Đề án Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ

MỤC LỤC

 

Trang

LỜI MỞ ĐẦU 3

CHƯƠNG I. TÌNH HÌNH VÀ ĐẶC ĐIỂM THỊ TRƯỜNG MAY MẶC

HOA KỲ 4

I. Tình hình thị trường Hoa Kỳ 4

1. Một vài nét về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội 4

2. Sự phát triển kinh tế Hoa Kỳ - một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến thị trường nói chung & thị trường may mặc nói riêng 5

II. Đặc điểm thị trường may mặc Hoa Kỳ 6

1. Thị hiếu người tiêu dùng 6

2. Chính sách và luật về kinh tế hàng may mặc của chính quyền G.BUSH 7

3. Sức mua tiêu dùng 10

4. Hệ thống phân phối ở thị trường Mỹ 10

CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG HOA KỲ 13

I. Hiện trạng xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong thời gian qua 13

1. Thực trạng xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam 13

2. Những kết quả tồn tại trong kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam 16

3. Nguyên nhân tồn tại trong kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam 17

 

 

 

II. Đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ 19

2. Đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường Hoa Kỳ 20

CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP CHO CÁC DOANH NGHIỆP MAY MẶC XUẤT KHẨU VIỆT NAM ĐỂ TĂNG CƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC SANG THỊ TRƯỜNG MỸ 22

1. Về doanh nghiệp 22

2. Về chính phủ 22

KẾT LUẬN 25

TÀI LIỆU THAM KHẢO 26

 

