Đề án Hội nhập kinh tế khu vực ASEAN với phát triển kinh tế nước ta

MỤC LỤC

Trang

Lời nói đầu 1

Chương I: Sự cần thiết phảI hội nhập kinh tế quốc tế, kinh tế khu vực của Việt Nam trong quá trình phát triển 2

I. Một số kháI niệm. 2

1. Khái niệm về nền kinh tế thế giới 2

2. Quan hệ kinh tế quốc tế: 2

3. Sự cần thiết phải hội nhập kinh tế khu vực ASEAN của Việt Nam. 3

 

Chương II: ASEAN và tiến trình hội nhập của Việt Nam 5

I. Quá trình hình thành và phát triển. 5

II. Cơ cấu tổ chức của ASEAN và nguyên tắc hoạt động 6

1. Từ khi thành lập đến hội nghị thượng đỉnh Ba-li năm 1976 6

2. Thời kỳ sau hội nghị thượng đỉnh Ba-li năm 1976 6

3. Thời kỳ sau Hội nghị thượng đỉnh Xinh-ga-po năm 1992 7

4. Nguyên tắc hoạt động 9

III. Cơ hội và thách thức khi Việt Nam ra nhập ASEAN. 10

1. Cơ hội khi Việt Nam ra nhập ASEAN. 10

2. Thách thức 12

VI. Tiến trình hội nhập của Việt Nam 14

1. Thời kỳ 1967 – 1978. 14

Chương III. Phương hướng phát triển kinh tế giai đoạn 2004 - 2006 17

I. Phương hướng phát triển kinh tế giai đoạn 2004 – 2006. 17

II. Những giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế Việt Nam vào ASEAN. 18

1. Giải pháp tăng cường nội lực nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế Việt Nam vào ASEAN. 18

2. Giải pháp tăng cường hợp tác kinh tế sử dụng các nhân tố ngoại lực, phát huy nội lực để phát triển kinh tế và hội nhập giữa các quốc gia ASEAN. 22

Danh sách những tài liệu tham khảo 26

 

