Đề án Hội nhập kinh tế đối ngoại

 

MỤC LỤC

Trang

Phần I- Mở đầu 1

Phần II- Nội dung 3

Chương I: Một số vấn đề cơ bản về lý luận 3

1. Thế nào là kinh tế đối ngoại 3

2. Tại sao nước ta phải mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại 3

3. Những nguyên tắc và hình thức cơ bản của kinh tế đối ngoại 7

Chương II: Thực trạng và giải pháp 9

1. Thực trạng 9

2. Giải pháp 15

Phần III- Kết luận 29

Tài liệu tham khảo 30

 

doc31 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1439 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Hội nhập kinh tế đối ngoại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ặt hàng nhập khẩu còn chịu mức thuế cao; chỉ có 20% số dòng thuế được áp dụng mức thuế 5%. Việc hoàn thuế cho các hàng hoá nhập để xuất có quá nhiều thủ tục phức tạp phiền hà và kém hiệu lực. Các biện pháp phi thuế quan nhằm bảo hộ mậu dịch vẫn còn được áp dụng đối với nhiều lĩnh vực, đặc biệt là sự quản lý của các bộ chuyên ngành. Hàng rào bảo hộ mậu dịch cao này tưởng như chỉ có tác dụng ngăn chặn các dòng hàng nhập khẩu, nhưng trên thực tế chúng đã tác động tiêu cực tới toàn bộ hoạt động kinh tế đối ngoại. Vì khi đánh thuế cao vào các hàng hoá nhập khẩu, giá bán của chúng và các hàng hoá liên quan ở trong nước đã tăng lên. Các nhà xuất khẩu phải sử dụng các hàng hoá giá cao này, công nhân viên của họ cũng phải tiêu dùng các hàng hoá nhập khẩu giá cao, mà mức cao giá này ước tính vào khoảng 20 - 100% tuỳ theo mặt hàng. Do vậy đã đẩy chi phí của các hàng xuất khẩu tăng lên, giảm khả năng cạnh tranh của chúng và tác động xuấu đến xuất khẩu. Hàng rào bảo hộ mậu dịch cao chỉ khuyến khích sản xuất thay thế nhập khẩu, FDI cũng tự nhiên phải theo hướng này, trong khi thị trường nội địa của ta nhỏ bé và ngày càng bão hoà, do vậy FDI không tăng lên được và thậm chí đã chậm lại. Hàng rào bảo hộ còn ảnh hưởng xấu tới cả du lịch, vì giá cả tiêu dùng ở Việt nam cao, không hấp dẫn khách du lịch. Thứ hai, chi phí sản xuất của ta nói chung còn cao so với các quốc gia khu vực, do vậy lợi thế cạnh tranh bị giảm thiểu. Chi phí sản xuất đã phụ thuộc vào các yếu tố: thuế nhập khẩu, thuế doanh thu VAT, các phụ phí, tiền lương, giá các dịch vụ, công nghệ được sử dụng... Thuế xuất khẩu, kể cả hàng rào phi thuế quản của nước ta hiện nay có lẽ ở vào hàng cao nhất khuvực, cao hơn cả Trung Quốc, trong khi mức thuế quan của nhiều quốc gia Đông á hiện chỉ còn khoảng 4 - 6%. Thuế doanh thu của ta ở mức 32%, cũng vào hàng cao nhất khu vực. Thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, phụ thu... đều ở mức cao . Thế thu nhập đối với người nước ngoài của ta hiện ở mức cao nhất trong khu vực, trong khi ở Indônêxia là 30%. Thái Lan là 37%, ở Trung Quốc là 45%. Mức thuế thu nhập cao này đã làm cho người nước ngoài không muốn làm việc ở Việt Nam. Tính chung chi phí lao động của nước ta hiện nay tương tự với Inđônêxia, còn thấp hơn các nước ASEAN - 4, nhưng mức thấp này đã giảm dần. Giá các dịch vụ như liên lạc, viễn thông, hàng không, diện, nước... đều ở mức cao: chi phí điện cao hơn 4 nước ASEAN: Xingapo, Ma laixia, Thái Lan, Indônêxia; giá nước cao hơn Philipin gà gần ngang với Malaixia, Thái Lan; chi phí liên lạc, viễn thông vào loại cao nhất khu vực; chi phí cả Trung