Đề án Kinh tế Nhà nước và vai trò của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 1

I. KINH TẾ NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ CHỦ ĐẠO CỦA NÓ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG THEO ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA. 2

1. Kinh tế Nhà nước 2

1.1. Tính tất yếu củ việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. 2

1.2. Quan niệm về kinh tế Nhà nước 3

2. Vai trò kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. 4

2.1. Tính tất yếu của việc phát triển nền kinh tế thị trường 4

2.2. Ưu điểm, khuyết tật của nền kinh tế thị trường và vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường tho định hướng XHCN. 4

2.3. Kinh tế Nhà nước – Vai trò chủ đoạ trong nền kinh tế nhiều thành phần. 8

2.4. Kinh tế Nhà nước dữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế là do: 9

II. THỰC TRẠNG CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC TA HIENẸH NAY. 10

1. Thực trạng của thành phần kinh tế Nhà nước ta trong giai đoạn cơ chế thị trường theo định hướng XHCN. 10

1.1. Cổ phần hoá và giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian không đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra 10

1.2. Kết qủa của việc sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp Nhà nước. 12

1.3. Những mặt hạn chế còn tồn tại : 13

2. Nguyên nhân của thực trạng trên. 14

III. GIẢI PHÁP. 15

1. Một số phương pháp tháo gỡ khó khăn của doanh nghiệp nhà nước hiện nay. 15

2. Những giải pháp để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước. 21

a. Những biểu hiện về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước 21

b. Một số giải pháp chính để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước 23

KẾT LUẬN 28

 