doc33 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1605 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Hội nhập kinh tế khu vực ASEAN với phát triển kinh tế nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hội để Việt Nam xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội trong thời gian tới. Thứ nhất: Hội nhập ASEAN, Việt Nam có điều kiện tăng cường hợp tác kinh tế khu vực, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, mở rộng thị trường, hội nhập với thế giới. ASEAN là một thị trường lơn, với dân số hơn 500 triệu người, nhịp độ tăng trưởng hàng năm khá nhanh, khả năng GDP trên 35 tỷ USD, dự trữ ngoại tệ và xuất khẩu tư bản lớn. Là thành viên chính thức, đầy đủ của ASEAN, Việt Nam có đủ điều kiện để tăng cường quan hệ, hợp tác kinh tế thương mại với các nước trong hiệp hội. thông qua hoạt động hợp tác kinh tế, bước đầu 2 bên đã đạt đựơc những hiệu quả nhất định. Quan hệ kinh tê thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên ASEAN gia tăng bình quân 26,8% năm và đã tạo ra những thị trường buôn bán sản phẩm mới. Chính sách đầu tư nước ngoài của Việt Nam thu hút các nhà đầu tư ASEAN đã có những điều kiện thuận lợi để đầu tư vào Việt Nam. Việt Nam đã thông qua các dự án liên doanh với các nước ASEAN để tăng thêm các dự án đầu tư, mở rộng sản xuất, giải quyết việc làm trong một số ngành kinh tế như: công nghiệp chế biến, lâm hải sản, du lịch, dịch vụ .... Việt Nam cũng đã và đang tham gia theo lịch trình của AFTA. Đã cung cấp một danh sách những măt hàng giảm thuế và đã hoàn tất việc đưa và biểu thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung. Việc tham gia AFTA của Việt Nam, tuy trước mắt có khó khăn, nhưng về lâu dài sẽ có lợi trong thúc đẩy việc hội nhập của nền kinh tế nước ta vào nền kinh tế khu vực. Nước ta sẽ có điều kiện mở rộng buôn bán với thị trường các nước tư bản phát triển. Từ đó Việt Nam sẽ nhanh chóng hoà hợp vào môi trường kinh doanh khu vực và quốc tế, ASEAN sẽ là cầu nối để Việt Nam tiếp cận các tổ chức kinh tế và các bạn hàng trong và ngoài khu vực, tham gia vào APEC, và chuẩn bị diều kiện để tham gia WTO ... Thư hai: thông qua việc hội nhập khu vực và thế giới, nước ta có điều kiện tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài, phát huy nguồn lực trong nước một cách mạnh mẽ hơn. Hợp tác Việt Nam-ASEAN thông qua các chương trình, hiệp định, dự án trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học, công nghệ và môi trường, văn hoá ... từ đó mà tăng cường đầu tư, nâng cao khả năng sản xuất, chế biến, tạo ra những sản phẩm có chất lượng, có khả năng cạnh tranh trong khu vực. Việt Nam và cả các nước ASEAN đều là những thị trường lớn của nhau, còn đầy tiềm năng và đang phát triển. Tuy có một số mặt hàng trùng nhau, song cả hai đều có điều kiện bổ xung cho nhau, hỗ trợ lẫn nhau trong một số mặt hàng nhất định như: Dầu lửa, sản xuất và xuất khẩu gạo, cao su .....Từ đó mà hàng loạt các chương trình hợp tác đã được hình thành, như phát triển thêm các khu vực kinh doanh hỗn hợp, thực hiện triển khai “chính sách nông nghiệp chung ASEAN” trên các lĩnh vực khoa học-kỹ thuật, trao đổi thông tin .... hợp tác và sử dụng nguồn nước sông mê - công. ASEAN là một tổ chức có quan hệ rộng rãi và chặt chẽ với các cường quốc và tổ chức kinh tế thế giới như: Mỹ, Nhật Bản, úc, Canada, EU ... nên khi gia nhập ASEAN, quan hệ Việt Nam với các nước trên sẽ tăng nên, từ đó chúng ta có thể mở rộng trao đổi hàng hoá, thu hút vốn đầu tư. Như vậy Việt Nam tham gia ASEAN sẽ có thêm một kênh mới để quan hệ với những nước và tổ chức kinh tế trên thế giới. Những năm qua, Việt Nam đã đặt quan hệ ngoại giao