Quốc. Công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp Việt Nam khá lạc hậu so với các quốc gia khác trong khu vực. Ví dụ, xí nghiệp sản xuất xi măng Sai Mai do nước ngoài đầu tư sản xuất ở nước ta 1 tấn xi măng chi phí 12 USD, trong khi các xí nghiệp sản xuất xi măng của ta chi phí 26 USD Chi phí sản xuất của ta cao như vậy, nên khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam bị giảm thiểu cả ở thị trường trong nước và nước ngoài. Thứ ba, chính sách tiền tệ và tín dụng hỗ trợ hoạt động kinh tế đối ngoại yếu. Tỷ giá giữa đồng Việt Nam với USD và các đồng tiền khác tuy đã được nhiều lần điều chỉnh kể từ 1996, nhưng hiện vẫn còn cao. Theo một số chuyên gia nước ngoài, mức cao này khoảng trên 10% và đã tác động tiêu cực đến hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường ASEAN, Nhật Bản và liên minh Châu Âu, trừ Trung Quốc và Mỹ, Việt Nam đông cao và chưa do thị trường đích thực xác định đã tác động xuấu không chỉ tới xuất khẩu mà cả với FDI và du lịch. Đồng tiền Việt Nam cho đến nay, chưa có thể chuyển đổi tự do. Trong khi tổng giá trị xuất khẩu của nước ta đã ngang bằng tổng GDP, thì đây là một vấn đề rất bất lợi. Buôn bán quốc tế lớn đến thế mà đồng tiền không chuyển đổi tự do được, có nghĩa là các nhà kinh doanh nhập khẩu của ta phải chịu các chi phí chuyển đổi tiền với thủ tục phiền hà và tốn kém thời gian. Đã thế họ còn phải chịu thiệt do quy định về kết hối ngoại tệ, tiền của họ thu được do xuất khẩu, khi nhập khẩu cần ngoại tệ lại phải xin phép ngân hàng cấp. Ngoài ba nguyên nhân trên còn có thể có những nguyên nhân khác như: lao động Việt Nam ít được đào tạo, không lành nghề; thể chế hành chính luật pháp không minh bạch; bộ máy quản lý yếu kém và quan liêu tham nhũng và... Sự phát triển vượt trội của khu vực kinh tế đối ngoại. Kim ngạch xuất khẩu của nước ta năm 2001 đã đạt tới 31,2 tỷ USD, nghĩa là xấp xỉ với tổng giá trị GDI, trong đó giá trị xuất khẩu khoảng 15 tỷ. Trước thập kỷ 1990, tổng kim ngạch xuất khẩu so với GDI của nước ta chỉ vào khoảng 30%. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu so với GDP của Trung Quốc hiện nay cũng chỉ vào khoảng trên 30%. Các nước Xingapore, Malaixia, Thái Lan đã có tỷ trọng so sánh giữa giá trị xuất nhập khẩu và GDP cao hơn ta Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đăng ký vào Việt Nam đến năm 2001 là 38,8 tỷ USD, tỷ trọng của vốn FDI được thực hiện trong tổng đầu tư xã hội vào khoảng 20% - 32%, nghĩa là năm cao nhất (1996) đã đạt tới trên 32% nhăm năm đạt thấp vào khoảng trên 20%, nếu tính cả các nguồn vốn nước ngoài khác như vốn ODA, và vốn vay thương mại thì nguồn vốn nước ngoài đã chiếm khoảng 50% tổng đầu tư xã hội vào giữa những năm 1990 (những năm say tỷ trọng này đã giảm). Ngành du lịch Việt Nam đã có bước phát triển đáng kể. Số khách đu lịch quốc tế vào Việt Nam đã tăng đều, năm 2001 đạt 2,3 triệu khách và hiện có hàng năm ngàn lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài đem lại nguồn thu nhập hàng tỷ USD hàng năm cho đất nước Vấn đề đặt ra là một khi giá trị xuất khẩu xuấp xỉ bằng tổng GDP, vốn FDI và các nguồn vốn nước ngoài khác đã chiếm tới gần 50% tổng vốn đều tư xã hội, số khách du lịch vào Việt Nam lên tới 2,3 triệu người, thì các thể chế kinh tế nước ta không thể vẫn mang tính chất hướng nội như trước