Đề án Giải pháp nâng cao thị phần tiêu thụ chè trên thị trường quốc tế của Tổng Công Ty chè Việt Nam

Để mở rộng được thị trường trong nước và định hướng tiêu dùng trong nước, Tổng công ty tiếp tục sản xuất các mặt hàng chè truyền thống có tiếng lâu dài trong người tiêu dùng, do vậy cần duy trì các mặt hàng có chất lượng cao, mẫu mã đẹp, giá cả được chấp nhận là: Thái Nguyên, Tùng Hạc, Thanh Long, Tân Cương ;nhanh chóng hoàn thiện và đưa ra thị trường các sản phẩm mới có chất lượng cao để cạnh tranh trong chính thị trường trong nước như: các loại chè hoà tan( đã tung ra thị trường được 5 mặt hàng và đã tiêu thụ rất mạnh : chè Cam, chè Táo, chè Chanh, chè Dâu, chè Gừng, chè La Hán Quả ;chè đen và chè xanh túi nhúng ướp hương hoa quả các loại như chè Linh Chi, chè Hoa Tam Thất, chè Sâm, Chè Vinatea, Linh Sơn Trà, Bảo thọ trà Năm 2001 thành lập một bộ phận chuyên nghiên cứu và lập dự án chế biến-tiêu thụ các loại chè thảo mộc như:Khổ Qua, Cúc, Hibicút, Năm 2001 mở rộng khoảng 20 điểm uống trà các loại tại thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh để quảng cáo và thúc đẩy tiêu thụ trong nước

doc64 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2736 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Giải pháp nâng cao thị phần tiêu thụ chè trên thị trường quốc tế của Tổng Công Ty chè Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ững năm bội thu không những do tốc độ tăng giá trị tổng kim ngạch xuất khẩu mà còn cả về sản lượng xuất khẩu. Nguyên nhân chính là do những năm này chúng ta được mùa lớn. Mặt khác, khi giá chè năm 1999 trên thế giới có xu hướng giảm, nhưng năm này lại là năm mà số lượng xuất khẩu sang thị trường irắc chiếm tỷ trọng lớn trong Tổng lượng xuất khẩu của Tổng công ty ( năm 1996:46,17%, 1999:86,44%, 2000 :83,44% ) mà sang thị trường này thường tăng nên năm 1999 mức giá trị kim ngạch tăng 55,22% hơn mức sản lượng xuất khẩu tăng 40,1%. Năm 2000 là năm khó khăn nhất đối với ngành chè nhiều công ty không tiêu thụ được sản phẩm của mình nhưng Tổng công ty vẫn ký hợp đồng xuất khẩu được 19.739 tấn. Trong khi giá chè thế giới đạt mức thấp kỷ lục trong vòng 15 năm qua, giảm 20-25 % so với năm 1999. Nhưng nhờ các biện pháp nâng cao chất lượng và làm tốt công tác tiếp thị nên giá trị giá xuất khẩu của Tổng công ty chỉ giảm 15% so với năm 1999. Tuy vậy, điều này cũng làm cho Tổng kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 85,25% so với năm 1999. Sang năm 2001, 2002 cả sản lượng xuất khẩu và kim ngạch xuất khẩu đều tăng. Đạt được thành công này là do Tổng công ty đã chú trọng hơn đến công đoạn chăm sóc và chế biến chè. Về sản xuất chè đã xây dựng được quy trình bón phân tổng hợp thay thế cho bón phân đơn lẻ …Do vậy, chất lượng búp chè tươi khá tốt, năng suất bình quân cao nhất ngành 7,71 tấn/ha. Năm 2001 Tổng công ty đã tiếp tục đưa ra thị trường một số mặt hàng mới có chất lượng cao như chè hoà tan, chè túi nhúng các loại và một số mặt hàng khác (gồm 12 mặt hàng chè mới với chất lượng đặc biệt cao, trong đó có 5 loại chè hoà tan). Đến năm 2003 sản lượng và kim ngạch xuất khẩu chè đều giảm. Xu hướng chung của thế giới vẫn là cung vượt cầu, đây là yếu tố chủ yếu làm cho giá chè trên thế giới tiếp tục giảm đồng thời là một khó khăn lớn đối với việc xuất khẩu chè Việt Nam. Từ năm 2003 , chè Việt Nam không còn cách nào khác phải đảm bảo