vơi gần 200 nước, quan hệ thương mại với hơn 100 nước và lãnh thổ, ngày càng thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước. Kết quả là ta đã tăng được nguồn vốn đầu tư để xây dựng kết cấu hạ tầng, đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển sản xuất. Việc trao đổi hàng hoá giữa trong và ngoài nước, cạnh tranh sẽ là động lực thúc đẩy việc sản xuất kinh doanh ngày càng có hiệu quả hơn, nội lực của Việt Nam được tăng cường thêm một bước. Thứ ba: Hội nhập khu vực, Việt Nam có điều kiện phát huy lợi thế so sánh, đồng thời khắc phục những hạn chế, tăng cường cạnh tranh và hợp tác của Việt Nam với các nước và các khu vực trên thế giới. Giữa Việt Nam và các nước trong khối có những nét tương đồng về tài nguyên thiên nhiên, nông sản nhiệt đới, lao động .. khi hội nhập, ta có thể liên kết với các nước để cùng tạo ra những lợi thế chung cao hơn trong trao đổi với các khu vực khác, phát huy lợi thế so sánh trên thị trường thê giới. ASEAN là một Hiệp hội bao gồm 10 nước, hết sức đa dạng về tài nguyên thiên nhiên, tiềm năng kinh tê, thị trường.... Điều đó sẽ tạo điều kiện mới cho sự hợp tác, Việt Nam và thái Lan sẽ cùng hợp tác với nhau để xuất khẩu gạo phù hợp với đặc điểm của từng loại của từng nước. Malaysia sẽ cùng Việt Nam hợp tác xuất khẩu cao su. Khi AFTA được thực hiện đầy đủ sẽ cho phép các nước phát huy được sức mạnh của khu vực để cạnh tranh hợp tác với các thị trường tự do khác. Thứ tư: Khi hội nhập ASEAN, Việt Nam sẽ học tập được những kinh nghiệm phong phú của các nước đi trước, tạo điều kiện để phát triển. Đó là các kinh nghiệm quản lý trong một số lĩnh vực vốn là thế mạnh của một số nước, như trong lĩnh vực quan hệ mậu dịch Singapore và Malaysia; các kinh nghiệm của Thailan và Philippens về nông nghiệp và chế biến nông sản, kinh nghiêm của Singapo về tổ chức thị trường vốn, kinh nghiệm chế biến và xuất khẩu khoáng sản của Malaysia, Indonesia ... Các kinh nghiêm trong quan hệ tổ chức tài chính, tín dụng, thương mại quốc tế và các kinh nghiêm quản lý kinh vế vĩ mô, vi mô khác. Thứ năm: Việt Nam hội nhập ASEAN còn có cơ hội về mặt chính trị – xã hội. Đó là việc tăng cường sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau giữa các thành viên, củng cố hoà bình, ổn định và hạn chế, những nhân tố dẫn tới sự bất hoà, mất ổn định trong khu vực. Đông Nam á là nơi có nền văn hoá với nhiều nét tương đồng, gần gũi với Việt Nam. Vì vậy ra nhập ASEAN, ta có điều kiện tiếp thững tinh hoa văn hoá của từng nước, làm giàu thêm văn hoá của dân tộc. Việt Nam hội nhập ASEAN, nhưng không để đánh mất mình, hội nhập để phát triển một nước Việt Nam đạm đà bản sắc dân tộc. 2. Thách thức Thứ nhất: Khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế giữa Việt Nam và ASEAN còn rất lớn, quan hệ trong một số lĩnh vực còn bất cập. Các nước ASEAN, đến nay hoàn thành giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, nền kinh tế thị trường đã hình thành và phát triển từ nhiều thập kỷ qua, có môi trường thương mại và đầu tư quốc tế thuận lợi, là những nước đang chuyển hướng chiến lược từ việc xuất khẩu hàng hoá dựa trên nguyên liệu có sẵn và nhân công rẻ sang sản xuất và xuất khẩu hàng hoá có hàm lượng kỹ thuật và chất lượng cao. Singapore là nước đi trước, gần đây các nước Malaysia, Thái Lan rồi đến Inđonêsia, Philippens cũng đã đầu tư vào những ngành có kỹ thuật cao để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Kinh tế của các nước ASEAN đã đạt tới tốc độ tăng trưởng cao, mức bình quân thu nhập đầu người cao. Trước khủng hoảng, nước có thu nhập bình quân thấp là Inđônêsia cũng gấp 4 lần, còn nước cao nhất là Singapre gấp 50 lần bình