doc32 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2722 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i cung ứng một cách kịp thời những sản phẩm hợp mốt, đặc biệt là đối với khách hàng trẻ - những người có sở thích may mặc thay đổi rất nhanh. Bởi vì New Yok là một trong những trung tâm thời trang lớn của thế giới nên người tiêu dùng nắm bắt rất nhanh xu hướng thời trang trên thế giới. 2.Chính sách và luật về kinh tế-hàng may mặc của chính quyền G.BUSH Sau khi tổng thống GEORGE W.BUSH lên cầm quyền đã đưa ra chính sách Châu Á-Thái Bình Dương trong đó có Việt Nam gồm một số điểm chính là: . Chú trọng đến vấn đề an ninh . Chú trọng hơn khu vực châu á Thái Bình Dương . Chú trọng hơn vai trò của các nước đồng minh . Cứng rắn hơn với các đối thủ cạnh tranh Nhưng chúng ta thừa nhận rằng sau chiến tranh Việt Nam kết thúc, Quan hệ Việt- Mỹ không được tiến triển. Mặc dù vậy trong những năm qua, quan hệ Việt- Mỹ đã được cải thiện đáng kể, đặc biệt là sau khi Hoa Kỳ dỡ bỏ cấm vận Việt Nam tháng 2 năm1994 và bình thường hóa quan hệ vào tháng 7 năm 1995, đặc biệt hiệp định thương mại Việt-Mỹ đã được tổng thống G.Bush thông qua tháng 10/2001. Mỹ là nước có hệ thống luật pháp phức tạp nhưng chặt chẽ và khắt khe thuộc loại hàng đầu thế giới. Do tính chất nghiêm ngặt của luật pháp Mỹ nên để kinh doanh thành công trên thị trường này, các doanh nghiệp Việt Nam cần tìm hiểu các công cụ chính sách thương mại của Mỹ, nắm vững các đạo luật về bảo vệ môi trường, luật chống độc quyền, luật chống phá giá, luật thuế bù giá, luật về trách nhiệm sản phẩm, luật về nhãn hiệu hàng hóa và phát minh sáng chế …Mặc dù hàng hoá của Việt Nam được hưởng mức thuế suất theo qui chế quan hệ thương mại thông thường (NTR), nhưng việc thâm nhập thị trường Mỹ gặp khó khăn bởi những trở ngại phi thuế quan khác, ví dụ như việc cấp hạn ngạch đối với hàng may mặc xuất khẩu Việt Nam. Cùng với sự cải thiện tốt đẹp về quan hệ Việt-Mỹ trên thì phía Mỹ đưa ra đạo luật làm ảnh hưởng xấu tới Việt Nam và có thể nói là can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam như là: “Đạo luật nhân quyền Việt Nam” đã được hạ nghị viện Mỹ thông qua. Không những vậy một số nghị sỹ Mỹ đã yêu cầu áp dụng luật chống phá giá và nhãn mác của nước xuất xứ đối với hàng hóa Việt Nam. +Về thuế quan của Mỹ là hệ thống thuế quan điều hòa. Hầu hết thuế quan của Mỹ là thuế tính theo giá trị với tỷ lệ giao động từ dưới 1% đến gần 40% (Mức thuế này thường cao hơn đối với hàng may mặc ). +Về qui chế tối huệ quốc (MFN), gần như tất cả các bạn hàng buôn bán của Mỹ đều được qui chế này. Các mặt hàng nhập khẩu từ các nước chưa được hưởng MFN phải chịu thuế cao hơn, với qui định này, khi xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ, doanh nghiệp Việt Nam (khi được hưởng MFN) có thể dễ dàng thâm nhập vào thị trường Mỹ. Ngoài ra, Mỹ còn áp dụng một số trường hợp ưu đãi thuế đặc biệt như không đánh thuế đối với các loại phụ tùng được sản xuất ở Mỹ. +Về giá trị khai báo hải quan, Mỹ áp dụng cách thức tính giá hải quan của tổ chức thương mại thế giới (WTO) để bảo vệ công ty Mỹ trước các hoạt động không bình đẳng (luật thuế đối kháng và luật thuế chống phá giá). +Về các công cụ phi thuế quan, đó là tiêu chuẩn sản phẩm, sở hữu trí tuệ và một số biện pháp khác để có lợi cho họ nhất. +Về lĩnh vực may mặc: Để thực hiện luật xác định sản phẩm dệt, ngoài các qui định có sẵn trong luật, các thông tin sau phải được ghi trên hóa đơn thương mại của chuyến hàng sợi dệt có trị giá trên 500 USD và hàng đó phải theo qui định về nhãn hàng hóa của luật này: . Chất liệu sợi hoặc tổng hợp các sợi, xác định theo tên chủng loại mỗi loại sợi thiên hoặc sợi nhân tạo theo thứ tự