được. Đồng tiền Việt Nam không chuyển đổi được đã gây thiệt hại cho cả hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư nước ngoài và du lịch, người nước ngoài và cả người Việt Nam kinh doanh đối ngoại cũng sẽ nản lòng vì việc chuyển đổi ngoại tệ khó khăn, tốn kém. Các vấn đề về tỷ giá, thuế quan, hải quan, những quy chế về đầu tư nước ngoài, chính sách xuất nhập cảnh... cần phải được xem xét lại và đổi mới thích hợp với những điều kiện mới của khu vực kinh tế đối ngoại đã gia tăng vượt trội. Kinh tế đối ngoại và đối nội thực chất chỉ là hai mặt của một nền kinh tế, vì vậy những thay đổi về kinh tế đối ngoại đòi hỏi kinh tế đối nội phải thay đổi. Chính sự tiến triển không kịp của kinh tế đối nội sẽ cản trở kinh tế đối ngoại phát triển và ngược lại. Nước ta đang ở thời điểm kinh tế đối nội không phát triển kịp, cả trở kinh tế đối ngoại - luật pháp thay đổi chậm, các Công ty chậm đổi mới và yếu kém, điều hành của bộ máy quản lý kém hiệu lực... Đội ngũ các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh kinh tế đối ngoại đã tăng cả về số lượng và chất lượng nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Trước những năm 1990 các doanh nghiệp hoạt động kinh tế đối ngoại chỉ có mấy trăm Công ty xuất nhập khẩu và du lịch quốc tế và tất cả đều là của quốc doanh. Nay đội ngũ doanh nghiệp hoạt động kinh tế đối ngoại đã lên đến hàng nghìn gồm cả quốc doanh, tư nhân và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đó là một bước tiến to lớn cần phải khẳng định. Đội ngũ các doanh nghiệp hoạt động kinh tế đối ngoại có một vai trò rất quan trọng, nếu không nói là quyết định đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Thực tế thế giới cho thấy các doanh nghiệp này hoạt động rất đa dạng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, từ sản xuất, thương mại dịch vụ đến bảo hiểm... Chính tính đa dạng này mới đảm bảo cho hoạt động kinh tế đối ngoại có hiệu quả. Một doanh nghiệp sản xuất xuất khẩu muốn có hiệu quả cần phải vay mượn vốn nước ngoài (vì vốn trong nước không đủ và nhiều khi quá đắt), cần phải có dịch vụ tư vấn nước ngoài (vì tư vấn trong nước chưa đủ trình độ), cần phải chuyển đổi ngoại tệ, cần bảo hiểm rủi ro, cần thuê mướn chuyên gia, cần Marketing quốc tế... ở nước ta các doanh nghiệp hoạt động kinh tế đối ngoại thường mới ở hai lĩnh vực: sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu. ở các lĩnh vực khác ta chưa có, nhưng cũng chưa có, nhưng cũng chưa cho phép các Công ty nước ngoài hoạt động. Hoạt động của các Công ty kinh doanh đối ngoại phải xuyên quốc gia, để có thể lợi dụng được những lợi thế so sánh của các nước. Công ty Honda của Nhật đã có chi nhánh ở nhiều nước, vì tại mỗi một nước đó Honda có thể tận dụng được lợi thế hoặc về tài nguyên, hoặc về lao động, hoặc về vị trí địa lý..., do vậy có thể giản thiểu các chi phí. Các Công ty hoạt động xuất khẩu của ta nói cung chưa hoạt động xuyên quốc gia, đã thế ta còn có chính sách nội địa hoá bắt buộc, ép các Công ty nước ngoài phải sản xuất càng nhiều các linh kiện ở Việt Nam càng tốt. Chính sách này đã triệt tiêu mất lợi thế hoạt động của các Công ty xuyên quốc gia. Vì các Công ty này chỉ muốn lợi dụng lao động rẻ và vị trí thuận lợi của Việt Nam để lắp ráp rồi xuất vào Đông Nam á. Nếu ta ép họ phải sản