quân thu nhập của Việt Nam. Cho đến nay, nền kinh tế Việt Nam vẫn ở trình độ thấp hơn các nước ASEAN, kết cấu hạ tầng, trình độ quản lý, tiếp thị còn yếu và thiếu, tỷ lệ tích luỹ của Viêt Nam trong GDP còn ở mức thấp. Tình hình thương mại quốc tế và khu vực có nhiều diễn biến và phức tạp, tăng trưởng kinh tế của các nươc tư bản phát triển trậm lại, chính sách bảo hộ mậu dịch của các thị trường lớn như : Mỹ, Nhật, EU .... ngày càng chặt chẽ đã ảnh hưởng xấu đến việc tiêu thụ các sản phẩm truyền thống và hàng công nghiệp chế biến của ASEAN. Trong khi đó Việt Nam cũng cần bán những sản phẩm loại này. Mặt khác trong quá trình chuyển đổi cơ cấu, các nước ASEAN đang tìm cách chuyển nhượng kỹ thuật, công nghệ xế chiều sang các nước trậm phát triển hơn. Trong lĩnh vực quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN trong những năm gần đây đã khởi sắc, tốc độ và khối lượng đầu tư buôn bán hai bên đều tăng, song cũng có một số vấn đề cũng cần phải tính đến. Đó là quan hệ thương mại vẫn ở tình trạng cơ cấu giản đơn, xuất khẩu chủ yếu vẫn là nông sản sơ chế và nguyên liệu. Cán cân thương mại của Việt Nam với các nươc ASEAN còn mất cân đối lớn, Việt Nam vẫn là nước nhập siêu, trao đổi mậu dịch của Việt Nam chỉ chiếm khoảng 1% giá trị ngoại thương của các nước ASEAN. Phần lớn các dự án đầu tư của ASEAN vào Việt Nam tập trung ở một số lĩnh vực như : Công nghiệp chế biến, nông, lâm, hải sản, dịch vụ và du lịch, với số vốn đầu tư nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng của các nứơc này. Điều này phản ảnh sức thu hút đầu tư của nước ta đối với các nhà đầu tư ASEAN chưa thật hấp dẫn, cần phải nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân và giải pháp thiết thực để tạo điều kiện cho việc đầu tư nước ngoài nói chung và của ASEAN nói riêng. Khó khăn rõ nhất của Việt Nam khi gia nhập ASEAN là phải tham gia vào AFTA, phải chấp nhận luật chơi, tuân thủ các quy định của hiệp ước thuế quan ưu đãi hiệu quả chung. Việc tham gia AFTA, Viêt Nam vừa có cơ hội, vừa có thách thức. Cơ hội vì Việt Nam nhanh chóng hoà nhập vào mạng lưới mậu dịch rộng lớn của ASEAN. Thách thức vì nền kinh tế sẽ bị đặt vào thế cạnh tranh không cân sức với các đối thủ mạnh hơn và có kinh nghiêm hơn. Trong điều kiện chênh lệch về trình độ, kỹ thuật, hàng hoá của Việt Nam tuy có cùng chất lưộng, mẫu mã, kiểu dáng, nhưng giá thành sản phẩm của Việt Nam cao hơn, do chi phí cao, điều kiện không có lợi trong môi trường cạnh tranh, ngược lại hàng của ASEAN sẽ chiếm lĩnh thị trường Việt nam do giá rẻ hơn, chính sách suất khẩu nhạy bén hơn. Khủng hoảng tiền tệ trong một số nước Đông Nam á vừa qua càng làm tăng thêm quan hệ bất lợi này về phía Việt Nam, nhất là đồng nội tệ của họ bị mất giá. Từ đó cho ta thấy, quan hệ Việt Nam ASEAN trong điều kiện như vậy sẽ tự nẩy sinh sự phân công lao động bất bình đẳng. Kinh tế thị trường và cơ chế thị trường ở hầu hết các nước ASEAN đã được hình thành và phát triển từ nhiều thập kỷ qua, và đã có môi trường pháp lý tương đối hoàn chỉnh, với một thị trường đồng bộ, có quan hệ kinh tế – tài chính khá gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong khi Việt Nam mới quá độ sang kinh tế thị trường, cơ chế thị trường mới hình thành, còn sơ khai, hệ thống chính sách kinh tế chưa hoàn chỉnh, quản lý kinh tế ở cả tầm vĩ mô và vi mô hiệu quả chưa cao, sẽ có nhiều vấn đề bất cập trong quá trình hội nhập. Thứ hai: khi hội nhập, Việt Nam phải tham gia góp vốn và thành lập các tiểu ban thích ứng với các hoạt động của ASEAN, như việc đóng góp vốn quy định để tham gia hiệp hội, góp vốn theo tỷ lệ xác định tư cách đầy đủ của thành viên Ngân hàng phát