tình trạng tỉ trọng vốn cho vay và đầu tư ở mức độ thấp so với tổng nguồn vốn huy động, hay tình trạng thừa vốn đã xuất hiện từ trong hệ thống ngân hàng từ 2- 3 năm gần đây. Song trong thời gian gần đây tình trạng này càng được quan tâm nhiều hơn, vì lãi suất tiếp tục hạ thấp mà vốn huy động vào hệ thống ngân hàng vẫn tăng nhanh, vốn cho vay ra thì tăng chậm. Năm 1998, tốc độ tăng vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng là 25,7%, nhưng tốc độ tăng dư nợ cho vay là 23%.Năm 1999, vốn huy động tăng 27,3%,dư nợ cho vay tăng 12,4%.Trong 6 tháng đầu năm 2000, vốn huy động tăng13.5%, trong khi dư nợ cho vay là 17,5%, riêng số vốn huy động bằng ngoại tệ tăng 24,8%. Như vậy có thể thấy vốn huy động luôn luôn tăng nhanh hơn cho vay và đầu tư. Điều này làm cho môi trường cạnh tranh giữa các ngân hàng càng trở nên gay gắt và quyết liệt. 1.3. Các dịch vụ của ngân hàng thương mại Tình hình phát triển tín dụng ngân hàng thời gian gần đây gặp nhiều trở ngại đã anh hưởng lớn đến tài chính, doanh thu và sự tăng trưởng của ngân hàng. Để thoát ra khỏi khó khăn, duy trì ổn định và tăng trưởng,hệ thống ngân hàng đang trong quá trình cơ cấu lại, xử lý nợ tồn đọng, tăng năng lực tài chính, nâng cao hiệu quả điều hành, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ, đảm bảo an toàn hệ thống; đồng thời xây dựng chất lượng tăng trưởng hoạt động kinh doanh dựa trên cơ sở đa dạng hoá sản phảam dích vụ ngân hàng. Các NHTM đã và đang nỗ lực nâng cao chất lượng dịch vụ và phát triển hàng loạt dịch vụ mới tại Việt Nam. Chi nhánh Citibank tại Việt Nam cung cấp dịch vụ bao gồm việc chi trả và thu nhận nội địa paylink, expresspay, speed collect giúp khách hàng nhận và chuyển tiền ngay trong ngày ở cả 61 tỉnh, thành phố.ANZ Bank cung cấp dịch vụ ngân hàng qua Internet (Internet banking), dịch vụ này cung cấp cho khách hàng một loạt tiện ích trong giao dịch như kiểm tra số dư tài khoản, thanh toán chuyển tiền. Hongkong bank tung ra dịch vụ ngân hàng điện thoại(Telephone Banking), dịch vụ này cho phép khách hàng truy cập vào tài khoản 24/24giờ cung cấp đầy đủ thông tin về tài khoản, tỉ giá,số dư, sao kê.Và mới đây với lợi thế có hệ thống mạng lưới rộng có dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tìm đối tác kinh doanh, chỉ trong thời gian ngắn, NHTM cổ phần á Châu thu hút 50 doanh nghiệp, NHTM cổ phần á Châu cũng được xem như điển hình về phát triển dịch vụ ngân hàng, ngày 20/12/2000 đã phát hành thẻ tín dụng nội địa đầu tiên ở nước ta với mô hình mới và sáng tạo: thẻ liên kết Saigontourist-ACB và thẻ Saigonco.Op.ACB hiện có hơn 2000 đại lý thanh toán. Mới đây, ngân hàng này cung cấp thêm dịch vụ “Ngân hàng tại nhà”, qua máy tính cá nhân tại nhà khách hàng có thể truy cập các thông tin có liên quan như :số dư tài khoản, lãi suất, các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, biểu phí dịch vụ. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam cung cấp dịch vụ thanh toán thẻ, Ngân hàng tại nhà, thành lập công ty chứng khoán cung cấp 5 loại hình kinh doanh, tham gia hoạt động bảo hiểm dưới hình thức công ty liên doanh bảo hiểm VIDV-QBE. Ngân hàng ngoại thương Việt Nam phát triển hình thức ngân hàng bán lẻ Vietcombank Vision 2010 cung cấp nhiều dịch vụ hiện đại: trả lương tự động, quản lý vốn tự động, thanh toán thẻ, dịch vụ ngân hàng điện tử (e-banking) mang lại rất nhiều lợi ích cho khách hàng: sử dụng nguồn vốn hiệu quả nhất, chuyển đổi ngoại tệ, mở L/C không phải ký quỹ, dịch vụ quản lý vốn... Tuy nhiên các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng vẫn chưa thông dụng. Hoạt động thanh toán qua ngân hàng vẫn còn bỏ ngỏ. Khối lượng thanh toán bằng tiền mặt hiện nay ở nước ta còn quá lớn so với tổng phương tiện thanh toán: 42% năm 1994; 34% năm 1995; 33% năm 1996 và 30% năm 1997. 2. Cạnh tranh g

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35142.doc
Tài liệu liên quan