doc31 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1340 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Kinh tế Nhà nước và vai trò của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tương đối độc lập lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tương ứng. Khả năng tái sản xuất là điều kiện tồn tại và vận động của mỗi thành phần kinh tế. Chính xu hướng mở rộng hay thu hẹp có khả năng sản xuất chỉ rõ vai trò và triển vọng của mỗi thành viên kinh tế trong nền sản xuất xã hội. Tuy nhiên các thành phần kinh tế không tồn tại một cách biệt lập, mà có mỗi liên hệ và tác động qua lại, đan xen. Để đảm bảo nèn kinh tế phát triển tho định hướng XHCN, trong quá trình vận dộng vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác, thành phần kinh tế Nhà nước phải tự vươn lên, làm sao để cùng với kinh tế hợp tác dần dần, trở thành nền tảng cho chế độ xã hội mới XHCN. Kinh tế Nhà nước dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, là chế độ sở hữu phù hợp với xu hướng xã hội hoá của lực lượng sản xuất. Kinh tế Nhà nước nắm giữ những vị trí then chốt, yết hầu, xương sống của nền kinh tế, do đó nó có khả năng , có điều kiện chi phối hoạt động của các thành phần kinh tế khác đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo hướng ổn định . Kinh tế Nhà nước là lực lượng đảm bảo cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế, là lực lượng có khả năng can thiệp, điều tiết, hướng dẫn giúp đỡ và liên kết, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, nó có thể tác động tới các thành phần kinh tế khác, không chỉ bằng các công cụ và đòn bẩy kinh tế, mà còn bằng con đường gián tiếp, thông qua những thiết kế và hoạt động của kiến trúc thượng tầng XHCN. Kinh tế Nhà nước dẫn đầu trong việc ứng dụng khoa học kỹ thuận hiện đại, tiên tiến do đó nó có nhịp độ phát triển nhanh, đóng góp phần lớn cho ngân sách Nhà nước và sự tích tụ để có thể ngừng tái sản xuất mở rộng. Kinh tế Nhà nước còn đóng vai trò là lực lượng nòng cốt hình thành các trung tâm kinh tế, đô thị mới là lực lượng có khả năng đầu tư vào những lĩnh vực có vị trí quan trọng sống còn, nhưng ít ai dám đầu tư vì đòi hỏi vốn quá lớn mà thời gian thu hồi vốn lại quá chậm. 2.4. Kinh tế Nhà nước dữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế là do: Nhiều thành phần kinh tế là đặc trưng phổ biến của mọi nền kinh tế thị trường khác nhau là ở chỗ trong kinh tế thị trường TBCN, kinh tế tư nhân nói đúng hơn là kinh tế tư bản tư nhân giữ vai trò thống trị, còn trong kinh tế thị trường theo định hướng XHCN như ở nước ta thì kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo và kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể được xây dựng và phát triển để ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Do có sự nhầm lẫn giữa Nhà nước và kinh tế Nhà nước nên có ý kiến cho rằng chỉ có Nhà nước mới làm chức năng chỉ đạo hay chủ đạo, chứ kinh tế Nhà nước không giữ vai trò chủ đoạ được. Cũng do có sự đồng nhất giữa kinh tế Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước nên ý kiến khác lại cho rằng doanh nghiệp Nhà nước không thể giữ vai trò chủ đạo được bổ nó có hàng loạt những khuyết điểm và nhược điểm trong hoạt động. Thật ra doanh nghiệp Nhà nước là bộ phận trụ cột nhất của kinh tế Nhà nước chứ không phải là toàn bộ kinh tế Nhà nước. Nói đến kinh tế Nhà nước là phải nói đến tất cả các sở hữu trong tay Nhà nước kể cả tài nguyên, đất đai, ngân sách Nhà nước, dự trữ quốc gia… kinh tế Nhà nước không làm chức năng quản lý của Nhà nước, nhưng chính nó là công cụ quan trtọng là sức mạnh kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh té, doanh nghiệp Nhà nước giữ vai trò chủ chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa kỹ thuật và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp lệnh. II. Thực trạng của thành phần kinh tế nhà nước ta hienẹh nay. 1. Thực trạng của thành phần kinh tế Nhà nước ta trong giai đoạn cơ chế thị trường theo định hướng XHCN. 1.1. Cổ phần hoá và giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian không đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra Sau chiến tranh thế giới thứ II, khu vực doanh nghiệp Nhà nước ở hầu hết các nước trên thế giới phát triển rất nhanh chóng và chiếm tỷ lệ áp đảo trong nền kinh tế quốc gia. Nhưng đến những năm của thập kỷ 70 và đầu thập kỷ 80, khu vực doanh nghiệp Nhà nước ở hầu hết các quốc gia đã bộ lộ những yếu kém, hạn chế nhất là về hiệu quả kinh tế. Khu vực doanh