nhanh chóng đuổi kịp giá chè quốc tế, phấn đấu chất lượng cao để đạt giá trung bình các loại chè cấp cao thế giới. Giá chè xuất khẩu của Việt Nam trung bình qua các năm là: Năm 1999: 1.507 USD/tấn; năm 2000: 1.386USD/tấn; năm 2001: 1.269/tấn; năm 2002: 1.258 USD/tấn ; năm 2003 là 1.271USD/năm . Thị trường đang thiếu chè có chất lượng cao, ngay cả chè giá cao Có thể khẳng định rằng xuất khẩu chè của Tổng công ty chè Việt Nam đã nỗ lực không ngừng, đóng góp đáng kể cho sự phát triển của toàn ngành chè Việt Nam. 1.2.2. cơ cấu mặt hàng chè xuất khẩu Trong những năm qua, Tổng công ty rất chú ý tới cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chè vào các thị trường. Trong cơ cấu đó chè đen chiếm một tỷ trọng đáng kể 63,3% (1998 ), 68,2% ( 1999), 69,43% (2000), 80,% (2001), 75,63% (2002), 64% (2003). Như vậy có thể nói rằng lượng xuất khẩu chè đen của toàn Tổng công ty là rất lớn, điều này có thể giải thích là do nhu cầu tiêu thụ chè đen trên thế giới là rất lớn, mặt này có thể giải thích là do nhu cầu tiêu thụ chè đen trên thế giới là rất lớn, mặt khác mặt hàng này rất phù hợp với thị hiếu của người Châu Âu và Trung cận đông mà đây là thị trường có bạn hàng lớn của Tổng công ty. Chè CTC có cơ cấu xuất khẩu tương đối bé trung bình là 3,3%. Còn đối với chè xanh, cơ cấu xuấ khẩu chiếm tỷ trọng trung bình là 10%. Chúng ta biết rằng, chỉ người Châu á thích uống chè xanh, nhưng chè xanh lại có nhiều ở Châu á do vậy lượng chè xanh xuất khẩu của Tổng công ty bị hạn chế. Chè thành phẩm có xu hướng tăng, ngược lại chè sơ chế giảm mạnh Các loại chè cao cấp (OP, FBOP, P ) có xu hướng tăng nhẹ, giao động từ 48,87% đến 65,84%. Trong khi các loại chè thấp cấp hơn giảm nhẹ. Chè BPS giảm đáng kể. Sở dĩ có những biến động trên là do nhu cầu tiêu thụ chè cấp thấp trên thị trường thế giới hiện nay có xu hướng giảm nhường chỗ cho các loại chè cấp cao. Chè CTC sản xuất bằng công nghệ ấn Độ chi phí cao, lại khó khăn trong tiêu thụ nên xu hướng sản xuất thấp, biến động bấp bênh . Chè xô trước đây chủ yếu xuất cho Trung Quốc, mấy năm gần đây không có thị trường. Xu hướng tăng lên của tỷ trọng chè thành phẩm trong cơ cấu xuất khẩu là một xu hướng lành mạnh phù hợp với đòi hỏi của người tiêu dùng, lại bán được với giá cao dù phải đầu tư phức tạp hơn. 1.2.3. thực trạng chất lượng chè xuất khẩu Trong nền kinh tế thị trường thì chất lượng là vấn đề sống còn của mọi doạnh nghiệp. Từ năm 1993 trở lại đây, lượng chè xuất khẩu chính của Tổng công ty là sang irắc và các nước Tây Âu, nơi có sự cạnh tranh quyết liệt bởi hàng năm lượng cung lớn hơn cầu. Đó là yếu tố khách quan đòi hỏi các đơn vị của Tổng công ty phải tiến hành đồng bộ các giải pháp để nâng tỷ lệ mặt hàng cấp cao.Ngay từ đầu chuyển sang cơ chế mới, Tổng công ty đã thông báo cho mọi thành viên và đặt ra chỉ tiêu chất lượng sản phẩm. Mặc dù vậy,trong nhiều năm qua chúng ta phải thừa nhận chất lượng chè xuất khẩu nói chung còn nhiều khuyết điểm, biểu hiện: Thứ nhất, chất lượng sản phẩm hàng năm chưa ổn định, bởi trong sản phẩm còn một số khuyết tật gây ảnh hưởng rất đáng chú ý là các dạng lá già, râu xơ, nhiều cọng…Một số đơn vị tình trạng máy móc vẫn chưa được cải tạo triệt để do hạn chế về khả năng tài chính. Nhiều nơi vẫn chưa có điều kiện để xoá bỏ tình tttrạng héo cưỡng bức để chuyển sang héo bằng máng. Một số máy sấy chè chưa được nâng cấp nên