xuất những thứ linh kiện mà nước ta không có lợi thế, do vậy là đi ngược lại lợi ích của họ. Kinh nghiệm của nhiều nước Châu á cho thấy để có một đội ngũ các Công ty hoạt động xuyên quốc gia cần nhiều thời gian. Bước đi đầu tiên là thu hút các Công ty xuyên quốc gia nước ngoài vào hoạt động ở nước ta, biến họ thành các Công ty của ta. Những Công ty này chính là hình mẫu để các Công ty của ta đi theo và phát triển. Nước ta đi theo hướng này, nhưng chúng ta mới chỉ cho phép họ xuất nhập khẩu những gì họ đã đăng ký kinh doanh. Trong thời gian tới phải cho họ hoạt động toàn diện hơn. Các Công ty kinh doanh đối ngoại của các quốc gia hiện nay đều là những Công ty xuyên quốc gia hiện nay đều là những Công ty xuyên quốc gia tư nhân, hoặc cổ phần có tiềm năng to lớn về cả kinh tế, kỹ thuật, nhân lực, thị trường... Trong khi các Công ty kinh doanh đối ngoai của ta cho đến nay chủ yếu vẫn là các Công ty quốc doanh liên doanh với nước ngoài. Các Công ty tư nhân và nhất là tư nhân 100% vốn nước ngoài còn bị phân biệt đối xử trong hoạt động kinh tế đối ngoại, mặc dù gần đây Nhà nước ta đã cho phép khu vực tư nhân được hoạt động xuất nhập khẩu và liên doanh liên kết với nước ngoài. Có thể nói là nếu các Công ty hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta vẫn chủ yếu là các Công ty quốc doanh, không hoạt động xuyên quốc gia, không đa dạng hoá các hoạt động... thì lợi thế so sánh của các Công ty này trên thị trường quốc tế chắc chắn sẽ khó tránh khỏi thua kém các Công ty xuyên quốc gia của các nước khác. 2. Giải pháp Các quan hệ bên trong nền kinh tế hiện tại là quan hệ thị trường, còn các quan hệ phi thị trường thì rất ít và có lẽ chỉ tồn tại trong viện trợ ODA, viện trợ không hoàn lại, tài trợ của các loại quỹ tư nhân... Tính chất thị trường đậm nét của các quan hệ kinh tế quốc tế đã quy định các quan hệ kinh tế đối ngoại của mọi quốc gia trước hết phải tuân thủ các nguyên tắc của thị trường: Sản xuất lưu không phải theo cung cầu của thị trường thế giới: tỷ giá giữa các đồng tiền cũng do thị trường thế giới quy định, giá cả của các hàng hoá và dịch vụ lưu thông trên thị trường thế giới là giá cả thị trường thế giới; giá chứng khoán, công trái, cũng phải do thị trường quy định. Các quan hệ kinh tế bên trong của một quốc gia hiện có thể do các chính phủa quốc gia điều tiết, có khi khá chặt chẽ, nhưng những quan hệ kinh tế quốc tế hiện chịu sự điều tuết của các chính phủ một cách rất hạn chế, chúng có một không gian rộng rãi hơn để tự do vận động. Thực tế của thế giới cho thấy, các quan hệ kinh tế đối ngoại của một quốc gia càng vận động theo các nguyên tắc của thị trường nền kinh tế của quốc gia ấy càng có thể tham gia sâu rộng và có hiệu quả vào quá trình hội nhập toàn cầu. Thực tế của các nước ASEAN và Đông á đã cho thấy điều đó: giá cả trong nước càng sát với giá thị trường thế giới, người tiêu dùng trong nước được hưởng lợi do mua hàng không phải chịu thuế nhập khẩu cao, các lợi thế cạnh tranh của quốc giá được phát huy: tỷ giá thị trường đã đảm bảo mức giá của đồng tiền quốc gia phù hợp với giá thực tế, tạo điều kiện đảm bảo sức cạnh tranh của nền kinh tế: giá chứng khoán, cổ phiếu có tính thị trường quốc tế đã tạo điều kiện khai thông dòng vốn quốc tế đi tới mọi vùng trong nước... Do vậy, ta cần có một