nghiệp Nhà nước nắm đại bộ phận tài nguyên thiên nhiên, lao động, vốn và công nghệ của toàn xã hội, song sức sinh lợi của đòng vốn bỏ ra thấp hơn so với khu vực khác. Đối với nước ta trong quá trình thực hiện đổi mới do Đảng đề xướng và lãnh đạo, đa dạng hoá sở hữu thông qua chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp Nhà nước mà trọng tâm là cổ phần hoá và giao bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước cũng được xác định là một chủ chương lớn đã thể hiện trong các nghị quyết của Đảng và quốc hội. Song chúng ta có cách làm riêng, từng bước ổn định và vững chắc, đồng thời giải quyết thoả đáng quyền lợi cho người lao động. Điều này nói lên bản chất yêu việt của chế độ, cổ phần hóa nhưng không làm tăng thêm số người thất nghiệp. Có thể khái quát quá tình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ta như sau: Giai đoạn 1992 – 1995 là thời kỳ thực hiện thí điểm theo quyết định 202 / NĐBT của hội đồng bộ trưởng về thí điểm chuyển một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty Cổ phần: Gia đoạn 1996 – 1998 là thời kỳ thực hiện nghị định 28CP (1996) về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, giai đoạn 1999 đến nay là thời kỳ thực hiện nghị định 44/ 1998 CP vè cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước và nghị định 103/ 1999 NĐ - CP về giao bán , khoán cho thuê doanh nghiệp Nhà nước. Hai hội nghị gần đây đã tạo ra khuôn khổ pháp lý theo cổ phần hoá giao bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước. Về tổ chức, các ban chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp Nhà nước từ trung ương đến các bộ ngành . Tổng Công ty 91 và các địa phương đã được thành lập. Nhưng quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp diễn ra rất chậm. Từ năm 1992 đến năm 1998 cổ phần hoá được 102 doanh nghiệp. Từ chỗ tự nguyện đăng ký số doanh nghiệp tựhc hiện cổ phần hoá đã được thành chỉ trên pháp lệnh. Năm 1999 thủ tướng chính phủ giao chỉ tiêu cổ phần hoá 450 doanh nghiệp cho các bộ, tổng Công ty 91 và các địa phương, nhưng chỉ thực hiện được 220 doanh nghiệp đạt 49% kế hoạch. Mặc dù doanh nghiệp đó cổ phần hoá và giao, bán, khoán, cho thuê còn ít nhưng khả năng cạnh tranh và hiệu quả đã rõ ràng, hầu hết các doanh nghiệp sau khi đã cổ phần hoá thì doanh thu, thu nhập của người lao động, lợi nhuận, vốn, nộp thuế đều tăng hơn so với trước khi cổ phần hoá. Hiện nay trong tổng số 5280 doanh nghiệp chỉ có 20,9% doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng, còn 65,5% doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng, 30% các doanh nghiệp địa phương có vốn dưới 1 tỷ đồng. Doanh nghiệp Nhà nước có sức cạnh tranh và hiệu quả kinh tế thấp chỉ khoảng 40% làm ăn có hiệu quả đủ sức cạnh tranh, 40% hiệu quả thấp hoặc hoà vốn, 20% thua lỗ liên tục. Lộ trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước giai đoạn 2000 - 2002 là phải sắp xếp lại 2280 doanh nghiệp, trong đó có số vốn trên10 tỷ đồng là 216,1 đến 10 tỷ đồng là 1233, dưới 1 tỷ đồng là 831 ; về hình thức thì 368 doanh nghiệp thuộc diện tiến hành giải thể hoặcphá sản, 1489 doanh nghiệp được cổ phần hoá và giao bán, khoán, cho thuê, 380 doanh nghiệp phải sát nhập vào doanh nghiệp khác và 43 doanh nghiệp trở thành đơn vị sự nghiệp. 1.2. Kết qủa của việc sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp Nhà nước. Thực hiện đường lối của Đảng 10 năm qua, từ năm 1991 đến nay Chính phủ đã đẩy mạnh cuộc đổi mới và đã tiến hành 3 đợt sắp xếp lớn các doanh nghiệp Nhà nước. Kết qủa sắp xếp các doanh nghiệp Nhà nước theo chủ trương nghị quyết của Chính phủ, chỉ thị của thủ tướng chính phủ đến cuối năm 1997là một mặt thu hẹp hơn 50% số đầu mối các doanh nghiệp Nhà nước, từ hơn 12000 doanh nghiệp xuống còn 6000 doanh nghiệp trong đó sát nhập 3100 doanh nghiệp, giải thể 3350 doanh nghiệp. Mặt khác doanh nghiệp Nhà nước vẫn phát triển ổn định và đóng góp phần quan trọngcho ngân sách Nhà nước. Nhưng tiến bộ trên đầy về đổi mới, sắp xếpdn1 Nhà nước và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước tuy có ý nghĩa rất quan trọngnhưng chưa tương xứng với yêu cầu và năng lực sẵn có của doanh nghiệp Nhà nước. Doanh nghiệp còn yếu kém, tồn tại cơ bản nhất là : Thứ nhất : Những năm gần đây tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sử dụng vốn các doanh nghiệp Nhà nước giảm dần. Năm 1995 đánh giá chung số doanh nghiệp có lấn chiếm khoảng 40% sốdn1 bị lỗ chiếm 20%. Nếu tính đủ khấu hao tài sản cố định thì