vẫn có tình trạng quá lửa. Thứ hai là khu vực tư nhân do quy trình thu hái không đảm bảo nên chất lượng không đồng đều. Tình trạng chế biến và thu mua chè ở các xưởng chè nhỏ có chất lượng kém, đây là nguy cơ làm giảm chất lượng sản phẩm chung 1.2.4. Thị trường xuất khẩu chè : Như đã nêu, hiện nay Tổng công ty chè có quan hệ buôn bán với 58 nước trên thế giới. Có thể thấy rõ rằng việc xuất khẩu chè ra nước ngoài chiếm một vị trí vô cùng quan trọng, chiếm vị trí chủ yếu trong việc tiêu thụ chè của Tổng công ty nói riêng và ngành chè Việt Nam nói chung. Nó không những làm phát triển sản xuất chè và hơn thế nữa góp phần thúc đẩy công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá nước nhà, trực tiếp nâng cao mức thu nhập cho bà con nông dân trồng chè. Sản lượng chè xuất khẩu của Tổng công ty chiếm hơn 40% tổng sản lượng chè xuất khẩu của các nước . ở nước ta hiện nay có khoảng 163 đơn vị tham gia xuất khẩu chè , hầu hết các đơn vị chỉ xuất khẩu được vài trăm tấn chè mỗi năm . chỉ có 12 đơn vị xuất khẩu được 1000 - 1400 tấn/năm. nên Tổng công ty là đơn vị xuát khẩu lớn nhất trong số 163 công ty nói trên . Với gần 50 năm hình thành và phát triển cộng với mối quan hệ quóc tế rộng rãi , nên hiện nay tên tuổi Tổng công ty chè Việt Nam và thương hiệu VINATEA đã trở nên quen thuộc , gần gũi và tin cậy đối với rất nhiều khách hàng trên thế giới . Với quy mô sản xuất và kinh doanh lớn nhất ở Việt Nam Tổng công ty đang giữ vai trò điều tiết sản xuất và giá thu mua của toàn ngành chè Việt Nam . Dựa vào sức mạnh này , Tổng công ty đã luôn tính toán điều tiết giá nguyên liêu và sản phẩm một cách có lợi nhất cho bà con nông dân và cơ sở xản xuất . Vai trò của Tổng công ty còn thể hiện ở chỗ giữ vững sự ổn định và phát triển của toàn ngành chè khi thị trường có sự biến động xấu . Năm 2001 khi giá chè giảm 15% so với giá chè của năm 2000 đồng thời tiêu thụ rất khó khăn , để đảm bảo cho ngành chè không hoàn toàn suy sụp Tổng công ty đã ký hợp đồng mua toàn bộ sản phẩm cho các nhà máy để dụ trữ vào kho , nhờ các giải pháp này các nhà máy yên tâm sản xuát thu mua hết nguyên liệu cho bà con nông dân . Với thị trường nước ngoài những năm trước đây khi mà các nước Đông Âu và Liên Xô cũ tan rã, thị trường chè của Tổng công ty gặp rất nhiều khó khăn. Ngay sau đó và cho tới bây giờ , Tổng công ty tìm mọi cách khôi phục lại thị trường Nga, các nước SNG và Đông Âu. Đồng thời tích cực tìm kiếm và chiếm lĩnh thị trường mới. Tổng công ty luôn luôn quan tâm đúng mức tới việc củng cố và phát triển các mối quan hệ với khách hàng nước ngoài, đặc biệt là khách hàng có sức tiêu thụ lớn như Irắc, các nước Trung Cận Đông, Tây Âu, Nam Mỹ, các thị trường này cần phải được giữ vững và phát triển mạnh mẽ. Thị trường Châu á có các bạn hàng hết sức quen thuộc như Đài Loan, Singapore…cũng cần phải được quan tâm thích đáng. Riêng thị trường Nhật Bản là thị trường mới nhưng có sức tiêu thụ lớn do người dân nơi đây có một nghệ thuật uống trà hết sức độc đáo đồng thời họ còn có thu nhập cao song họ cũng là một khách hàng đòi hỏi chè phải có chất lượng cao. -Khu vực Trung Cận Đông: Đây là khu vực thị trường chiếm tỷ trọng cao trong kim ngạch xuất nhập khẩu của Tổng công ty . Đặc biệt Iraq là thị trường lớn và chiếm đa số thị phấn tiêu thụ chè của Tổng công ty , những năm trước đây khi iraq bị chiến tranh liên miên sản phẩm