Đề án Hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ

 

Phần I : Sự cần thiết của hoạt động đầu tư trong các công ty BHNT

I.Lý luận chung về hoạt động đầu tư hoạt động đầu tư trong các doanh nghiệp

1.Khái quát chung về đầu tư

2.Hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp

II.Đặc điểm hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ và sự cần thiết của hoạt động đầu tư

1.Đặc điểm hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ

2.Vai trò hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ

III.Quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư của công ty BHNT

1.Sự cần thiết của quản lý nhà nước về đầu tư

2.Quản lý bằng pháp luật đối với hoạt động đầu tư của các công ty BHNT

3.Những tác động tiêu cực của các quy định pháp luật về hoạt động đầu tư của công ty BHNT

Phần II :Các hình thức đầu tư của công ty bảo hiểm nhân thọ

I.Các hình thức đầu tư thông dụng

II.Các hình thức tổ chức đầu tư

Phần III: Hoạt động đầu tư trong công ty BHNT ở Việt nam hiện nay và giải pháp

I.Thực trạng hoạt động đầu tư trong các công ty BHNT ở Việt nam hiện nay

II.Phương hướng và giải pháp chủ yếu trong hoạt động đầu tư của các công ty BHNT ở Việt nam hiện nay:

III.Kiến nghị

 

 