doanh nghiệp làm ăn thua lỗ con số lớn hơn. Số dn1còn lại nằm trong tình trạng không ổn định, khi số vốn lãi và lãi cũng không lớn hơn. Công nợ trong doanh nghiệp Nhà nước hiện nay là quá lớn. Thứ hai : Doanh nghiệp Nhà nước còn thiếu về số lượng nhưng lại nhỏ về quy mô, còn lan trải theo ngành nghề địa phương. Thứ ba : Tình trạng thiếu vốn của các doanh nghiệp Nhà nước phổ biến và nghiêm trọng. Thứ tư : Trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu. Hậu quả là chưa tạo được nhiều sản phẩm quốc gia, sản phẩm mũi nhọn có hàm lượng chất sám và công nghệ cao, trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh, nội lực của đất nước với sử dụng có hiệu quả hợp tác kinh tế quốc tế, khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và trong nước của sản phẩm do doanh nghiệp Nhà nước làm ra thấp. 1.3. Những mặt hạn chế còn tồn tại : Kinh tế Nhà nước (KTNN) ở nước ta có một thực lực to lớn, chiếm 3/4 tài sản quốc gia và đóng góp trên 40% GDP hàng năm, nắm giữa các đài chỉ huyvà các vị trí then chốt trong nền kinh tế, đó là nền tảng, là cơ sở và sức mạnh để định hướng XHCN toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Những đòi hỏi tư nhân hoá khu vực KTNN không gì khác hơn là làm cho nền tảng và sức mạnh kinh tế của CNXH yếu đi, tạo thắng thế cho định hướng TBCN. Tuy nhiên cũng phải khách quan mà nhìn nhận rằng thành phần KTNN ở Việt Nam hiện nayđang hoạt động tương đối kém hiệu quả do chúng ta chưa có cơ chế để thực hiện quyền sở hữu đó có hiệu quả nhất. Sự mỏng manh, chưa vững chắc trong vai trò chủ đạo KTNN hiện nay có những nguyên nhân thuộc về quá khứ của quy hoạch, đầu tư đào tạo, bố trí và sử dụng cán bộ quản lý, ở đào tạo và tuyển dụng lao động, ở sự lại trông chờ vào việc ban phát từ bên trên, ở sự kém năng động và thiếu tính quyết toán trong các quyết định quản lý do có quá nhiều tầng nấc từ bên trên can thiệp… đang là những lực cản gây ra sự yếu kém, trì trệ ít hiệu quả của KTNN. Cùng các dư âm của quá khứ, việc chuyển đổi cơ chế cũng làm bộc lộ hơn những khuyết điểm mà chúng ta xử lý đó là tình trạng vô chủ trên thực tế vẫn còn tồn tại mặc dù về mặt pháp lý chúng tađã phân biệt rõ ràng các quyền năng sở hữu, sử dụng, định đoạt và hưởng lợi. Song việc sử dụng tăng phí công sản Nhà nước, quản lý lỏng lẻo, vô trách nhiệm, phân phối tùy tiện, chiếm dụng vốn lẫn nhau, lại vào sự đầu tư của Nhà nước, đánh quả, chụp giật, móc ngoặc vẫn còn tồn tại. Sự kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước và tập thể người lao động chưa được triển khai đồng bộ và thực sự có hiệu quả. Nhiều giám đốc sử dụng ngay đồng đều của Nhà nước để làm vô hiệu hoá sự kiểm tra và kiểm soát đó. 2. Nguyên nhân của thực trạng trên. Thứ nhất : Tình hình tài chính của doanh nghiệp nói chung và tài chính của những doanh nghiệp Nhà nước phải cổ phần hoá nói riêng chưa lành mạnh, thiếu tính minh bạch, thiếu rõ ràng. Chính phủ đã có quyết định 104/CT về thanh toán công nợ giai đoạn một và quyết định 95/QĐTTg về xử lý thanh toán giai đoạn II nhằm lành mạnh hoá tài chính của doanh nghiệp, nhưng kết quả giải quyết công nợ chưa khả quan, diễn ra rất chậm. Giai đoạn I chỉ giải quyết được gần 19% và giai đoạn II giải quyết được khoảng 18% tổng số nợ các doanh nghiệp kê khai. Mục đích của biện pháp này là làm cho các doanh nghiệp Nhà nước lành mạnh về tài chính trước khi cổ phần hoá, nhưng việc cơ cấu lại nợ của các doanh nghiệp vẫn còn nhiều bất cập nên việc xác định giá trị doanh nghiệp khi thực hiện cổ phần hoá gặp nhiều khó khăn. Thứ hai : Thể chế quản lý vẫn chưa tạo ra được sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Hiện nay vẫn có sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp Nhà nước với các đối thủ cạnh tranh thuộc thành phần kinh tế khác. Thực tế là giữa chính sách của mọi doanh nghiệp đều bình đẳng trước pháp luật và thực tiễn còn có khoảng cách, ngay ở khuôn khổ pháp luật vẫn còn có sự phân biệt đói xử giữa các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế. Bên cạnh đó là sự mặc cảm của xã hội đối với những người làm việc ở khu vực ngoài quốc doanh và sự kỳ thị của một số công chức đối với khu vực kinh tế dân doanh. Điều đó thể hiện rõ ở tần suất thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp dân doanh lớn nhiều hơn số với doanh nghiệp Nhà nước. Thứ ba : Công tác tuyên triển về đa dạng hoá sở hữu một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước còn nhiều hạn chế. Một số giám đốc doanh nghiệp Nhà nước vẫn