chè của chúng ta xuất khẩu giảm đi một cách đáng kể . Nhưng tù sau khi chiến tranh kết thúc thị trường này đã dần ổn định trở lại . Thị phần chè đã tăng nhanh trở lại một cách đáng kể và có xu hướng tiếp tục tăng mạnh cho tới bây giờ. Bên cạnh đó Pakistan cũng là thị trường có rất nhiều triển vọng , mấy năm gần đây lượng chè chúng ta xuẩt khẩu sang thị trường này tăng một cách đáng kể . Trung bình mỗi năm họ nhập của chúng ta hơn 10.000 tấn , tuy nhiên hiện nay họ đã ký hiệp định tự do hoá thương mại với một số nước như srilânc , Bangladesh . Thuế suet khập khẩu chè của các nước này bằng không , trong khi Việt Nam phảI chịu mức thuế 45% , cho nên chúng ta giăm ưu thé so với các nước trên . nhưng toám lại thị trường này là một thị trường rất lớn và có nhiều tiềm năng để phát triển , do đó chúng ta nên chú ý đầu tư vào thị trường này một cách tích cứ hơn nữa . -Khu vực Đông Âu và Liên Bang Nga : Riêng đối với thị trường Nga Tổng công ty chè Việt Nam cũng đã được nhà nước cho phép thành lập công ty 100% vốn tại đây . công ty này đang đẩy nhanh tiến độ để hoàn tất các thủ tục pháp lý cần thiết trước khi vào hoạt động . Việc tổ chức các kênh phân phối , xây dựng thương hiệu và quảng cáo đang được thực hiện với hy vọng sẽ đem lại doanh số đáng kể cho Vinatea tại đây . Nga là thị trường tiêu thụ chè rất lớn , khoảng 160.000 tấn/năm trong đó 99% là chè nhập khẩu thì thương hiệu chè Việt Nam chưa được người dân ở đây biết đến , bởi từ trước tới nay Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang Nga chè nguyên liệu với giá thấp . Mục đích mà vinatea đặt ra trong vòng 5 năm tới là chè Việt Nam sẽ chiếm khoảng 10% lượng chè tiêu thụ trên thị trường Nga và thương hiệu chè Rồng Phương Đông sẽ có một vị trí xứng đáng trên thị trường này . -Khu vực Châu á:Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu sang thị trường này giao động thất thường, ta chủ yếu xuất sang Nhật, Đài Loan, Singapore . Đặc biệt Đài Loan là một thị trường lớn chiếm vị trí thứ 2 về lượng chè nhập khẩu từ Việt Nam , bên cạch đó Trung Quốc cũng là một thị trường lớn mà chúng ta đang bỏ ngỏ . Do đó việc cần thiết bây giờ là chúng ta phảI tích cực xúc tiến thương mại , mở rộng quan hệ hợp tác giữa các doanh nghiệp chè của chúng ta với các doanh nghiệp của nước bạn . Mở rộng đầu tư , phân phối sản phẩm , tìm hiểu rõ thị trường thị phần tiêu thụ cũng như sở thích dùng trà của từng loại thị trường . Từ đó đẩy mạnh xuất khẩu và tìm kiếm những thị trường tiềm năng hơn -Khu vực Bắc Mỹ ,Tây Âu và EU : đây là thị trường có thị phần nhỏ do ở những thị trường này yêu cầu về chất lượng, về an toàn thực phẩm rất cao nên chúng ta rất khó thâm nhập. EU hiện được coi là thị trường tiềm năng của doanh nghiệp xuất khẩu chè Việt Nam , nhưng do thị trường này cũng đòi hỏi vè chất lượng sản phẩm cao nên hàng năm lượng chè xuất khẩu của chúng ta sang thị trường này chỉ chiếm khoảng 2% so với nhu cầu của thị trường . hiện nay chúng ta xuất vào thị trường này 10.000 tấn và có khả năng đưa vào EU nhiều hơn từ 20.000-30.000 tấn . Theo các chuyên gia ngành chè , để tăng kim ngạch xuất khẩu chè sang thị trường EU , các doanh nghiệp Việt Nam cần đẩy mạnh tìm hiểu thị hiếu , khẩu vị của người tiêu dùng để có định hướng trong sản xuất . Trong các thị trường nhập khẩu chè của Việt Nam, Irắc nổi lên là một bạn hàng lớn nhất với tỷ trọng nhập