tỷ lệ trọng lượng từ thấp đến cao nếu loại sợi đó có trọng lượng từ 5% hoặc hơn trong tổng sản lượng sản phẩm đó . Tỷ lệ trọng lượng của mỗi loại sợi có trong sản phẩm . Tên hoặc đặc điểm nhận dạng khác của nhà sản xuất hoặc của một hay nhiều người phụ trách tiếp thị hoặc điều hành sản phẩm sợi dệt đã được đăng kí tại ủy ban thương mại của Hoa Kỳ. .Tên quốc gia gia công hay sản xuất sản phẩm. .Sản phẩm len có quy định riêng về nhãn hàng hóa sản phẩm len * Riêng nhãn hàng hóa sản phẩm len theo luật này bao gồm: -Tỷ lệ trọng lượng của tổng các sợi có trong sản phẩm len (không kể trọng lượng của các vật trang trí ) không quá 5% tổng trọng lượng sợi của: a.len, b.len tái chế, c.mỗi loại sợi nếu tỷ lệ trọng lượng sợi đó bằng hoặc lớn hơn 5% và d/tổng trọng lượng của các loại sợi khác. -Tỷ lệ trọng lượng tối đa của sản phẩm len, của các chất liệu không phải sợi. -Tên của nhà xuất khẩu: Khi sản phẩm len có giá trị đến trên 500 USD và thuộc quy định của luật này thì bắt buộc phải ghi tên nhà sản xuất. .Tất cả các hóa đơn nhập khẩu hàng dệt sợi vào Hoa Kỳ phải có thông tin về: trọng lượng sợi, sợi đơn hay sợi khác, sợi có dùng cho bán lẻ không, sợi có làm chỉ may không. Nếu trọng lượng của sợi chủ yếu là tơ thì hóa đơn phải ghi rõ tơ đó được xe lại hay là tơ sợi nhỏ. Luật xác định sản phẩm sợi dệt và luật về nhãn hiệu sản phẩm bằng len cũng qui định chi tiết về loại nhãn hàng hóa, cách thức gắn nhãn, vị trí của nhãn trên sản phẩm và nhãn trên bao bì. .Luật xác định sản phẩm sợi dệt và luật về nhãn hiệu sản phẩm bằng len, luật này cũng qui định chi tiết về loại nhãn hàng hóa, cách thức gắn nhãn, vị trí của nhãn trên sản phẩm và nhãn trên bao bì. .Trừ một vài trường hợp ngoại lệ, tất cả các sản phẩm sợi dệt khi nhập khẩu vào Hoa Kỳ đều phải được đóng dấu, niêm phong ghi nhãn và đồng thời ghi lại cụ thể những gì do luật định. (Hầu hết các sản phẩm hàng may mặc nhập khẩu vào Hoa Kỳ đều phải tuân thủ các quy định của luật về sản phẩm dệt dễ cháy). Với chính sách trên, Hoa Kỳ càng thể hiện rõ ràng hơn về quyền muốn bá chủ thế giới của họ. Bởi hầu hết các chính sách kinh tế, chính trị (vĩ mô hay vi mô ) đều đem lại cho họ những lợi thế nhất. 3.Sức mua người tiêu dùng Trong thập kỷ gần đây, Mỹ khảng định vị thế về một thị trường lớn nhất thế giới, trong đó mức chi tiêu cho hàng hóa cá nhân ngày càng tăng và tất nhiên hàng may mặc là một trong những mặt hàng tiêu dùng cao. Bảng :Xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam sang Hoa Kỳ (triệu USD) 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Hàng dệt 0,11 1,78 3,9 5,326 5,053 5,83 6,212 Hàng may mặc 2,45 15,09 20,01 20,602 21,347 28,97 31,253 Tổng 2,56 16,87 23,6 25,928 26,4 34,7 37,465 Tốc độ tăng trởng (%) 5,9 39,9 9,75 1,97 31,44 7,95 Nguồn: Bộ khoa học Mỹ: Hướng dẫn hội thảo khoa học-Hiệp định thương mại Việt-Mỹ ( trang 108/năm 2001). Qua số liệu trên chúng ta thấy sức tiêu thụ hàng may mặc trên thị trường Mỹ là rất lớn, nhưng con số xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam là khiêm tốn. Tất nhiên không phải bất cứ loại hàng hóa may mặc nào cũng được người dân Mỹ chấp nhận, việc mua sắm hàng hóa phụ thuộc khá nhiều vào sở thích và thị hiếu của họ và đặc biệt là các mặt hàng hợp thời trang, hợp công việc của họ, và dự kiến hàng may mặc Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này khoảng 70-80 triệu USD vào năm 2001. 