lộ trình chủ động và tích cực để chuyển các quan hệ kinh tế đối ngoại vận động theo các nguyên tắc của thị trường, nếu năm 2006 ta thực hiện đầy đủ các cam kết với AFTA và các cam kết chủ yếu trong Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ, nếu 2004 nước ta được gia nhập WTO, thì lộ trình chuyển các quác hệ kinh tế đối ngoại nước ta vận động đầy đủ theo các nguyên tắc của thị trường cũng không thể vượt quá 2006. Vì những cam kết quốc tế này buộc nước ta phải xoá bỏ hàng rào phi thuế quan và hạ thấp thuế quan xuống vào khoảng 5 - 10%, thừa nhận rộng rãi các quyền kinh doanh của các Công ty nước ngoài tại nước ta trên nhiều lĩnh vực kể cả dịch vụ. Trong tình hình đó, nếu giá hàng hoá và dịch vụ nước ta không theo sát giá thế giới, tỷ giá vẫn không do thị trường định, đồng Việt Nam vẫn không chuyển đổi được, thị trường vốn chưa khai thông với thị trường thế gới, các chủ kinh doanh của ta vẫn không đủ các quyền lao động ... thì nền kinh tế nước ta sẽ hội nhập vào nền kinh tế thế giới với những khiếm khuyết và hạn chế to lớn, làm giảm thiểu vị thế cạnh tranh so với các nền kinh tế trong khu vực. Bảo hộ mậu dịch và phát triển kinh tế đối ngoại. Có quan điểm cho rằng có thể thực thi chính sách bảo hộ mậu dịch, đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút các nguồn vốn nước ngoài. Thực tế thế giới cho thấy đã không có quốc gia nào thực hiện thành công chính sách này. Một nguyên tắc gần như phổ biến trong các quan hệ quốc tế hiện nay là: một quốc gia muố mở cửa thị trường nước khác thì đồng thời phải mở cửa thị trường nước mình. Các nước phát triển đến cuối thập kỷ 1990 đã mở cửa nền kinh tế của họ ở mức rất cao: thuế quan trung bình chỉ còn khoảng 2 - 4% hàng rào phi thuế quan bị bãi bỏ về cơ bản. Nếu một nước nào đó muốn đặt mức thuế quan bị bãi bỏ về cơ bản. Nếu một nước nào đó muốn đặt mức thuế quan cao cho một sản phẩm nhập khẩu, lập tức sẽ bị các đối tác kiện ra WTO và có thể bị trả đũa. Việc Mỹ 2002 đơn phương tăng thuế nhập khẩu thép lên 30% là một ví dụ. Bảo hộ mậu dịch trên thực tế đã chó hại cho sự phát triển kinh tế đối ngoại: Việc tăng giá các sản phẩm trong nước đã làm tăng chi phí đối với cả sản xuất xuất khẩu cũng như phục vụ nhu cầu trong nước: che chở cho các doanh nghiệp trong nước sản xuất kém hiệu quả mở rộng sản xuất - chống lại các giải pháp hội nhập quốc tế: khuyến khích xu hướng thay thế nhập khẩu khẩu - giảm thiểu cơ hội mở rộng khả năng thu hút đầu tư nước ngoài... Song có quan điểm cho rằng các nước kém phát triển cần một lộ trình bảo hộ mậu dịch để tham gia có hiệu quả vào hội nhập quốc tế; lộ trình này càng dài càng tốt, vì các doanh nghiệp trong nước càng có nhiều thời gian trưởng thành để đua tranh trên thương trường quốc tế. Đúng là các nước kém phát triển cần có một lộ trình hội nhập quốc tế, nhưng lộ trình này không phải là một lộ trình gia tăng chính sách bảo hộ mậu dịch để rồi xoá bỏ nó, mà là một lộ trình bãi bỏ dần các hàng rào bảo hộ. Thường lộ trình này kéo dài 2 - 5 năm, tuỳ theo từng ngành kinh tế kỹ thuật. Xét về hiệu quả kinh tế thuần tuý, thì không cần đến lộ trình này, lý thuyết kinh tế học hiện đại và thực tế hàng chục năm qua đã chứng minh cho luận điểm này. nhưng xét về mặt chính trị và xã hội, thì lại cần cón một lộ trình như vậy để đổi