khẩu cao trong tổng khối lượng chè XK của Việt Nam. Ngoài khối lợng XK trực tiếp sang Irắc, hàng năm khối lượng chè XK gián tiếp sang nước này thông qua các công ty của Pakistan, Nga, lnđônêxia, ấn Độ từ 6- 8 ngàn tấn/năm. Irắc là một thị trường hấp dẫn cho mặt hàng chè Việt Nam do nhu cầu mua lớn cùng giá nhập khẩu hấp dẫn. Tuy nhiên, trong điều kiện cuộc chiến đang nổ ra thì việc tìm kiếm các thị trường thay thế là việc làm cần thiết trong lúc này đối với các nhà XK. Theo các chuyên gia thương mại, một số các thị trường nhập khẩu các doanh nghiệp cần chú ý đến là Đài Loan, Pakistan và ấn Độ, đây là những thị trường tiềm năng, có thể tăng kim ngạch XK chè Việt Nam. Hai năm gần đây một số doanh nghiệp Việt Nam cũng đã mở rộng thêm sang một số thị trường mới là Thổ Nhĩ Kỳ, Thuỵ Điển, Ai Len, Séc, khu vực Trung Đông... và đặc biệt là Mỹ. Được biết, năm 2002 Mỹ nhập khẩu khoảng 94 ngàn tấn chè nhưng khối lượng chè nhập khẩu từ Việt Nam mới chỉ đạt 2.247 tấn... Để tăng sức cạnh tranh của chè Việt Nam thì việc nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, đa dạng hoá các loại sản phẩm, xúc tiến thương mại, quảng bá và từng bước khẳng định thương hiệu chè Việt Nam trên thị trường thế giới là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, sau khi chiến tranh tại Irắc kết thúc thì phải chuẩn bị ngay chiến lược để tìm lại thị trường này bởi đây vẫn là một thị trường truyền thống đầy tiềm năng với sở thích tiêu dùng phù hợp với chè Việt Nam. Với điều kiện thời tiết thuận lợi, dự kiến hết năm 2005 sản lượng chè của ta đạt 108.000 tấn tăng khá so với  90- 93 ngàn tấn năm 2002. Việc thực hiện các giải pháp chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu để tránh phụ thuộc quá nhiều vào một thị trường và để tiêu thụ hết sản lượng trên là điều đặt ra cho ngành chè hiện nay. 2. các biện pháp đã được thực hiện nhàm đẩy mạnh việc tiêu thụ chè tại tổng công ty . Với mục tiêu là tiếp tục giữ vững thị trường hiện có, mở ra các thị trường mới. Trong những năm gần đây,Tổng công ty đã thực hiện một số biện pháp để đẩy mạnh thị trường tiêu thụ như: Để đẩy mạnh thị trường ngoài nước Tổng công ty không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm,sản xuất các mặt hàng chè có chất lượng cao, tăng cường quảng cáo, phát triển đội ngũ tiếp thị, đăng kỹ thương hiệu cho sản phẩm chè của mình. Được biết, hiện nay, thương hiệu chè xuất khẩu của Việt Nam đã được đăng ký tại thị trường của 16 nước trên thế giới. Việc làm này trước mắt giải quyết khó khăn về những bất ổn của thị trường Irắc do cuộc chiến xảy ra, đồng thời nhằm tăng cường xuất khẩu chè Việt Nam đến các thị trường mới. Để mở rộng được thị trường trong nước và định hướng tiêu dùng trong nước, Tổng công ty tiếp tục sản xuất các mặt hàng chè truyền thống có tiếng lâu dài trong người tiêu dùng, do vậy cần duy trì các mặt hàng có chất lượng cao, mẫu mã đẹp, giá cả được chấp nhận là: Thái Nguyên, Tùng Hạc, Thanh Long, Tân Cương…;nhanh chóng hoàn thiện và đưa ra thị trường các sản phẩm mới có chất lượng cao để cạnh tranh trong chính thị trường trong nước như: các loại chè hoà tan( đã tung ra thị trường được 5 mặt hàng và đã tiêu thụ rất mạnh : chè Cam, chè Táo, chè Chanh, chè Dâu, chè Gừng, chè La Hán Quả ;chè đen và chè xanh túi nhúng ướp hương hoa quả các loại như chè Linh Chi, chè Hoa Tam Thất, chè Sâm, Chè Vinatea, Linh