4.Hệ thống phân phối ở thị trường Mỹ *Những cơ quan quản lý liên quan tới hoạt động xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường Mỹ Chính sách thương mại về hàng may mặc của Mỹ do một bộ phận chuyên trách của chính phủ đảm nhiệm ban hành USTR (tổng thống đại diện thương mại Mỹ- US Trade Representative). Mặc dù Tổng thống là người có quyền ban hành chính sách nhưng USTR là cơ quan đứng đầu trong việc trình Tổng thống những vấn đề có liên quan tới thương mại nói chung cũng như các cuộc đàm phán thương mại quốc tế nói riêng. Uỷ ban về thực thi các hiệp định may mặc của Mỹ - CITA. Đây là cơ quan thực hiện các chương trình điều tiết nhập khẩu thường nhật của Mỹ. Đây là một cơ quan liên ngành bao gồm: đại diện của USTR chịu trách nhiệm về đàm phán và chính sách thương mại; Bộ thương mại Mỹ giải quyết các vấn đề liên quan tới các quyền lợi thương mại, tác động của thương mại tới sự bền vững của nền kinh tế cũng như mức độ cạnh tranh giữa các ngành của Mỹ. Phòng thương mại hàng may mặc – OTEXA là cơ quan trung tâm chịu trách nhiệm về điều tiết thương mại và kiểm soát chủng loại hàng may mặc của các quốc gia. Quốc hội Mỹ ban hành các vấn đề pháp lý liên quan tới thương mại. Các thành viên của ban này thường từ các bang sản xuất nhiều sản phẩm may mặc và họ đưa ra các đề xuất cho một chính sách thương mại phù hợp. Hải quan Mỹ chịu trách nhiệm điều tiết dòng vận động vật lý của hàng may mặc và thu thuế, nhãn mác, và các điều kiện về nguồn gốc cũng như kiểm nghiệm tiêu chuẩn chống cháy của sản phẩm. Uỷ ban đảm bảo an toàn sản phẩm cho người tiêu dùng CPSC chịu trách nhiệm quản lý hàng nhập khẩu và kiểm tra xem có phù hợp với các điều kiện chống cháy của sản phẩm. Hội đồng thương mại liên bang FTC quản lý những vấn đề liên quan tới nhãn hiệu hàng len dạ WPLA. Bởi vì luật nhập khẩu vào Mỹ khá rườm rà và phức tạp, nên hầu hết các mặt hàng may mặc xuất khẩu sang Mỹ đều phải qua các nước như Tây Âu, Singapo, Hồng Kông. Do đó phần lớn hàng may mặc được nhập khẩu vào thị trường Mỹ đều được phân phối đến người tiêu dùng qua các đại lí của chính các công ty xuất khẩu trên đất Mỹ, hoặc số lượng hàng hóa nhập khẩu sẽ qua tay các công ty xuyên quốc gia, hay các hãng, các công ty xuất nhập khẩu phân phối. Hàng may mặc được nhập vào Hoa Kỳ không những đòi hỏi về chất lượng, kiểu cách mẫu mã mà còn đòi hỏi về nhãn mác và xuất xứ. Do vậy ngay từ khi nhập hàng ở Hải Quan thì các loại hàng may mặc đã được kiểm duyệt và phân loại ngay, điều đó chứng tỏ hệ thống phân phối hàng may mặc được chuẩn bị chu đáo từ ngay khâu đầu tiên. Sau khi hàng may mặc nhập khẩu vào Mỹ qua rất nhiều khâu thì những mặt hàng được chấp nhận cả về hình thức và chất lượng thì sẽ được bầy bán chủ yếu ở các siêu thị và cửa hàng. Đây cũng là cách thức phân phối chủ yếu đến người tiêu dùng ở Mỹ. Nguồn cung cấp hàng may mặc ở Mỹ chủ yếu từ các nước Châu Á như: Trung Quốc, Thái Lan, Indonêsia, Ấn độ, Băng ladét và Việt Nam. Nên các nhà kinh doanh ở các nước trên họ khá am hiểu và thông thạo thị trường may mặc Hoa Kỳ. Vì thế các nhà kinh doanh Việt Nam cần phải am hiểu kĩ hệ thống phân phối hàng may mặc này để để dễ tiếp cận và thâm nhập thị trường. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG HOA KỲ I.Hiện trạng xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang thị trường Hoa kỳ trong thời gian qua 1.Thực trạng xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam. Trong những năm qua, kể từ khi tổng thống Mỹ Bill Clinton chính thức tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận Việt Nam (tháng 2 năm 1994 ) và đặc biệt tuyên bố bình thường hóa quan hệ với Việt Nam tháng 7 năm 1995 đến nay, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ tăng lên khá nhanh chóng. Điều đó được thể hiện qua kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc, một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Hoa Kỳ. Bảng : Xuất khẩu tháng 2 và 2 tháng năm 2001(triệu USD ) Thực hiện tháng 1 Ước tính tháng 2 Ước tính 