mới cơ cấu sản xuất, giải quyết tình trạng thất nghiệp, đào tạo lại nghề nghiệp, giữ ổn định xã hội... Một Nhà nước càng có năng lực giải quyết tốt các vấn đề trên, thì lộ trình hội nhập quốc trế càng được rút ngắn và ngược lại. Có người lo ngại rằng việc giảm thuế nhập khẩu sẽ làm giảm muốn thu ngân sách. Thực tế của thế giới cho thấy ở những quốc gia giảm thuế nhập khẩu, nguồn thu ngân sách không những không giảm mà còn tăng, do diện thu thuế tăng, do tình trạng trốn lậu thuế, tham nhũng giảm... Dựa vào những phân tích trên đây, nước ta cần có một lộ trình hội nhập quốc tế chủ động và tích cực phù hợp với thực tế. Lộ trình này một mặt tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cho nước tự vươn lên, mặt khác dùng sức ép của việc giảm dần hàng rào bảo hộ để buộc các doanh nghiệp phải vươn lên, nếu không sẽ bị đào thải. Thực tế lịch sử cho thấy doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp tư nhân, không mấy khi tự đổi mới để vươn lên, mà thường cũng chỉ đổi mới khi có sức ép bên ngoài đặt họ trước sự lựa chọn - hoặc phải phá sản hoặc phải đổi mới. Một lộ trình hội nhập quốc tế tích cực, giảm hàng rào bảo hộ chính là sức ép cần thiết bên ngoài đó. Xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng là một tiền để mở rộng kinh tế đối ngoại Các cơ sở hạ tầng cần cho hoạt động kinh tế đối ngoại là các cảng biển, đặc biệt là cảng trung chuyển quốc tế, sân bay quốc tế, các đường cao tốc nối từ các trung tâm kinh tế đến sân bay và cảng biển, hệ thống liên lạc, viễn thông, cung cấp điện... Về cảng biển, theo các chuyên gia nước ngoài, hiệu suất cảng biển Việt Nam được xếp thứ bẩy trong số 9 nước Đông á mà họ đánh giá, Việt Nam xếp sau Xingapore, Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, chỉ xếp trên Trung Quốc và Inđônêxia. Phải nói thêm là phần lớn các hàng xuất khẩu của Trung Quốc đều qua cảng Hồng Kông, nên Việt Nam chỉ hơn Inđônêxia. Các hãng vận tải biển nước ngoài xếp cảng Việt Nam vào nhóm độc quyền kiểu “Cácten” vì tất cả cảng do Nhà nước sở hữu và vận hành. Nước ta chưa có cảng trung chuyển quốc tế, nên hàng xuất khẩu của ta phải trung chuyển qua các cảng Hồng Kông, Xingapore, làm tăng thêm chi phí khoảng 20 - 30%, phí cảng của ta do ban vật giá chính phủ định hiện là rất cao, trong khi công nghệ bốc dỡ kém, quản lý lạc hậu, thời gian giải phóng tàu lâu, càng làm tăng thêm chi phí cho người xuất khẩu. Về hàng không, ta có 2 sân bay quốc tế ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, nhưng đều kém các sân bay quốc tế trong khu vực. Theo quy định hiện nay các hãng hàng không nước ngoài không được phép có “quyền lực do thứ năm” trong việc mang hàng vào và ra khỏi Việt Nam từ các điểm trung chuyển như Băng Cốc, Hồng Kông, do vậy công suất đều thừa, không sử dụng hết. Giá vé máy bay của ta hiện còn cao so với khu vực cùng với tình trạng luôn phải chậm giờ bay, hoãn chuyến càng làm giảm sức hấp dẫn của hàng không Việt Nam Về đường cao tốc, nước ta mới có được vài trăm km đường cao tốc, một con số quá bé nhỏ so với các quốc gia trong khu vực. Số lượng đường cao tốc ít ỏi đã làm cho hàng hoá chậm đến cảng và sân bay quốc tế, hàng tăng thêm chi phí và thời gian. Về cung cấp điện, tiêu dùng điện theo đầu người ở nước ta hiện vào khoảng 232 kwh, dưới mức trung bình