triển Châu á, tham gia các tổ chức, các sinh hoạt chính trị, các chương trình, hiệp định trên tất cả các ngành, lĩnh vực thuộc ASEAN. Như vậy là diện hợp tác rất rộn, đòi hỏi phải có sự tham gia của nhiều bộ, nhiều ngành. Trong khi số cán bộ giỏi nghiệp vụ, thạo tiếng anh chưa nhiều. Việc tham gia của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn, hạn chế, thậm chí có thể bị thua thiệt. Thứ ba: trong quá trình hội nhập tất sẽ có một số kẻ thù đối địch với đảng và nhân dân ta “ thừa gió bẻ măng” thực hiện âm mưu diễn biến hoà bình, tuyên truyền những tư tưởng phi vô sản, truyền những nọc độc văn hoá, những yếu tố ngược với truyền thống văn hóa dân tộc. Đây là những cản trở không nhỏ đối với việc giữ vững lãnh đạo của Đảng cộng sản và định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ gìn bản sắc, truyền thống văn hoá dân tộc, để không bị “hoà tan”, đánh mất mình. Đó cũng là một thách thức, khó khăn mà ta không thể xem nhẹ. Hội nhập ASEAN, Việt Nam có cơ hội để vượt lên, nhưng trong quá trình này cũng không ít những thách thức, khó khăn. Cơ hội lớn là còn phát huy tác dụng lâu dài. Thách thức tuy không nhỏ, song không cơ bản, nó sẽ càng ngày càng giảm đi theo thời gian cùng với đà phát triển kinh tế đất nước và trình độ quản lý. Tất cả còn ở phía trước, cho nên cần phải thực hiện nghiêm chỉnh quan điểm chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước về chính sách hoạt động đối ngoại. Mỗi cấp, mỗi ngành khi quan hệ với các tổ chức cũng như khi tham gia các lĩnh vực hoạt động của ASEAN, cần phải có phương hướng, kế hoạch, giải pháp cụ thể đối với từng chương trình, dự án. Đồng thời đòi hỏi phải có sự phối hợp nhịp nhàng đồng bộ giữa các cấp, các ngành để việc triển khai thực hiện các chương trình, dự án với ASEAN có hiệu quả, tránh những sơ hở, thiếu sót đáng tiếc xảy ra. Có như vậy, việc hội nhập ASEAN của Việt Nam mới nhanh chóng, hiệu quả. VI. Tiến trình hội nhập của Việt Nam Từ khi ASEAN thành lập cho đến nay, quan hệ của Việt Nam với ASEAN co nhiều biến đổi lơn. 1. Thời kỳ 1967 – 1978. Giai đoạn 1967-1972. Trong giai đoạn đầu mới thành lập, hoạt động phối hợp chung giữa các nước trong tổ chức ASEAN hầu như chưa có gì nổi bật. Lúc này thế giới đang diễn ra cuộc chiến tranh lạnh và tình trạng đối đầu giữa hai hệ thống xã hội. Các nước ASEAN cũng bị tình hình trên đây tác động mạnh vào một số nước, ở những mức độ khác nhau có những dính líu vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Những biên đổi của tình hình thế giới và khu vực cuối những năm sáu mươi, đầu những năm bảy mươi đã buôc các nước ASEAN phải điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình. Quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN trong giai đoạn này chưa có những tiến triển đáng kể. Giai đoạn 1973-1978 Đầu năm 1973, tình hình khu vực có nhiều chuyển biến lớn, dẫn đến sự đảo lộn mạnh mẽ trong cán cân lực lượng ở đây. Sau khi hiệp định Pari về chấm rứt chiến tranh ơ Việt Nam được chấm rứt, đã làm cho các nước ASEAN phải điều chỉnh mạnh mẽ chính sách đối ngoại của mình. Các nước ASEAN đã đẩy mạnh quan hệ với các nước XHCN, nhất là trung quốc và Liên Xô, đã có nhiều cử chỉ thân thiện hơn tạo cơ sở cho việc đặt quan hệ với Việt Nam. Đối với nước ta cũng đã bắt đầu tích cực triển khai chính sách khu vực, nh quan hệ song phương với các nước thuộc tổ chức ASEAN, được thể hiện ro trong chính sách 4 điểm tháng 7 năm 1976, trong đó nêu lên những nguyên tắc cơ bản cho việc phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước Đông Nam á như: tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, cùng tồn tại trong hoà bình, không để lãnh