Sơn Trà, Bảo thọ trà…Năm 2001 thành lập một bộ phận chuyên nghiên cứu và lập dự án chế biến-tiêu thụ các loại chè thảo mộc như:Khổ Qua, Cúc, Hibicút,…Năm 2001 mở rộng khoảng 20 điểm uống trà các loại tại thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh để quảng cáo và thúc đẩy tiêu thụ trong nước Đồng thời Tổng công ty cũng đã đưa một số giải pháp nhằm phát triển thị trường tiêu thụ trong thời gian tới như: Tiếp tục sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm chè có chất lượng cao và giá cả hợp lý, hấp dẫn người tiêu dùng. Công ty cần phải tổ chức quảng cáo và xây dựng đội ngũ tiếp thị, chuyên viên thị trường thành thạo, mở các đại diện ở các nước :Pakistan, Thổ Nhĩ Kỳ, London-Anh, Mombasa-Kenya, và các vùng, dành 10% trong giá thành cho mục đích này. Đồng thời rà soát lại toàn bộ định mức kinh tế-kỹ thuật trong sản xuất và quan lý, tìm mọi biện pháp hạ giá thành sản phẩm 5-7% để nâng cao sức cạnh tranh của chè Việt Nam. Đặc biệt coi trọng thị trường Nga và SNG, thị trường Pakistan, năm 2001 trình Bộ cho phép thành lập một công ty thương mại 100% vốn của Việt Nam tại Liên Bang Nga và đặt văn phòng đại diện tại Pakista để nhanh chóng đưa vào thị trường các nước này với số lượng chè Việt Nam tương đối lớn, hình thành các thị trường lâu dài và vững chắc. Thị trường với mục tiêu xuất khẩu là chính, dành 75-80% sản phẩm để xuất khẩu, vì vậy cần: Tiếp tục phát triển thị trường Trung cận đông-đảm bảo ở mức 20-25 ngàn tấn/năm; Châu Âu:10-15 ngàn tấn/năm; Châu á:10-15 ngàn tấn/năm; Châu Mỹ-Châu Phi khoảng 5-8 ngàn tấn/năm, để trong vòng 5 năm tới cả nước có thể xuất khẩu hàng năm được từ 50-70 ngàn tấn, riêng Tổng công ty xuất khẩu bình quân 3 năm (1999-2001) được 53.121 ngàn tấn chè, phấn đấu tăng 10% lượng chè đóng gói tiêu thụ tới người tiêu dùng nhằm nâng giá chè xuất khẩu cho các mặt hàng chè cao cấp hết năm 2005 là 1,8-2,2 USD/kg. Về phía Tổng công ty Chè cũng đã chuẩn bị cho việc tăng cường xúc tiến thương mại trong năm nay bằng cách, tham gia hội chợ, quảng bá tuyên truyền dồn dập hơn. Dự tính hết năm 2005, Tổng công ty Chè sẽ chi cho xúc tiến thương mại vượt 200 - 300% so với năm ngoái (tương đương 8-10 tỷ đồng) Tổng công ty chè Việt nam dự kiến đến hết năm 2005, việc đăng ký thương hiệu sản phẩm chè Việt Nam sẽ được mở rộng thêm ở một số thị trường mới như Mỹ, ấn Độ, Đài Loan, Pakistan và các Tiểu vương quốc Arập thống nhất III. kết luận 1. Một số kết quả đạt được của tổng công ty Trong một vài năm gần đây, cây chè đã phát triển rất mạnh ở Trung Du và miền núi phía Bắc. Việc phát triển thị trường tiêu thụ chè góp phần phát triển cả ngành chè, đem lại nguồn ngoại tệ xứng đáng cho nền kinh tế quốc dân, có thể khái quát một số thành tựu mà Tổng công ty chè Việt Nam đã đạt được: Về sản xuất: Trong cơ chế quản lý mới, được áp dụng đồng bộ khoa học -kỹ thuật, năng suất chè đã tăng lên rất nhanh . Hiện nay, Việt Nam đó nhập được giống chè có chất lượng tốt, có thể cho năng suất gấp 3 lần (giống chè Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc, Ấn Độ) các loại giống chè cũ, đồng thời đó tuyển chọn được các giống chè thích hợp cho từng vùng như: chè Shan, chè trung du...Thông qua liên doanh, Tổng công ty đã có thêm được 30 giống chè mới và đang tiến hành trồng khảo nghiệm ở tất cả các vùng chè lớn. Chất lượng chè búp tươi khá tốt, năng suất chè đạt bình quân cao nhất ngành ( 10 tấn/ha), trong đó Mộc Châu đạt cao nhất 13,84 tấn/ ha. Trong các năm qua sản phẩm xuất khẩu của Tổng công ty không có lô nào bị khiếu nại về dư lượng thuốc trừ sâu trong chè. Về chế biến: Trong những năm qua, phần lớn các nhà máy chế biến chè ở Việt Nam đều được xây dựng từ năm 1957 – 1997, thiết bị chủ yếu của Liên Xô (cũ) nay đó lỗi thời, cụng nghệ lạc hậu. Sản phẩm làm ra chưa đáp ứng được thị trường. Để khắc phục tỡnh trạng này, Tổng công ty đó khụng ngừng cải tiến thiết bị hiện cú, thay thế cỏc thiết bị mới một số khõu quan trọng trong quy trỡnh sản xuất chố khụ. Đồng thời, huy động mọi nguồn vốn đầu tư thiết bị mới theo công nghệ hiện đại của Đài Loan, Nhật Bản, Ấn Độ... nhờ vậy năng xuất và chất lượng chè chế biến đó tăng lên rừ rệt, sản phẩm chố đa dạng hóa về chủng loại, phong phú về hỡnh thức, từng bước đáp ứng được yêu cầu của thị trường trong và ngoài nước. 2. Những tồn tại của tổng công ty Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc phát triển thị trường tiêu thụ chè của Tổng công ty còn có một số tồn tại cơ bản sau: -Quy mô thị trường tiêu thụ chè còn nhỏ bé, chè Việt Nam hiện nay mới chỉ chiếm 3% thị phần thế giới và bằng 37,5% số dư cung cầu chè thế giới, nên cơ hội thị trường còn tiềm tàng. Khối lượng chè tiêu thụ trong nước chiếm một tỷ lệ không đáng kể. -Cơ cấu sản phẩm chưa phong phú, đặc biệt chất lượng chè còn thấp chỉ ở mức trung bình thấp của thế giới chưa đáp ứng được đòi hỏi của người tiêu dùng nhất là đối với khách hàng nước ngoài về những sản phẩm chè có chất lượng cao, có tác dụng bồi bổ sức khoẻ, phòng chống bệnh tật ( chè dược thảo, chè giảm béo ), các loại chè uống ngay, chè hoà tan nhanh phù hợp với lối sống công nghiệp. -Năng lực cạnh tranh trên thị trường còn hạn chế ngay cả ở thị trường trong nước cũng bị cạnh của một số loại chè nước ngoài. Thực chất cũng không thể chỉ đổ lỗi cho sản phẩm của ta không có đặc tính như họ, mà điểm yếu của ta là kỹ thuật quảng bá sản phẩm, kỹ thuật thâm nhập rộng rãi vào người tiêu dùng. 3. Nguyên nhân của những tồn tại 3.1. công nghiệp chế biến chè con yếu kém Hiện nay, cả nước có trên 400 nhà máy chè (bao gồm các công ty tư nhân) trong đó chỉ có gần 1/3 đảm bảo chất lượng nhưng công nghệ thiết bị cũng hầu hết đã đến lúc phải thay thế. Đó là chưa kể đến hàng chục ngàn cơ sở chế biến tại gia đình với những thiết bị lạc hậu và không đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh, công nhân không lành nghề. Bên cạnh đó, những bất hợp lý về quy hoạch giữa nhà máy và vùng nguyên liệu đã gây ra những cạnh tranh không lành mạnh, dẫn đến chất lượng chè bị giảm đáng kể. So với thị trường của thế giới thì rõ ràng là chất lượng chè của Việt Nam còn thấp, chủng loại giống còn hạn chế, mặt hàng không phong phú, không có nhiều sản phẩm được người tiêu dùng thế giới ưa chuộng. Uy tín, thương hiệu chè Việt Nam chưa có trên thế giới. Hiện Việt Nam mới xuất khẩu chè rời . Tuy nhiên, cũng không nên bi quan, điều quan trọng lúc này là phải động viên bà con chăm sóc cây chè cho tốt, cố gắng hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật. Thường xuyên theo dõi tình hình, hái chè cho đúng thời điểm , không nên để già quá hoặc hái non quá. Phải đảm bảo chất lượng chè từ khâu nguyên liệu. Đây cũng là điểm tựa chính để Việt Nam có thể cải thiện tình hình trong năm nay? Thêm vào đó, nếu