docx32 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4521 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăm 1991 , 1839 tỷ năm 1993 và 1977 tỷ năm 1994 đứng thứ 3 sau các ngân hàng thương mại và các quỹ tương hỗ (Nguồn best’s aggregates&averages;mutual fund fact book 1994) Đầu tư của các công ty nhân thọ Pháp là 2638 tỷ France năm 1995 và 3089 năm 1996 (Nguồn :French isurance in 1996) Ngoài ra công ty bảo hiểm còn tạo ra việc làm cho một lực lượng lao động lớn trong thị trường Việt Nam hiện nay góp phần giải quyết vấn đề thất nghiệp cho nền kinh tế nói chung và cho sinh viên chuyên ngành bảo hiểm nói riêng III.QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA CÔNG TY BAO HIỂM NHÂN THỌ 1.Sự cần thiết của quản lý nhà nước về đầu tư Nhà nước cần phải quản lý chính sách đầu tư của các công ty bảo hiểm nhằm: Bảo vệ quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm (khách hàng) Hướng đầu tư các quỹ vào những mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước Ngăn ngừa các công ty bảo hiểm tìm cách gây ảnh hưởng tiêu cực trong toàn bộ lĩnh vực tài chính 1.1.Quản lý nhà nước về đầu tư nhằm bảo vệ người tham gia bảo hiểm Khi xem xét đến rủi ro đầu tư của công ty bảo hiểm nhân thọ chúng ta phải đi từ mối quan hệ nói chung đó là quan hệ giữa rủi ro đầu tư và lợi nhuận , rủi ro càng cao thì lợi nhuận cũng càng lớn và ngược lại .Mục đích của nhà quản lý quỹ là làm sao tối đa hoá lợi nhuận với một mức độ rủi ro nhất định . Tuy nhiên do đặc thù của mình nên công ty bảo hiểm nhân thọ cần có những đòi hỏi riêng Các rủi ro tài chính đối với công ty bảo hiểm nhân thọ là : -Rủi ro về tài sản (c1):Phát sinh do các nhà quản lý quỹ không thu hồi được nợ hoặc các tài sản đầu tư của các công ty baỏ hiểm nhân thọ bị giảm giá trị -Rủi ro về tính phí (c2) : phát sinh do trong lúc tính phí bảo hiểm công ty bảo hiểm nhân thọ không dự tính đúng các yếu tố liên quan trong quá trình tính phí như : thu nhập đầu tư ,tỷ lệ chết chi phí kinh doanh , mức bán hàng -Rủi ro về cân đối giữa tài sản có và tài sản nợ (c3):Do các trách nhiệm phát sinh hiện tại nhiều hơn tiền thu từ phí bảo hiểm và các khoản đầu tư làm cho công ty bảo hiểm nhân thọ phải bán tài sản với giá thấp để đảm bảo cho khả năng thanh toán -Các rủi ro khác (c4): Liên quan đến khả năng thanh toán của công ty bao hiểm nhân thọ trong việc dự đoán các rủi ro như sự thay đổi về thuế , chính sách của nhà nước hay sự lỗi thời của sản phẩm và trong mọi trường hợp rủi ro xảy ra người phải chịu thiệt thòi trước sự mạo hiểm của công ty bảo hiểm không ai khác chính là người tham gia bảo hiểm .Những hạn chế đối với công ty bảo hiểm trong việc lựa chọn hình thức đầu tư được đặt ra nhằm giảm bớt khả năng các công ty này lâm vào tình trạng phá sản và để đảm bảo rằng nếu xảy ra phá sản thì những người tham gia bảo hiểm chỉ chịu thiệt hại ít nhất 1.2.Định hướng sự lưu chuyển của quỹ đầu tư Các công ty bảo hiểm nhân thọ thường quản lý một tỷ lệ khá lớn các cổ phiếu và tiền tiết kiệm cá nhân dài hạn bởi vậy đòi hỏi khi chính phủ thấy rằng cần phải định hướng sự lưu chuyển của số cổ phiếu và tiền tiết kiệm này để phục vụ cho những mục tiêu kinh tế cao hơn của đất nước .Việc định hướng sự lưu chuyển trên thường nhằm vào một số mục tiêu cụ thể sau : -Bảo đảm đủ nguồn vốn để tài trợ cho các chương trình cho tiêu công cộng -Đảm bảo để các quỹ đầu tư vào nền kinh tế trong nước -Bổ xung cho sự thâm hụt của ngân sách Nhà Nước 1.3.Làm giảm nguy cơ tập trung nguồn lực trong khu vực tài chính Tại một số nước chính phủ thường đưa ra những giới hạn đối với hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm nhằm ngăn chặn các công ty này sử dụng nguồn lực tài