2 tháng Thực hiện 2 tháng 2001 so với cùng kì năm 2000 (%) 109 130 239 945 Nguồn: Thời báo kinh tế, kinh tế đối ngoại- internet 7/11/01 Địa chỉ truy cập: www.vneconomy.com.vn Để xác định rõ ràng hơn về thực trạng sản xuất và xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam ta theo dõi bảng sau: Bảng : So sánh qui mô ngành may mặc Việt Nam đối với một số nước trong khu vực Tên nớc Sản lợng sợi/ngàn tấn Sản lợng vải lụa/triệu m Sản phẩm may/triệu sản phẩm kim ngạch xuất nhập khẩu (triệu USD ) Trung Quốc  5.300 21.000  10.000  50.000  Ấn Độ  2.100  23.000 -  12.500 Băng Ladét  200  1.800 -  4.000 Thái Lan  1.000  4.200  2.500  6.500 Inđônêsia  1.800  4.400  3.000  8.000 Việt Nam  85  304  400  2.000 Nguồn: Vinatex- Tạp chí thương nghiệp: số 6/01 ngành may mặc và những hoá giải thách thức-trang 8 Theo số liệu trên ta thấy kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam so với các nước khác xuất khẩu sang Mỹ thì con số trên là rất khiêm tốn. Mặc dù là kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam còn kém so với các nước khác nhưng điều đó cũng do nguyên nhân chủ quan và khách quan và một trong những nguyên nhân cơ bản nhất đó là thuế nhập khẩu hàng may mặc của Việt Nam vào Mỹ chịu mức thuế thông thường với thuế suất từ 48% đến 90%, từ đó làm cho giá khi tham gia thị trường Mỹ tăng lên đáng kể đồng thời ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam. Một khi hiệp định thương mại Việt-Mỹ đi vào hiệu lực, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ sẽ được hưởng quy chế thương mại bình thường, các mức thuế sẽ giảm rất nhiều (chẳng hạn áo đầm sẽ giảm từ 90% xuống còn 8,77% ).Một số nhà phân tích dự đoán rằng, ngay năm đầu khi hợp đồng thương mại Việt-Mỹ có hiệu lực, trị giá hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ sẽ tăng gấp nhiều lần so với thời điểm hiện nay. Trong tổng số 1,892 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu năm 2000 thì kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản chiếm tỷ trọng lớn nhất (gần 620 triệu USD chiếm 32,77% ) tiếp đến là thị trường EU (hơn 609 triệu USD chiếm 32,2%) và sau nữa là thị trường Hoa Kỳ ( chiếm 6,8% ) Bảng :Xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2001 Đơn vị:triệu USD Mặt hàng Thực hiện tháng 5/2001 Ước tính tháng 6/2001 Cộng dồn 6 tháng/2001 6 tháng đầu 2001 so cùng kì 2000 (%) May mặc 741 190 931 112,7 Nguồn: Thời báo kinh tế, kinh tế đối ngoại-internet: 7/11/01 Địa chỉ truy cập: www.vneconomy.com.vn Tuy nhiên, trong hợp đồng thương mại Việt-Mỹ, chương về thương mại hàng hóa qui định rõ ràng rằng hàng may mặc sẽ bị hạn chế về số lượng, nghĩa là có hạn ngạch. Đồng thời hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam có chất lượng không được tốt, để cải thiện điều này thì các doanh nghiệp của chúng ta đã phải nhập một số nguyên vật liệu phụ để tăng sức cạnh tranh trên thị trường Hoa Kỳ. Bảng :nhập khẩu nguyên vật liệu phụ 4 tháng năm 2001 Đơn vị:triệu USD Mặt hàng Quí I/2001 Ước tính tháng 4/2001 Tổng 4 tháng 4 tháng 2001so 4 tháng 2000 Nguyên phụ liệu may mặc,da 344 150 494 313,3 Vải 54 22 76 77,4 Sợi dệt 63 25 88 125,6 Nguồn: Thời báo kinh tế, kinh tế đối ngoại-internet: 7/11/01 Địa chỉ truy cập: www.vneconomy.com.vn Với việc phải nhập khẩu nguyên vật liệu phụ để tăng chất lượng sản phẩm, thì điều đó cũng mang lại cho các doanh nghiệp Việt Nam có những trở ngại nhất định, nhưng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ sẽ tăng sau khi hiệp định thương mại được kí kết. Mức tăng trưởng hàng may mặc Việt Nam sang các thị trường không áp dụng hạn ngạch năm 2000 chỉ đạt có 7% thay vì 17% như năm 1999. Mức tăng trưởng này không cao và không đồng đều. Những