Việt Nam thắt chặt các chi phí quản lý, cố gắng tiết kiệm ở các khâu, cũng có thể giảm giá thành cho chè. Để hạn chế những thiệt hại cho người làm chè, Hiệp hội Chè Việt Nam cũng đã đề nghị Chính phủ có biện pháp tạm trừ chè cho dân, hỗ trợ cho các doanh nghiệp có điều kiện cải tạo thiết bị máy móc nâng cao chất lượng chè như cho giãn nợ các công trình đầu tư nhà máy chế biến chè, cho vay với lãi suất ưu đãi cung cấp thông tin về thị trường nhiều hơn. Tình hình năm nay chắc chắn sẽ có nhiều nhà máy chè phải đóng cửa do khả năng không đáp ứng được yêu cầu của thị trường về chất lượng cũng như giá thành. Vì vậy, tốt nhất là Tổng công ty Chè cho rà soát lại tất cả các nhà máy chè nếu không đủ điều kiện về công nghệ thiết bị đảm bảo chất lượng chè thì yêu cầu phải nâng cấp hoặc cho đóng cửa trước khi họ phải tự đóng để đảm bảo uy tín cho chè Việt Nam. 3.2. Hoạt động nghiên cứu thị trường còn yếu Hoạt động nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước còn yếu, tất cả mới chỉ dừng lại ở doanh thu bao nhiêu, vòng quay vốn, lãi... mà không phải là thị trường nào cần được đầu tư sâu hơn, thị trường nào thích uống loại chè nào, nhu cầu trong tương lai là bao nhiêu…do đó cần có những giải pháp gì trong tương lai. Cũng như hoạt động nghiên cứu thị trường, nghiên cứu cung cầu chè trên thế giới, Tổng công ty cần có định hướng chiến lược thực hiện kế hoạch lâu dài trong xuất khẩu chè mà chủ yếu kinh doanh theo phương thức “được chuyến nào hay chuyến ấy “. Trước đây thì thường xuất theo kế hoạch của nhà nước và xuất hàng trả nợ. Những năm gần đây thì không còn xuất hàng trả nợ nhưng phải nói rằng, công tác điều ta thương nhân, lập kế hoạch trong tương lai, cho từng thị trường chưa làm được là bao, chính sách thương nhân và thị trường chưa ổn định Mặt khác, Tổng công ty chưa có quan hệ thân thiết với các chân hàng theo kiểu “ hợp tác bền vững, hai bên cùng có lợi “. Đôi khi gặp sự biến động giá, các bạn có thể bán cho đối tác khác và thu lợi nhuận cao. Khi giá thấp thì Tổng công ty lại phải mua vào bù lỗ. 3.3. Thị trường chè thế giới đang cạnh tranh gay gát Dự tính, trong năm 2005 , sản lượng chè búp tươi của Tổng công ty sẽ đạt khoảng 73.442 tấn, sản lượng chè xuất khẩu khoảng 62.770 tấn. Muốn đảm bảo việc xuất khẩu Tổng công ty cần phải có một sự cố gắng vượt bậc để nâng cao chất lượng chè và hạ giá thành mới có thể cạnh tranh với các nước xuất khẩu chè khác trên thế giới. Sự ứ đọng lượng chè xuất khẩu của thế giới do chiến tranh dẫn đến giá chè thế giới sẽ giảm và có thể là giảm mạnh. Như vậy, việc cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu chè lại càng trở lên gay gắt. Các "cường quốc" về xuất khẩu chè như ấn Độ Srilanka, Kenya, Indonesia... cũng đang tăng cường tìm cách hạ giá, đa dạng hoá sản phẩm và mở rộng thị trường. Tồn tại và khó khăn nhất đối với ngành chè và Tổng công ty chè Việt Nam trong quá trình phát triển là vấn đề thị trường tiêu thụ sản phẩm chè. Đến nay ngành chè vẫn chưa thật sự có thị trường lâu dài và vững chắc.Trước hết, Việt Nam cần phải tập trung cao độ để củng cố vững chắc quan hệ với các thị trường hiện có, như thị trường Đông âu và Nga, các nước khu vực Trung á, Đài Loan … Mỗi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiải pháp nâng cao thị phần tiêu thụ chè trên thị trường quốc tế của Tổng Công Ty chè Việt Nam.DOC
Tài liệu liên quan