chính của mình để kiểm soát các tổ chức tài chính khác .Những giới hạn này làm giảm quyền sở hữu trong các doanh nghiệp tài chính phi bảo hiểm như Ngân hàng , thậm chí ngay cả trong ngành bảo hiểm .VD :chính phủ nhật bản không khuyến khích các công ty bảo hiểm nhân thọ sở hữu các công ty bảo hiểm nhân thọ và ngược lại 2.Quản lý bằng pháp luật đối với hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ Những chính sách đầu tư của công ty bảo hiểm chủ yếu chịu sự điều chỉnh của các đạo luật bảo hiểm .Những hạn chế đối với hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm được quy định trong luật bảo hiểm nhằm đạt ít nhất một trong các mục tiêu sau : -Các tài sản đầu tư tài chính phải đảm bảo mức độ rủi ro thua lỗ thấp nhất đến mức có thể chấp nhận được -Danh mục đầu tư phải được đa dạng hoá ở mức đủ để làm giảm bớt hơn nữa rủi ro thua lỗ và có tính thanh khoản cao để đáp ứng nhu cầu thanh toán bồi thường -Cơ cấu của danh mục đầu tư phải tương ứng với tính chất của các trách nhiệm để đảm bảo khả năng đáp ứng các thanh khoản theo hợp đồng cho người tham gia bảo hiểm *Các quy định chủ yếu trong luật bảo hiểm của các nước về quản lý hoạt động đầu tư +Danh mục đầu tư : Là danh mục các loại đầu tư mà công ty bảo hiểm nhân thọ được phép thực hiện .Danh mục đầu tư mà công ty bảo hiểm nắm giữ có độ rủi ro và tính thanh khoản có thể chấp nhận được .Theo thông tư số 72/ TC BTC ngày 28-8-2001 của bộ tài chính thì danh mục đầu tư gồm có : Mua công trái , tín phiếu kho bạc nhà nước , kinh doanh bất động sản , mua chứng khoán , góp vốn liên doanh , gửi ngân hàng , các tổ chức tín dụng , cho vay thế chấp +Những giới hạn tối đa , tối thiểu với các loại đầu tư .Những giới hạn tối đa được áp dụng đối với những loại đầu tư bị coi là có mức độ rủi ro cao ví dụ :Cổ phiếu công ty , bất động sản và cho vay .Mức giới hạn tối đa và tối thiểu với các loại đầu tư thường được ấn định bằng một tỷ lệ phần trăm chứ không phải bằng một con số cụ thể .VD : Việt Nam -Theo thông tư trên thì mức giới hạn tối đa là 35% tổng vốn từ khoản dự phòng nghiệp vụ Những giới hạn tối thiểu cũng được pháp luật quy định đối với một số loại hình đầu tư nhất là các chứng khoán chính phủ nhằm thực hiện các chính sách vĩ mô của nhà nước +Những hạn chế đối với một khoản đầu tư : Luật bảo hiểm không chỉ hạn chế đối với từng loại hình đầu tư mà còn hạn chế đối với mỗi khoản đầu tư +Duy trì tỷ lệ hợp lý giữa các khoản đầu tư và nghĩa vụ của công ty bảo hiểm đối với người tham gia bảo hiểm .Yêu cầu này được xuất phát từ nguyên tắc mà theo đó các công ty bảo hiểm phải luôn bảo đảm phần chênh lệch giữa tài sản nợ nằm trong giới hạn nhất định +Giới hạn về hoạt động đầu tư ra nước ngoài .Ở các nước , luật bảo hiểm thường quy định rằng trách nhiệm của một công ty bảo hiểm đối với người tham gia bảo hiểm được bảo đảm bằng những khoản đầu tư thực hiện trên cùng một đồng tiền với đồng tiền mà người tham gia bảo hiểm nộp phí .Ngoài ra , giới hạn đối với các khoản đầu tư ra nước ngoài luôn thấp hơn so với các khoản đầu tư trong nước 3.Những tác động tiêu cực của các quy định pháp luật về hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm nhân thọ Những hạn chế đối với những chính sách đầu tư về cơ bản nhằm mục đích bảo vệ người tham gia bảo hiểm .Tuy nhiên , những hạn chế này khiến các công ty bảo hiểm phải giữ danh mục đầu tư sao cho đáp ứng được những yêu cầu nhất định và điều này gây thiệt hại cho chính người tham gia bảo hiểm .Trong một thị trường cạnh tranh gay gắt , một tỷ suất lợi nhuận đầu tư thấp sẽ khiến giá cả của sản phẩm bảo hiểm trở nên cao hơn .