thổ của mình cho nước ngoài sử dụng, giải quyết đẩy mạ tranh chấp thông qua thương lượng, phát triển hợp tác khu vực. Như vậy, đến tháng 8 – n976 Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ với cá nước ASEAN b. Thời kỳ 1979 - 1991 Quan hệ Việt Nam và ASEAN trong giai đoạn đầu của thơi kỳ nay có nhiều thăng trầm, biến đổi do xuất hiện vấn đề Cămpuchia, quan hệ song phương của Việt Nam với ASEAN giảm xuông mức thấp. Sau khi Hiệp định Pari về Cămpuchia được ký kết, quan hệ Việt Nam và ASEAN có những chuyển biến tích cực, mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ của hợp tác hai bên. c. Thời kỳ 1992 đến nay. Cùng với việc kết thúc chiến tranh lạnh, giảm căng thẳng, hoà dịu giữa các siêu cường trên thế giới và ở Đông Nam á, đã đặt ra cho cả Việt Nam và ASEAN nhiều cơ hội, thách thức mới. ở giai đoạn mới này, chạy đua kinh tế đã thay thế chạy đua vũ trang và tập trung vào phát triển kinh tế đã trở thành xu thế lơn, lôi cuốn tất cả các nước phát triển và đang phát triển. Trong khi đó xu thế khu vực hoá đang ngày càng phát triển mạnh mẽ trên thế giới mà biểu hiện rõ nhất là: Việc ra đời một thị trường thống nhất châu Âu gồm các nước cộng đồng châu Âu và các nước hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu: khai niệm khu vực đồng Yên ở châu á -Thái Bình Dương của Nhật; sự hình thành khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ(NAFTA). Trước tình hình đó, vấn đề đặt ra đối với các nước ASEAN là làm sao bảo đảm được môi trường quốc tế thuận lợi và giữ được các khu vực thị trường truyền thống, duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của mình. Giải pháp của ASEAN cho vấn đề trên gồm 2 mặt: một mặt mở rộng quan hệ, tích cực đấu tranh với các nước để chống xu thế bảo hộ mậu dịch. Mặt khác tăng cường xây dựng sức mạnh của bản thân khu vực, thông qua đẩy mạnh hợp tác trong khu vực, để vừa tạo thế với bên ngoài, vừa duy trì được tốc độ phát triển kinh tế của mình. Trong khung cảnh đó, phát triển quan hệ hợp tác nhiều mặt với Việt Nam , cũng như với các nước Đông Dương khác sẽ trở thành một chính sách quan trọng của ASEAN. Đối với Việt Nam, do anh hưởng của cuộc chiến tranh cũ để lại nên lợi ích lớn nhất lúc này cũng là duy trì hoà bình, ổn định khu vực, tạo dựng một môi trường quốc tế và khu vực thuận lợi cho công cuộc đổi mới. Tập trung sức lực vào phát triển kinh tế vốn bị chiến tranh và tàn dư của nó tàn phá, cải thiện đời sống nhân dân, đưa đất nước đi lên kịp theo với nhịp độ phát triển chung của các nước trong khu vực và trên thế giới. Về kinh tế, thách thức lớn nhất đối với Việt Nam để hội nhập được vào xu thế chung của thế giới là ưu tiên cho phát triển kinh tế. Là một nước nằm ở khu vực có tốc độ phát triển kinh tế cao vào loại nhất thế giới, Việt Nam cần phải có nhiều cố gắng để tránh khỏi sự tụt hậu về kinh tế. với mục tiêu đó, Việt Nam đã tăng cường và phát triển các mối quan hệ hợp tác với bên ngoài, trước hêt là với các nước trong khu vực Đông Nam á. Đẩy mạnh quan hệ với ASEAN là mục tiêu quan trọng đối với Việt Nam vì ASEAN là một tập hợp của những nước nhỏ và vừa, có xuất phát điểm gần giống Việt Nam , đã vươn lên thành những nước có nền kinh tế phát triển nhất khu vực hiện nay. Hợp tác chắt chẽ với ASEAN sẽ giúp Viêt Nam nhanh chóng đuổi kịp và hoà nhập với sự phát triển kinh tế của các nước trong khu vực. Bên cạnh đó, ASEAN có vai trò và tiếng nói ngày càng tăng trên thế giới, là tổ chức khu vực duy nhất trên thế giới đã có mối quan hệ chặt chẽ và cơ chế đối thoại thường xuyên với nhiều nước công nghiệp phát triển. Việc hợp tác Việt Nam – ASEAN sẽ giúp làm tăng vị trí cũng như vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam đi vào hợp tác với các nước công nghiệp phát triển và các trung tâm chính trị kinh tế lớn, tạo thuận lợi cho Việt Nam tham gia các cơ chế hợp tác lớn hơn ở khu vực châu á - Thái Bình Dương. Trong các cuộc tiếp xúc cấp cao Việt Nam – ASEAN từ cuối năm 1990 trở đi, Vấn đề Việt Nam tham gia hiệp ước Ba – li đều đựơc đề cập. ngày 11-7-1992, tại hội nghị lần thứ 25 Bộ trưởng ngoại giao các nước ASEAN, Việt Nam và Lao đã chính thức tham gia Hiệp ước Ba-li và trở thành quan sát viên của tổ chức ASEAN. Tự tháng 2-1993, Việt Nam đã tuyên bố “sẵn sàng tham gia vào ASEAN vào thời điểm thích hợp. Điều này đã được các nước ASEAN, dư luận khu vực và quốc tế đánh giá cao. Đáp lại, các nước ASEAN tuyên bố “ muốn thây Việt Nam ra nhập ASEAN”. với những phát triển ngày càng tích cực và thuận lợi trong quan hệ Việt Nam và ASEAN, cả về song phương lẫn đa phương, tháng 4-1994 trong chuyến thăm chính thức Inđonêsia, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã tuyên bố: “cùng với sự hỗ trợ tích cực của ASEAN, Việt Nam đang xúc tiến các công việc chuẩn bị thiết thực để sớm trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN”. Tuyên bố này thể hiện thái độ tích cực và chân thành của Việt Nam trong việc ra nhập ASEAN. Cũng trong thời gian này, các nhà lãnh đạo cao nhất của ASEAN đã lần lượt tuyên bố hoàn toàn ủng hộ Việt Nam gia nhập ASEAN. thủ tướng Malaysia và thủ tướng Xinhgapo còn nhấn mạnh rằng sự khác biệt về chế độ chính trị-xã hội không phải là trở ngại cho vấn đề này. Như vậy, sau một quá trình từng bước tăng cường quan hệ song phương với từng nước cũng như với cả tổ chức ASEAN, đến tháng 7-1994 Việt Nam ra nhập ASEAN đã đạt được sự nhất trí từ cả hai phía. Ngày 28-7-1995, tại thủ đo Banđa Xêri Beganoan (Brunây), nơi diễn ra hội nghị bộ trưởng ngoại giao các nước ASEAN lần thứ 28 và ARF lần thứ 2, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN. Việt Nam cũng tuyên bố ra nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) , bắt đầu thực hiện chương trình giảm thuế quan chung theo AFTA từ ngày 1-1-1996 và sẽ hoàn thành vào năm 2006 chậm hơn 3 năm so với các nước ASEAN khác do các nước ASEAN đã bắt đầu thực hiện AFTA trước khi Việt Nam tham gia 3 năm. Sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN, sự hoà nhập của Việt Nam vào các hoạt động hợp tác trong khuôn khổ ASEAN càng được thúc đẩy nhanh chóng. Phòng thương mại Việt Nam cũng đã ra nhập phòng thương mại và công nghiệp ASEAN, góp phầ tăng cường hơn nữa hợp tác kinh tế trong ASEAN. Việt Nam đã thành lập uỷ ban quốc gia ASEAN Việt Nam để chỉ đạo và điều phối các hoạt động của các cơ quan trong nước nhằm góp phần thúc đẩy quan hệ với các nước ASEAN. Sau đó, thủ tướng chính phủ cũng gia chỉ thị thành lập các bộ phận chuyên trách về hợp tác với các nước ASEAN tại các bộ và các cơ quan ngang bộ. Viêt Nam cũng đã đệ trình lên hội đồng Chương III. Phương hướng phát triển kinh tế giai đoạn 2004 - 2006 I. Phương hướng phát triển kinh tế giai đoạn 2004 – 2006. Tình hình đất nước và bối cảnh kinh tế quốc tế và khu vực đòi hỏi toàn đảng, toàn dân ta phải phát huy cao độ tinh thần cách mạng tiến công, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, đưa đất nước tiến nhanh và vững chắc theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Không làm được như vậy, sẽ tụt hậu xa hơn về trình độ phát triển kinh tế so vưói các nước xung quanh, ảnh hưởng trực tiếp tới niềm tin của nhân dân, sự ổn định chính trị, xã hội và an ninh quốc gia. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã nêu lên mục tiêu tổng quát của chiến lược 10 năm 2001 – 2010 là: Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của đất nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. Từ những chiến lược phát triển kinh tế 10 năm 2001- 2010, chúng ta phải có phương hướng phát triển kinh tế cụ thể trong từng năm. Đến nay đã thực hiện được 3 năm trong chiến lược này và đã đạt được những thành công nhất định. Để những năm tiếp theo có thể phát triển kinh tế một cách bền vững và hiệu quả trong quá trình hội nhập trong những năm tiếp theo, chúng ta phải: - Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với việc thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Phát huy mọi nguồn lực để phát triển nhanh và có hiệu quả những sản phẩm, ngành, lĩnh vực mà nước ta có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Tăng nhanh năng xuất lao động xã hội và nâng cao chất lượng tăng trưởng. Triệt để tiết kiệm, chống lãng phí, tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển. - Coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng đồng bộ nền tảng cho một nước công nghiệp là yêu cầu cấp thiết. Bằng sức mạnh tổng hợp của đất nước, kết hợp các nguồn lực trong nước và ngoài nước, tiếp tục tập trung sức lực phát triển kinh tế để xây dựng đồng bộ nền tảng cho một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Xây dựng tiềm lực kinh tế và cơ sở vật chất – kỹ thuật đáp ứng yêu cầu của việc hội nhập, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Phát triển mạnh nguồn lực con người Việt Nam. Hình thành về cơ bản và vận hành thông suốt, có hiệu quả thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. - Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế khu vực, kinh tế quốc tế. Độc lập tự chủ về kinh tế tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế khu vực cũng như nền kinh tế quốc tế có hiệu quả . Hội nhập kinh tế có hiệu quả tạo điều kiện cần thiết để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Chúng ta phải chủ động hội nhập kinh tế khu vực, tranh thủ mọi thời cơ để phát triển trên nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ quyền quốc gia và bản sắc dân tộc; bình đẳng cùng có lợi, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại; đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch. Trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế ASEAN, chú trọng phát huy lợi thế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, không ngừng tăng năng lực cạnh tranh và giảm dần hàng rào bảo hộ. Nâng cao hiệu quả hợp tác với bên ngoài; tăng cường vai trò và ảnh hưởng của nước ta đối với kinh tế các nước ASEAN. - Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế – xã hội với quốc phòng - an ninh. Hoàn chỉnh chiến lược quốc phòng và chiến lược an ninh quốc gia phù hợp với tình hình mới, phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế xã hội, mở rộng kinh tế đối ngoại. Phát triển công nghiệp kinh tế quốc phòng và kết hợp sử dụng năng lực đó để tham gia phát triển kinh tế – xã hội. Coi trọng sản xuất một số mặt hàng vừa phục vụ kinh tế, vừa phục vụ quốc phòng – an ninh. II. Những giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế Việt Nam vào ASEAN. 1. Giải pháp tăng cường nội lực nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế Việt Nam vào ASEAN. a. Về đầu tư thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế Đầu tư phát triển vừa là nhiệm vụ chiến lược, vừa là một giải pháp kinh tế chủ yếu để thực hiện các mục tiêu phát triển theo hướng tăng trưởng cao, ổn định và bền vững để củng cố nội lực kinh tế, hoà nhập tích cực và có hiệu quả vào nền kinh tế khu vự

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35525.doc
Tài liệu liên quan