của các nước có thu nhập thấp 363 kwh, dưới xa mức trung bình của các nước khu vực Châu á - Thái Bình Dương - 787 kwh. Tình trạng gây cắt điện và tăng giảm điện áp đã gây thiệt hại đáng kể cho các nhà máy sản xuất hàng xuất khẩu. Giá điện của Việt Nam bán cho ngân sách Nhà nước, kể cả nguồn vốn ODA cũng không đủ đáp ứng các nhu cầu to lớn này. Do vậy cần phải có quy hoạch tổng thể về cơ sở hạ tầng xây dựng các nhà máy sản xuất công nghiệp sang xây dựng cơ sở hạ tầng. Mở rộng các hình thức huy động vốn da đạng, cần có chính sách để mọi thành phần kinh tế có thể tham gia kinh doanh cơ sở hạ tầng. Ngay những bước giầu như Mỹ, Nhật, Nhà nước cũng không đủ tiền xây dựng hạ tầng, mà phải huy động các thành phần kinh tế khác. Nước ta nghèo hơn nên càng phải sử dụng các thành phần Nhà nước. Kinh doanh cơ sở hạ tầng trong nhiều năm trước đây thường do các Công ty Nhà nước độc quyền đảm nhận, kể cả ở các nước Phương Tây. nhưng thực tế cho thấy tình trạng độc quyền của các Công ty Nhà nước đã dẫn tới những hậu quả tiêu cực - chi phí cao, phiền hà, lãng phí, tham nhũng... Do vậy trong những năm gần đây, xu hướng cho phép khu vực tư nhân tham gia kinh doanh hạ tầng cơ sở đã ngày càng phổ biến ở nhiều nước. Nước ta cũng đã cho phép một số công ty nước ngoài xây dựng các nàh máy điện dưới hình thức BOT, có thể cần phải mở rộng hơn hình thức này sang nhiều lĩnh vực khác. Khai thông các nguồn vốn cung ứng cho hoạt động kinh tế đối ngoại Các hoạt động kinh tế đối ngoại từ xuất nhập khẩu, du lịch đến đều tư nước ngoài đều cần đến những nguồn vốn to lớn. Không có đủ vốn, cũng có nghĩa là kinh tế đối ngoại không hoạt động được. Những nguồn vốn này hiện đang dư thừa cả trong ngoài nước. Hàng năm hàng tỷ USD tiền gửi tiết kiệm đã không sử dụng được ở trong nước phải gửi ra các ngân hàng ở nước ngoài, nếu tính cả số tiền gửi ra nước ngoài qua các kênh không chính thức thì số tiền đó còn lớn hơn. Nguồn vốn tích trữ trong dân dưới nhiều dạng của cải khác nhau còn khá lớn, nguồn vốn dưa thừa bên ngoài tính đến hàng ngàn tỷ USD. Vấn đề là chúng ta chưa có một cơ chế thích hợp để thu hút nguồn vốn này cho hoạt động kinh tế đối ngoại Cơ chế và bộ máy huy động và phân bổ các nguồn vốn của nước ta hiện quá lạc hậu và vẫn theo cơ chế mệnh lệnh và bao cấp. Các ngân hàng thương mại và phân bổ các nguồn vốn chính trong nước nhưng họ vấn phải hoạt động theo chỉ lệnh là chính, các ngân hàng cổ phần nhỏ bé, các ngân hàng nước ngoài hoạt động rất hạn chế. Thị trường vốn mới manh nha, nhỏ bé. Việc huy động và phân bổ vốn ở nước ta hiện chủ yếu vẫn do các ngân hàng thương mại quốc doanh đảm nhận với rất nhiều hạn chế. Các ngân hàng này yếu đến mức không cung ứng được đến yêu cầu về vốn cho các doanh nghiệp hoạt động phục vụ nhu cầu nội địa, nói gì đến các nhu cầu của kinh tế đối ngoại. Hơn nữa, hoạt động kinh tế đối ngoại đòi hỏi các ngân hàng cung ứng phải am hiểu thị trường thế giới, phảm dám chấp nhận rủi ro, phải có năng lực không những thẩm định của các dự án cho vay, mà còn đưa ra được các dự án kinh doanh đối ngoại có hiệu quả thích hợp với các nhà đầu tư. Các ngân hàng thương mại của ta, kể cả ngân hàng ngoại thương, nói chung đã không có được những khả năng đó. Hơn nữa những quy định về thế chấp hiện hành là một hạn chế lớn đối với việc