kết quả trên càng khẳng định thêm vai trò quan trọng của ngành may mặc Việt Nam trong tương lai. 2.những kết quả tồn tai trong kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam Hiện nay, hàng Việt Nam chịu thuế nhập khẩu vào Mỹ khá cao nên năm 2000 mới xuất khẩu được 49 triệu USD, 5 tháng đầu năm xuất khẩu 17 triệu USD hàng may mặc vào Mỹ. Hai điểm yếu trong cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam là thiếu kinh nghiệm tiếp thị và thanh toán xuất nhập khẩu, thiếu nguyên phụ liệu để sản xuất hàng giá FOB theo yêu cầu của khách hàng Mỹ. Tất nhiên hai thế mạnh là chất lượng sản phẩm đáp ứng tốt yêu cầu do lao động khéo tay và giá cả của nhóm hàng có đẳng cấp cạnh tranh với các nước xuất khẩu trên thế giới. Một số doanh nghiệp kí được hợp đồng xuất khẩu vào thị trường Mỹ, nhưng do không được trợ giá để bù phần chênh lệch và thuế nhập khẩu cao nên nếu thực hiện sẽ lỗ lớn. Chẳng hạn, cuối năm 2000, công ty may mặc Huế xuất khẩu sang Mỹ 238.896 bộ quần áo thể thao bị lỗ 187.840 USD. Một số mặt hàng may gia công truyền thống như áo jacket, quần áo dệt kim...nhận được ít đơn hàng hơn năm trước. Để đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc và duy trì được tốc độ tăng trưởng cao, Bộ công nghiệp đã kiến nghị Chính phủ áp dụng các biện pháp hỗ trợ và khuyến khích như trợ giá xuất khẩu vào thị trường mới hoặc mặt hàng xuất khẩu lần đầu (nếu bị lỗ);hoàn thuế nhập khẩu vải may hàng xuất khẩu theo hình thức ghi thu, ghi chi, vải sản xuất trong nước để may xuất khẩu được coi như vải xuất khẩu và không phải chịu thuế ; miễn thuế nhập khẩu hóa chất nhuộm, trợ nhuộm... Một trong những nguyên nhân làm cho mức tăng trưởng không cao là do xác định giá FOB thấp hơn năm 1999 từ 5-6%, ví dụ như mặt hàng jacket năm 1999 giá bình quân là 18,5 USD thì năm 2000 chỉ còn 17,5 USD/chiếc. Để tăng cường sự phát triển của thị trường không hạn ngạch, năm 2001 ,Bộ thương mại đã quyết định sẽ tiếp tục đẩy mạnh thưởng xuất khẩu sang thị trường không áp dụng hạn ngạch và sử dụng vải sản xuất trong nước. Nếu tính kết quả thực hiện của 4 tháng đầu năm 2001 thì 18 mặt hàng được giải phóng năm 2000 thực hiện rất tốt. Có thể nêu dẫn chứng cụ thể 18 mặt hàng áp dụng cơ chế cấp phép tự động thì chỉ có một mặt hàng xuất khẩu dưới 89% so với năm ngoái, còn lại đều đạt trên 89%. Ví dụ (cat: kí hiệu nhóm mặt hàng may mặc xuất khẩu) cat.9 tăng 52%,cat.13 tăng 13%, cat.18 tăng 70%, cat.26 tăng 103%,cat.28 tăng 293%...Nếu tính các mặt hàng quản lý hạn ngạch (11 mặt hàng ) thì ngược lại chỉ có 4 mặt hàng đạt mức xuất khẩu so với cùng kì năm ngoái trên 88%, đó là cat.4, cat.7, cat.8, và cat.78. Còn lại 7 mặt hàng đều đạt tỷ lệ thấp so với cùng kì năm 2000. Giá xuất khẩu trên thị trường quốc tế có giảm sút khoảng 20-30%. Trong đó nước nhập khẩu mặt hàng may mặc của Việt Nam là Hoa Kỳ thì hiện nay tỷ giá VNĐ so với đồng USD có giảm nên tác động đến việc xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam. Ngoài ra do kinh tế của nước nhập khẩu có dấu hiệu tăng trưởng chậm so với dự kiến đầu năm nên nhu cầu về mặt hàng may mặc có giảm. Đó là một trong những yếu tố chính tác động đến nhu cầu xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam, cũng như các nước khác. Nguyên nhân chính đó là do giá xuất khẩu các mặt hàng may mặc từ đầu năm đến nay giảm từ 10-20% so với năm 97. Cụ thể: áo sơ mi giảm 0,16 USD/chiếc; quần giảm 0,71 USD/chiếc; quần áo dệt kim giảm 0,39 USD/chiếc. Bên cạnh đó, do thị trường Hoa Kỳ cũng như thị trường EU có sự thay đổi thời trang khi chuyển sang dùng vải với chất liệu phủ tráng bề mặt đã làm ảnh hưởng đến việc thực hiện hạn ngạch áo jacket, mặt hàng chiếm tỷ trọng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm của Tổng công ty may mặc Việt Nam (theo tạp chí thời báo kinh tế: địa chỉ chuy cập internet-www.vneconomy.com.vn ngày truy cập7/11/01) Như vậy xuất khẩu may mặc trong những năm tới sẽ gặp phải rất nhiều thách thức và các doanh nghiệp khó có thể thực hiện được hết hạn ngạch như mục tiêu đề ra. 3.Nguyên nhân tồn tại trong kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam. Một trong những nguyên nhân tồn tại cả mặt xấu và mặt tốt về thực trạng xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang Mỹ đó là hạn ngạch tuyệt đối - hạn ngạch hạn chế về số lượng. Trong suốt thời gian áp dụng hạn ngạch, chỉ một số hàng hóa đã được ấn định mới được phép nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Số hàng hóa nào dư ra so với hạn ngạch sẽ bị giữ lại tại một “ khu ngoại thương” để bổ sung cho Kỳ hạn ngạch sau đó hoặc được đưa vào kho ngoại quan hoặc cũng có thể bị tra về hoặc tiêu hủy dưới sự giám sát của nhân viên hải quan. Các hiệp định về hàng dệt của Hoa Kỳ có quy định gia tăng các hạn ngạch theo từng thời điểm. Loại thứ hai là hạn ngạch tính theo thuế suất áp dụng cho một khối lượng hàng nhập khẩu được quy định với một mức thuế thấp trong một thời hạn nào đó. Không có giới hạn về số lượng hàng nhập khẩu trong suốt thời hạn này, nhưng nếu hàng nhập khẩu vượt quá số lượng cho phép mức thuế thấp thì số hàng dư đó sẽ phải chịu mức thuế cao hơn. Hàng may mặc cần có “visa” mới vào được Hoa Kỳ. Một visa hàng may mặc là dấu xác nhận trên một hóa đơn hoặc một “giấy phép kiểm soát nhập khẩu”do chính phủ nước ngoài cấp. Visa này được dùng để kiểm soát việc xuất khẩu hàng may mặc và sản phẩm từ hàng dệt từ nước ngoài vào Hoa Kỳ hoặc dùng để ngăn cấm việc nhập khẩu lậu các mặt hàng này vào Hoa Kỳ. Visa hàng may mặc có thể bao gồm hàng có hạn ngạch hoặc không có hạn ngạch. Hàng dệt có hạn ngạch có thể cần hoặc không cần một visa tùy thuộc vào nước xuất xứ. Nếu thời gian hạn ngạch đã chấm dứt mà sau đó visa mới được cấp và hàng đã nhập khẩu vào Hoa Kỳ thì lô hàng này sẽ không được giải phóng cho nhà nhập khẩu cho đến khi hạn ngạch mới được cấp phép. Với sự rắc rối và phức tạp của bộ luật thương mại Hoa Kỳ thì sự tiếp cận thị trường này cần phải cần phải thông thạo bộ luật đó Theo ông Matthew J.Mc.Conkey, một chuyên gia của Mỹ, hiện nay những doanh nhân có thể nhập khẩu hàng hóa vào thị trường Mỹ phần lớn không phải là các công ty Việt Nam. Bởi vì luật lệ nhập khẩu vào Mỹ rất rườm rà và phức tạp. Do đó, ông M.J.Mc.Conkey hy vọng rằng các công ty Việt Nam sẽ đi bằng con đường vòng là bán hàng cho công ty của nước khác và công ty này sau đó sẽ nhập khẩu hàng vào Mỹ. Đồng thời cũng phải tránh được những nguyên nhân không tốt đến sự xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam như sau: +Giảm bớt sự rườm rà tại cơ quan Hải Quan. +Cơ quan nhà nước tích cực giúp cho các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc Việt Nam như: vốn, công nghệ, hay các hợp đồng được thỏa thuận giữa hai chính phủ Việt-Mỹ ngày càng có lợi hơn cho phía doanh nghiệp Việt Nam. +Các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc Việt Nam cần phải cải thiện công nghệ lạc hậu so với các nước trên thế giới, cải thiện chất lượng sản phẩm để hạn chế tối đa việc phải nhập khẩu một số nguyên vật liệu và tăng sự cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu. Ngoài những yếu tố ảnh hưởng từ hai phía Việt Nam và Hoa Kỳ thì còn yếu tố tác động từ bên ngoài Thứ nhất, chúng ta phải cạnh tranh với trung quốc là nước xuất khẩu hàng may mặc mạnh nhất, và họ đang đàm phán để gia nhập WTO. Khi họ trở thành thành viên của WTO thì cản trở hạn ngạch đối với họ sẽ bị cắt bỏ dần. Trong khi đó Việt Nam chưa được gia nhập WTO. Thứ hai, theo dự đoán của các chuyên gia cao cấp trên thế giới về tình hình kinh tế của các nước trụ cột như Mỹ, Nhật, EU của năm nay và năm tới có xu hướng điều chỉnh lại tốc độ tăng trưởng. Một khi kinh tế của các nước phát triển chậm lại thì nhu cầu về hàng may mặc, giầy dép sẽ giam theo. Thứ ba, hiện nay có một xu hướng các nước như Hàn Quốc đầu tư trở lại Bắc triều tiên và khu vực lãnh thổ như Đài Loan đầu tư vào Đại lục. Đây cũng là cái khó đối với chúng ta, bởi khách hàng sẽ chú ý vào những thị trường này. Chưa kể các nước khác trong khu vực như Indonesia,Phippines cũng xuất khẩu may mặc nhiều. II.Đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ. 1.Đánh giá tình hình sản xuất hàng may mặc xuất khẩu Việt Nam. May mặc đang ngày càng trở thành ngành có vị trí quan trọng trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong những năm gần đây với kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hàng năm từ 20-25%, tạo việc làm cho 1,6 triệu lao động. Năm 2000 năng lực sản xuất toàn ngành may mặc tính theo 6 nhóm sản phẩm chính như sau: Xơ PES công suất thiết kế 167 nghìn tấn, hoàn toàn thuộc về đầu tư nước ngoài. Kéo sợi: 282 nghìn tấn, trong đó phần trong nước chỉ có 72 nghìn tấn. Vải các loại: 800 triệu mét trong đó 380 triệu mét. Đối với 3sản phẩm trên phần đầu tư nước ngoài tính theo giấy phép đã cấp, thực tế mới đạt khoảng 35% vốn đầu tư. Dệt kim: 32 nghìn tấn, trong nước 20 nghìn tấn. Khăn bông: 27,2 nghìn tấn, trong nước 18,8 nghìn tấn Năng lực sản xuất trong nước thực tế chỉ có thể huy động 70% công suất dệt vải và kéo sợi vì thiết bị máy móc củ hiên chiếm tới 60%. Hàng may mặc: toàn ngành 400 triệu sản phẩm, trong đó trong nước 200 triệu có khả năng huy động đạt công suất thiết kế. Ngoài ra, so với các nước trong khu vực, ngành may mặc Việt Nam còn kém về năng lực sản xuất, trình độ công nghệ, khối lượng, chủng loại, mẫu mã hàng hóa còn nghèo nàn và năng suất thấp dẫn đến giá thành cao hơn các nước, do vậy phần giá trị gia tăng theo sản phẩm thấp. Theo dự kiến kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam năm 2001 đạt khoảng 1,7 tỉ USD, bằng 77,1% so với năm 2000. Riêng trong 6 tháng đầu năm nay đạt 887 triệu USD. Điều đặc biệt là kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang Hoa Kỳ trong những năm tới chắc chắn sẽ tăng nhanh sau khi hiệp định thương mại được kí kết. 2.Đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường Hoa kỳ Hiện nay, một số doanh nghiệp kí được hợp đồng xuất khẩu vào thị trường Mỹ những do không được hỗ trợ tích cực của Nhà nước Việt Nam để bù phần chênh lệch về thuế nhập khẩu cao nên nếu thực hiện sẽ lỗ lớn (Tất nhiên sự hỗ trợ của Chính Phủ Việt Nam trong điều kiện cho phép để không ảnh hưởng đến luật chống phá giá ). Điều đó chứng tỏ với mức thuế đánh vào hàng may mặc của Việt Nam khá cao làm ảnh hưởng đến mức xuất khẩu vào thị trường Mỹ, tình hình này sẽ được cải thiện đáng kể sau khi hiệp định thương mại Việt-Mỹ được kí kết. Chính vì vậy, việc đưa hàng vào thị trường Mỹ hiện nay của các công ty may mặc Việt Nam còn dè dặt và cầm chừng và phải tìm ra lối đi của mình. Tuy nhiên vấn đề của các doanh nghiệp may mặc Việt Nam là làm sao để vượt qua được các rào cản phi thuế quan và sức cạnh tranh. Các rào cản phi thuế quan được đánh giá là khó khăn nhất. Kế đó là sự cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của các nước khác và cuối cùng mới đến các vấn đề liên quan đế luật pháp vốn rất chặt chẽ của nước Mỹ. Hiện nay, nước Mỹ đang có sự suy giảm phát triển kinh tế đồng thời giá sản

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ.doc
Tài liệu liên quan