Đặc biệt ,đối với bảo hiểm nhân thọ , là nơi mà động cơ chủ yếu của việc tham gia bảo hiểm là đảm bảo một tỷ lệ lãi tỷ suất thu hồi lơị nhuận như khoản tiết kiệm dài hạn , giá cả còn có thể cao hơn Việc thiết kế các sản phẩm mới trong các công ty bảo hiểm nhân thọ , vốn có liên quan chặt chẽ với sự điều chỉnh linh hoạt theo chính sách đầu tư , cũng có thể bị ảnh hưởng .Sự linh hoạt mềm dẻo trong các chính sách đầu tư càng lớn thì phạm vi cải tiến các sản phẩm càng mở rộng.Các công ty bảo hiểm sẽ bị đặt vào vị trí bất lợi so với các nhà cung cấp các khoản tiết kiệm đầu tư dài hạn khác , VD như : Ngân hàng thương mại do những ngân hàng này không phải chịu những hạn chế trên Cuối cùng , các quy định của pháp luật cũng ảnh hưởng đến việc huy động tiết kiệm .Các công ty bảo hiểm là một trong những công cụ quan trọng để huy động những khoản tiết kiệm cá nhân dài hạn .Các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ nhằm vào những nhóm dân cư là những người ít có khả năng đầu tư vào thị trường vốn do hạn chế về quy mô vốn và kiến thức tài chính .Do đó những hạn chế của pháp luật về đầu tư làm giảm khả năng của công ty bảo hiểm trong việc tung ra thị trường những sản phẩm tiết kiệm hấp dẫn , gây phương hại cho việc huy động vốn dài hạn cho nền kinh tế PHẦN II CÁC HÌNH THỨC ĐẦU TƯ CỦA CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ I.CÁC HÌNH THỨC ĐẦU TƯ THÔNG DỤNG Do những đặc điểm của mình mà công ty bảo hiểm nhân thọ phải phân bổ tài sản làm sao hạn chế rủi ro , đồng thời cũng do đặc điểm quỹ của công ty bảo hiểm nhân thọ có thời han dài nên việc phân bổ tài sản của công ty nhân thọ cũng tương đối khác biệt .Dưới đây là một số hạng mục đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ 1.Gửi tiền vào các tổ chức ngân hàng (tín dụng ) Do đặc thù của công tác đầu tư vốn của công ty bảo hiểm là phải đảm bảo nguyên tắc bảo toàn và phát triển nguồn vốn , hoạt động đầu tư tín dụng vẫn là một hoạt động chính , chủ yếu đối với các công ty bảo hiểm nhân thọ đặc biệt là đối với các nước có thị trường vốn chưa phát triển như Việt Nam 2.Các công cụ nợ có lãi suất cố định của công ty Các chứng khoán có lãi suất cố định của các công ty phát hành là tài sản lớn nhất trong danh mục đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ Mỹ vì nó giúp cho các công ty bảo hiểm nhân thọ dễ quản lý được tài sản có của họ để cân đối với tài sản nợ cũng như hạn chế được rủi ro trong tính phí cũng như rủi ro tài sản 2.1.Trái phiếu công ty : Là các trái phiếu do các công ty phát hành , bản chất là hình thức vay nợ không mang tính chất cổ phần để tài trợ cho các nhu cầu về vốn cuả mình .Đây là hạng mục đầu tư lớn nhất của các công ty bảo hiểm nhân thọ chiếm trung bình khoảng 30%-40% trong các hạng mục đầu tư .Các công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tư vào trái phiếu công ty theo hai cách là đầu tư qua thị trường chứng khoán và đầu tư ngoài thị trường chứng khoán (thị trường OTC) 2.2.Các trái phiếu có thế chấp : Là dạng sản phẩm phát sinh rất đặc trưng của thị trường chứng khoán Mỹ có bản chất xuất phát từ các hợp đồng cho vay thế chấp. Đây là loại chứng khoán được ưa chuộng và mang lại lợi nhuận cao 2.3.Trái phiếu chính phủ và các cơ quan chính phủ phát hành : Đây là các trái phiếu có mức rủi ro tối thiểu là một phần quan trọng trong danh mục đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ Hiện nay tỷ lệ đầu tư vào các trái phiếu này chiếm tỷ lệ 13%-15% tổng danh mục của các công ty bảo hiểm nhân thọ 2.4.Cho vay thế chấp bất động sản thương mại : Là một hình thức đầu tư rất phù hợp với công ty bảo hiểm nhân thọ để đáp ứng các nghĩa vụ tài chính trong tương lai .Tỷ lệ đầu tư vào lĩnh vực này chiếm 10% tổng tài sản của các công ty nhân thọ Mỹ 2.5.Cho vay theo đơn bảo hiểm :Đây là một hình thức đầu tư riêng của công ty bảo hiểm nhân thọ do hai đặc tính : *Là hợp đồng tín dụng nhưng việc cho vay theo đơn bảo hiểm lại không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người cho vay ( công ty bảo hiểm nhân thọ ) mà nó là quyền được hưởng của khách hàng *Vì số tiền vay không vượt quá số tiền giải ước và nếu người vay không trả tiền gốc thì công ty bảo hiểm nhân thọ có thể khấu trừ vào số tiền cam kết thanh toán khi người bảo hiểm chết, do vậyviệc cho vay theo đơn bảo hiểm là tương đối an toàn Hiện nay , tỷ lệ cho vay theo đơn bảo hiểm chiếm khoảng trên 4% tổng tài sản của các công ty bảo hiểm nhân thọ Mỹ 3.Cổ phiếu Do tính chất đặc thù của cổ phiếu là không ổn định về giá và rất khó dự đoán sự biến động của nó nên đầu tư vào cổ phiếu sẽ rủi ro hơn đầu tư vào các sản phẩm có lãi suất cố định .Do vậy nói chung cổ phiếu thường không phù hợp lắm với những đòi hỏi của công ty bảo hiểm nhân thọ về thời hạn cũng như lãi đầu tư .Chính vì vậy luật pháp Mỹ thường kiểm soát chặt chẽ việc đầu tư vào cổ phiếu thường từ tài khoản chung của các công ty bảo hiểm nhân thọ Hiện nay tỷ lệ đầu tư vào cổ phiếu của các công ty bảo hiểm nhân thọ chiếm khoảng 9% tổng tài sản các công ty bảo hiểm nhân thọ mỹ Đối với tài khoản riêng , do lãi đầu tư từ tài khoản này sẽ chuyển trực tiếp cho khách hàng nên luật pháp thường không hạn chế đầu tư của tài khoản này ,bởi vậy cổ phiếu thường chiếm trên 50% trong tài khoản này 4.Bất động sản Đầu tư trực tiếp vào bất động sản là một dạng đầu tư có bản chất cổ phần nên đầu tư vào bất động sản cũng phải gánh chịu các rủi ro tương tự như đầu tư vào cổ phiếu , do vậy luật pháp cũng hạn chế các công ty bao hiểm nhân thọ đầu tư vào bất động sản Khi tiến hành đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh bất động sản , các công ty bảo hiểm thường tuân thủ một số chiến lược kinh doanh nhất định , đó là : +Duy trì sự ổn định của giá trị , chống lạm phát +Đảm bảo có lãi : Đem lại lợi nhuận cho chủ sở hữu các hợp đồng bảo hiểm +Đa dạng hoá đầu tư bằng cách đầu tư vào nhiều lĩnh loại bất động sản khác nhau như : văn phòng , khách sạn , cửa hàng... +Tuân thủ lợi ích công cộng +Phát huy tác dụng khuyếch trương quảng cáo +Nâng cao hình ảnh cuả công ty bằng việc xây dựng những toà nhà chất lượng bảo đảm Nhờ những chiến lược đó mà các công ty bảo hiểm đã có một chỗ đứng vững chắc trên thị trường bất động sản .Công ty Cathay life .Co.LTD hiện nay sở hữu trên 189 toà nhà ở Đài Loan trong đó sử dụng cho công ty 106 toà , cho thuê 83 toà Theo luật New york , các công ty bảo hiểm nhân thọ không được phép đầu tư quá 2% tài sản vào một bất động sản cụ thể và tổng bất động sản nắm giữ không quá 20% tài sản của công ty bảo hiểm nhân thọ 5.Đầu tư vào các quỹ đầu tư Quỹ đầu tư là một dạng doanh nghiệp thuộc loại công ty cổ phần , nó phát hành và bán cổ phiếu để lấy vốn hoạt động .Nguồn hình thành quỹ rất phong phú và đa dạng : Các tập đoàn tư bản , các công ty công chúng , cá nhân ...có vốn nhàn rỗi dù nhiều hay ít đều có thể trở thành chủ sở hữu quỹ đầu tư bằng việc mua các cổ phiếu do quỹ đầu tư phát hành .Quỹ đầu tư còn là một loại doanh nghiệp mà có không dùng vốn để mua máy móc tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh , mà dùng vốn để đầu tư dài hạn thông qua góp vốn liên doanh , mua cổ phần hoặc các loại chứng khoán với mục đích thu lợi nhuận Với tư cách là tổ chức tài chính trung gian , các công ty bảo hiểm có số vốn nhàn rỗi lớn và việc đầu tư vào góp vốn các quỹ đầu tư là hoàn toàn có thể thực hiện được và đây là xu hướng chính trong tương lai (Theo tạp chí bảo hiểm số 1/1998 thì hầu hết các quỹ đầu tư các công ty bảo hiểm chiếm đến 84,8%) 