cung ứng vốn hoạt động kinh tế đối ngoại. Những hạn chế trên đây cho thấy, nếu không sơm đổi mới, khai thông các luồn vốn cung uqứng cho hoạt động kinh tế đối ngoại, thì khó có thể đáp ứng được yêu cầu vốn để mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại. Nhưng những đổi mới này sẽ đi theo hướng nào? Trước hết cần mạnh dạn cho phép một số ngân hàng thương mại của ta liên doanh với ngân hàng nước ngoài và cho phép các ngân hàng nước ngoài mở rộng dịch vụ kinh doanh và nội tệ, cung ứng tín dụng cho hoạt động kinh tế đối ngoại cho các Công ty Việt Nam và Công ty nước ngoài. Đây là một giải pháp quan trọng, vì các ngân hàng nước ngoài hiểu biết thị trường thế giới hơn, có nhiều năng lực thẩm định và đề xuất các dự án kinh doanh có hiệu quả hơn... Các ngân hàng nước ngoài gia tăng hoạt động sẽ tạo ra một áp lực cạnh tranh lớn hơn, do vậy hoạt động ngân hàng nước ra sẽ có hiệu quả hơn. Thứ hai, thúc đẩy thị trường vốn hoạt động tốt hơn theo hướng một mặt mở rộng diện cổ phần hoá và cho phép các Công ty cổ phần được bán cổ phiếu; đồng thời cho phép các Công ty chưa cổ phần hoà nhưng kinh doanh tốt có thể bán trái phiếu, cổ phiếu; cho phép các Công ty hoạt động đối ngoại có thể huy động vốn theo các dự án trên thị trường chứng khoán... Mặt khác, cần cho phép các Công ty nước ngoài, người nước ngoài được mua bán các loại chứng khoán trên thị trường. Thị trường chứng khoán nước ta mới hoạt động trong một thời gian ngắn ngủi, cần có những tổng kết và đánh giá, mời các nhà tư vấn nước ngoài có kinh nghiệm tham kiến để có thể có nhữn giải pháp phù hợp nhằm hoàn thiện và phát triển thị trường. Thứ ba, nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng các loại hình kinh doanh vốn rủi ro ở các nước, để có thể xây dựng các quy chế, tạo ra các điều kiện cho phép các loại Công ty kinh doanh vốn rủi ro kể cả các Công ty nước ngoài có thể ra đời và hoạt động ở Việt Nam. Hoạt động kinh tế đối ngoại là một hoạt động dễ có những rủi ro, nhất là kinh doanh công nghệ cao. Do vậy các Công ty kinh doanh vốn rủi ro là rất cần thiết. Thứ tư, xây dựng khu kinh tế mở, nước ta đã có các khu chế xuất, các khu công nghiệp, đang xây dựng các khu công nghệ cao, nhưng chưa có khu kinh tế mở với các tiêu chí hiện đại ở một địa điểm có cảng nước sâu có danh tiếng trên thế giới được nhiều nhà đầu tư nước ngoài quan tâm: có một thể chế kinh tế, hành chính thông thoáng phù hợp với các thông lệ quốc tế... Khu kinh tế mở này sẽ có khả năng thu hút và sử dụng có hiệu quả cao nhất các dòng vốn bên ngoài và cả bên trong. Chỉ một đặc khu kinh tế Thẩm Quyến của Trung Quốc trong nhiều năm đã thu hút được một khối lượng vốn FDI gần như bằng cả tổng giá trị FDI của Việt Nam. Cần có một chương trình xây dựng một số khu kinh tế mở ở Việt Nam. Các ngành dịch vụ phải được phát triển và hội nhập quốc tế Các ngành du lịch, theo cách tính của WTO, hiện có khoảng 155 ngành, bao gồm các hàng hoá ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, viễn thông, hàng không, du lịch tư vấn... ở các nước phát triển, các ngành dịch vụ đã chiếm khoảng 60 - 70% GDP. Vai trò của nó cực kỳ quan trọng đối với toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là trong t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35490.doc
Tài liệu liên quan