6.Liên doanh Đây là một hình thức đầu tư trực tiếp của công ty bảo họ dùng vốn của mình tham gia góp vốn với các tổ chức khác , cùng thực hiện các dự án kinh tế 7.Một số hình thức đầu tư khác Để hạn chế rủi ro đầu tư như đã nêu trên các công ty bảo hiểm nhân thọ đã thực hiện các hợp đồng lựa chọn , tương lai hoặc hoán đổi , tuy nhiên các công ty bảo hiểm nhân thọ cũng rất thận trọng đối với các sản phẩm tài chính này vì bản thân nó đã chứa đựng các yếu tố đầu cơ và rủi ro tiềm tàng II.CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC ĐẦU TƯ 1.Đầu tư qua phòng đầu tư của công ty: thường thì mỗi công ty bảohiểm đều lập ra một phòng đầu tư riêng có vai trò như các phòng khác trong hệ thống quản lý , nó liên quan chặt chẽ với các phòng liên quan đến với các phòng liên quan đến tài chính .Giám đốc phòng này phải thường xuyên xem xét các dự án đầu tư của công ty và báo cáo tài chính lên giám đốc tổng công ty .Hoạt động đầu tư của công ty chủ yếu thông qua phòng đầu tư này.Hiện nay ở Việt nam , chỉ có Bảo Việt mới thành lập ra phòng đầu tư riêng cũng đang làm việc rất năng động và hiệu quả 2.Đầu tư thông qua công ty hay các quy đầu tư độc lập mà công ty bảo hiểm nắm 100% cổ phiếu hoặc công ty bảo hiểm là cổ động chính Đầu tư thông qua công ty tài chính hoặc các công ty mà công ty bảo hiểm chỉ nắm một phần nhỏ cổ phiếu Việc lựa chọn hình thức đầu tư và hình thức tổ chức đầu tư phụ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh của công ty và điều kiện kinh tế xã hội của mỗi khu vực để chính công ty đó phải năng động và mềm dẻo sao cho hoạt động đầu tư có hiệu quả nhất PHẦN III THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRONG CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ GIẢI PHÁP I.THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRONG CÁC CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ VIỆT NAM HIỆN NAY Cùng với sự gia tăng , mở rộng quy mô hoạt động và đa dạng hoá sản phẩm , các công ty bảo hiểm đã góp phần đáng kể vào việc hình thành thị trường vốn ở Việt Nam .Tính đến thời điểm 31/12/1999 , mức tích luỹ vốn và các quỹ của công ty bảo hiểm thuộc các thành phần kinh tế đã lên tới 3197 tỷ đồng .Tốc độ tăng trưởng đầu tư bình quân trong giai đoạn 1994-1999 là 184%/năm .Chỉ tính riêng năm 1999 số vốn đầu tư của ngành bảo hiểm cho nền kinh tế là 2384 tỷ đồng ,gấp 31 lần so với năm 1995 và ước đạt 0,65% GDP năm 2000 Cũng như nhiều nước khác trên thế giới , hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm Việt Nam được thực hiện theo nguyên tắc an toàn , hiệu quả và đáp ứng kịp thời các yêu cầu chi trả tiền bồi thường cho người tham gia bảo hiểm , đồng thời đem lại lợi nhuận hợp lý để trang trải các chi phí hoạt động và mở rộng phạm vi kinh doanh cho doanh nghiệp Tại Việt Nam , bảo hiểm nhân thọ mới chỉ bắt đầu được đưa ra thị trường vào cuối năm 1996 , nhưng theo những kết quả đạt được trong thời gian vừa qua triển vọng của ngành bảo hiểm nhân thọ Việt Nam là rất tươi sáng Năm 2000 tổng doanh thu phí BHNT là 1117 tỷ đồng tương đương 230,78% so với năm 1999 (bảng 1) Năm Doanh thu phí BHNT các công ty BHNT ở Việt Nam 1999 484 2000 1117 Tuy vậy hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ nhìn chung chưa được chú trọng đúng mức và còn mờ nhạt so với hoạt động khai thác bảo hiểm -bảo Việt -Công ty bảo hiểm hàng đầu Việt Nam hiên nay Số liệu ở bảng sau chothấy tình hình hoạt động đầu tư của bảo việt bảo Việt -Công ty bảo hiểm hàng đầu Việt Nam hiên nay .Nguồn thu từ hoạt động đầu tư của công ty trong năm 1998, 1999,2000 tương ứng chỉ chiếm 6,5% ; 5,9% ; 5,8% (Bảng 2) Năm 1998 1999 2000 Tổng doanh thu 1314,7 1544 2002 Doanh thu phí BHNT 202,7 481,378 916,74 Doanh thu từ hoạt động đầu tư 86,5 91,7 115,7 Bảng 2 Những hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm thường do một phòng chuyên trách thực hiện (VD phòng đầu tư vốn của bảo việt ) hay một bộ phận không chuyên trách thực hiện (VD như phòng kế hoạch hay phòng tổng hợp ở các công ty khác ) , và các công ty cũng mới chỉ tập chung vào việc mua tín phiếu kho bạc , kỳ phiếu ngân hàng hay gửi tiền tiết kiệm Doanh thu phí bảo hiểm tăng lên ở các công ty bảo hiểm kéo sự tăng trưởng cao của nguồn quỹ dự phòng kỹ thuật -nguồn vốn đầu tư chủ yếu của các công ty bảo hiểm nói chung và các công ty bảo hiểm nhân thọ nói riêng .Tốc độ tăng các quỹ dự phòng kỹ thuật của hai công ty bảo hiểm lớn của Việt Nam là Bảo Việt và Baỏ Minh đạt xấp xỉ 19% qua các năm .Các quỹ dự phòng kỹ thuật chiếm đến 60% nguồn vốn của bảng cân đối kế toán của hai công ty bảo hiểm này(Bảng 3) DỰ PHÒNG KỸ THUẬT 1996 1997 1998 1999 I.Bảo hiểm phi nhân thọ 708300 811400 993300 II.Bảo hiểm nhân thọ 1.Dự phòng toán học 630 630 1200 1200 175000 175000 438000 438000 III.Tổng dự phòng kỹ thuật 708930 823400 1168300 (đơn vị Triệu đồng) Bảng 3:Dự phòng kỹ thuật của hai công ty bảo hiểm Bảo Việt và Bảo Minh Qua bảng 3 ta thấy đặc biệt nguồn quỹ dự phòng kỹ thuật bảo hiểm nhân thọ của hai công ty bảo hiểm Bảo Việt và Bảo Minh tăng rất nhanh (Bảng 4) Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 Dự phòng kỹ thuật BHNT(Trđ) 630 12000 175000 483000 Tốc độ (%) +1804,8 +1358,3 +150,3 Bảng 4 Nguồn quỹ dự phòng kỹ thuật lớn cho phép các công ty bảo hiểm mở rộng đầu tư vào thị trường vốn trong nước Các lĩnh vực đầu tư vốn của các công ty bảo hiểm nhân thọ cũng tương đối đa dạng với những tỷ lệ bỏ vốn khác nhau vào từng lĩnh vực .Có thể thông qua danh mục đầu tư của hai công ty bảo hiểm Bảo Việt và Bảo Minh (Bảng 5) Danh mục 1997 1998 1999 1.Chứng khoán 231600 306100 320900 2.Bất động sản 1800 1800 1800 3.Cho vay 30200 28200 69300 4.Gửi tiền 335800 450000 1001600 5.Góp vốn liên doanh 46200 50700 119900 6.Đầu tư khác 500 600 7500 tổng cộng 871100 837400 1521000 Bảng 5 :Danh mục đầu tư vốn của Bảo Việt và Bảo Minh *Danh mục đầu tư vốn của hai công ty bảo hiểm trên cho thấy đầu tư gửi tiền vào các ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu vốn đầu tư , năm 1997 chiếm 38,55% , năm 1998 là 54% và năm 1999 tăng lên 66% .Trong khi đó theo số liệu thống kê không đầy đủ , số tiền gửi tại các tổ chức tài chính chỉ đem lại lợi nhuận khoảng 14-15% , trong khi các ngân hàng cho vay thường thu lãi suất khoảng 25-35% Như vậy tính sơ qua hàng năm với số vốn vài chục tỷ đồng thậm chí nhiều hơn nữa thì số tiền bị thất thu do khoản chênh lệch trên là rất lớn , điều này có thể khắc phục được nếu như các công ty bảo hiểm có thể dùng số vốn của mình để đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh *Về lĩnh vực đầu tư chứng khoán mà chủ yếu là mua kỳ phiếu , trái phiếu kho bạc nhà nước , công trái nhà nước , kỳ phiếu của các ngân hàng cững chiếm lượng vốn lớn , năm 1997 chiếm 26.58%; năm 1998 chiếm 36,55% và năm 1999 chiếm 21,1%. Trong khi đó tỷ trọng này ở các công ty bảo hiểm ở Việt Nam là 30% và ở hầu hết các nước , đây là công cụ đầu tư được các công ty bảo hiểm trên thế giới sử dụng một cách rộng rãi nhất , chiếm tới 87,45 tổng giá trị đầu tư của các công ty bảo hiểm pháp ;51,2% tổng giá trị đầu tư của các công ty bảo hiểm Anh *Lĩnh vực đầu tư ít được các công ty bảo hiểm chú ý và thực tế bỏ ra rất nhỏ là lĩnh vực kinh doanh bất động sản Năm 1997 , 1998 và 1999 chỉ có 1800 triệu đồng được đầu tư vào bất động sản ở công ty bảo hiểm thành phố hồ chí minh , còn Bảo Việt chưa đầu tư vào lĩnh vực này .Lý do mà các công ty bảo hiểm không đầu tư nhiều vào thị teường bất động sản là thị trường này ở nước ta hiện nay có quá nhiều rủi ro , chính sách và luật pháp của nhà nước chưa thật ổn định Tình hình đầu tư tài chính nguồn vốn nhàn rỗi của các công ty bảo hiểm nhân thọ Việt Nam trong thời gian qua có thể được đánh giá một cách khái quát qua những điểm chính về những thành công và hạn chế sau đây 1)Thành công -Các công ty bảo hiểm đã đóng góp một nguồn tài trợ mới đáng kể và ngày một gia tăng cho nền kinh tế trong giai đoạn mà nhu cầu vốn là một sự bức xúc , góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội .Một số loại hình đầu tư của các công ty bảo hiểm còn mang ý nghĩa chính trị , xã hội quan trọng .Cụ thể , ở những thời kỳ Nhà nước huy động vốn để thực hiện các mục tiêu đầu tư phát triển kinh tế quan trọng bằng việc phát hành các loại trái phiếu , tín phiếu kho bạc và công trái Nhà nước ,các công ty bảo hiểm đã bỏ ra hàng trăm tỷ đồng để mua các loại chứng khoán này .Đầu tư vào lĩnh vực này vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế vừa đem lại hiệu quả xã hội cho các công ty bảo hiểm -Trong môi trường đầu tư khó khăn như ở nước ta , các công ty bảo hiểm nhân thọ ở nước ta không để xảy ra tình trạng mất vốn mà tỷ suất lợi nhuận không quá thấp (Bảo Việt đạt khoảng 73% năm 1997 ; 82% năm 1998 ; Bảo Minh đạt 77% năm 1997) là kết quả đáng ghi nhận Nhìn vào danh mục đầu tư của hai công ty bảo hiểm là Bảo Việt và Bảo Minh , có thể nhận thấy , các công ty bảo hiểm đã đầu tư hết sức thận trọng , đảm bảo đúng nguyên tắc “ Có sự đảm bảo chắc chắn nhất “ mà luật pháp quy định -Thu nhập hoạt động đầu tư chiếm một vị trí không nhỏ và có xu hướng tăng lên trong tổng doanh thu và thu nhập của công ty bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam , Như ở bảo Việt , Năm 1999 , thu nhập đầu tư chiếm gần 10% tổng doanh thu và thu nhập của công ty này Nguồn thu nhập đầu tư đã góp phần tích cực giúp các công ty bảo hiểm nhân thọ giữ vững được hiệu quả kinh doanh , tăng cường sức cạnh tranh rên thị trường bảo hiểm và tăng cường khả năng chấp nhận bảo hiểm cho các rủi ro có giá trị lớn Với những thành công nhất định , các công ty bảo hiểm nhân thọ Việt Nam đang trên đường trở thành những nhà đầu tư quan trọng trên thị trường tài chính mở ra một hệ thống tài trợ mới hiệu quả cho nền kinh tế nước ta -Hệ thống tài trợ gián tiếp phi ngân hàng và còn là nhân tố quan trọng để phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam 2.Những hạn chế - Quy mô đầu tư còn nhỏ bé , tổng vốn đầu tư của hai công ty bảo hiểm nhân thọ (Bảo Việt và Bảo Minh ) nếu so với tổng số vốn đầu tư của nên kinh tế chỉ chiếm khoảng 12% .Điều này cho thấy việc thu hút vốn còn rất hạn chế của các công ty bảo hiểm nhân thọ Mặc dù đã được đa dạng hoá , song phạm vi đầu tư còn rất bó hẹp , vốn chủ yếu được gửi vào các ngân hàng để hưởng lãi , tinh trạng này gọi là đầu tư “qua đêm “ .Trong khi đó những năm qua nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng ở mức độ cao , có rất nhiều lĩnh vực đầu tư có thể thu lơi nhuận cao nhưng các công ty bảo hiểm lại không đầu tư vào -Việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi vào đầu tư của các bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam chưa được thực hiện triệt để , phương pháp tính toán các dự phòng kỹ thuật còn mang nhiều sự bất cập và đôi khi còn tuỳ tiện .Vì thiếu chiến lược đầu tư và công việc đầu tư trong những năm trước đây chưa được chuyên môn hoá , nên xảy ra hiện tượng “vốn nhàn rỗi “ mà không biết đầu tư vào đâu .Tất nhiê

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxHoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ.docx
Tài liệu liên quan