còn nhận thức giám đốc doanh nghiệp là một chức vụ vô cùng với nó là “vị ngọt” của quyền lợi, “hương thơm” của quyền lực, họ vẫn ỉ lại vào Nhà nước, chưa nhận thức được đầy đủ trách nhiệm của một giám đốc đối với doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường đã khúc xạ thời kỳ bao cấp trước đây. Thứ tư :Tiềm lực tự đổi mới công nghệ của Nhà nước ta rất thấp, phần GDP cho nghiên cứu rất ít và lại chủ yếu chi cùng cho những lĩnh vực lý thuyết, ít tính ứng dụng. Chiến dịch chuyển giao công nghệ chưa nhận thức đúng để vạch ra và thực hiện một cách cương quyết. Dẫn đến chiến lược đầu tư thể hiện khá nhiều sai lầm. Nền kinh tế chưa hình thành các ngành mũi nhọn đủ sức nâng cao doanh nghiệp nói riêng và kinh tế nói chung rời bệ phóng để cất cánh. Ngoài ra, bộ phận quản lý của doanh nghiệp Nhà nước còn rất bỡ ngỡ việc cung cách làm ăn thị trường, cạnh tranh khốc liệt, do vậy nhiều khi còn bị lừa gạt. Ngoài ra tệ nạn tham ô, tham nhũng có xu hướng tăng trưởng nền kinh tế cũng là một trong những căn nguyên làm giảm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước. III. Giải pháp. 1. Một số phương pháp tháo gỡ khó khăn của doanh nghiệp nhà nước hiện nay. Trong những năm qua phải nhận thấy rằng quá trình cải tổ chủ yếu mang nặng tính chất hành chính, gấy sức ép từ trên xuống thông qua các chủ trương, kế hoạch cải cách lớn của Chính phủ. Do vậy những thành tựu thu được chủ yếu do tháo bỏ những ràng buộc vô lý để cho các quan hệ kinh tế tự nó phát triển theo quy luật nhằm tận dụng hết những nguồn lực dự trữ bề nổi mà xã hội hiện có. Quan hệ thị trường mới khuyến khích các doanh nghiệp Nhà nước khai thác nguồn lực theo chiều rộng, theo bề nổi, còn những yếu tố chiều sâu công nghệ tiên tiến chưa sử dụng được là bao mà những yếu tốt này lại là lực lượng sản xuất quan trọng nhất của nền kinh tế hiện đại, để khơi dậy sức sống cho lao động sáng tạo, tài năng cần tiếp tục đổi mới sâu sắc hơn nữa cơ chế quản lý doanh nghiệp Nhà nước. + Trước hết là mối quan hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước về các mặt tài chính và các lĩnh vực hoạt động. Chúng ta không thể giữ mãi cơ chế coi doanh nghiệp Nhà nước như một hạng mục doanh nghiệp đặc biệt được hưởng cơ chế ưu đãi riêng so với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Đã là doanh nghiệp, với tư cách là một pháp nhân tài sản độc lập, doanh nghiệp Nhà nước cũng phải hoạt động theo cơ chế thị trường như mọi doanh nghiệp khác. Trong cơ chế thị trường, mục tiêu của bất cứ doanh nghiệp nào cũng bao gồm một nội dung kép : Là lợi nhuận tối đa cho chủ sở hữu và thu nhập cao cho người đóng góp vào hoạt động của Công ty. Khi chủ sở hữu quản lý trực tiếp doanh nghiệp thì xu hướng chủ đạo trong điều hành là giảm đến mức tối đa thu nhập của người làm công với tư cách giảm chi phí để tăng tối đa lợi nhuận thu về. Còn khi người làm thuê trực tiếp quản lý doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp Nhà nước, thì họ lại có xu hướng nâng cao tiền lương, coi đó như phần thưởng hợp pháp của những người lao động nhằm khuyến khích họ làm việc tốt. Mâu thuẫn giữa hai xu hướng này chưa phải đã hết trong sở hữu Nhà nước bởi vì thu nhập qua lương người lao động được quyền chi phối trực tiếp, còn thu thập qua phân phối lại từ ngân sách nhà nước vừa khó kiểm soát vừa không cảm nhận một cách thiết thân. Do vậy khi chuyển sang cơ chế thị trường, sự tách bạch công khai tài chính doanh nghiệp Nhà nước và tài chính công là hết sức cần thiết. Nhưng cơ chế tách bạch đó như thế nào. Hiện tại các doanh nghiệp Nhà nước vẫn hoạt động theo cơ chế giao vốn và nhà nước và nhà nước giao nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Song cơ chế quản lý theo kiểu giao vốn đã ít nhiều bộc lộ khiếm khuyết. Trong nền kinh tế hiện đại có hai cách quản lý vốn có hiệu quả : Đó là cơ chế kinh doanh vốn như công ty tài chính và cơ chế uỷ quyền trực tiếp cho các cá nhân tin cậy. Không phải doanh nghiệp nào cũng có thể dùng chế độ tham dự – công cụ chủ yếu để đầu tư vốn của các công ty tàu chính hiện đại, để kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp khác. Chế độ tham dự chỉ thích hợp với công ty cổ phần. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng cặp đôi : Công ty tài chính Nhà nước và công ty cổ phần là xu hướng chủ đạo để giải quyết sở hữu Nhà nước trong doanh nghiệp. Đối với những doanh nghiệp không phải là công ty cổ phần cần chế độ uỷ quyền cá nhân. Những cá nhân thay mặt Nhà nước trong doanh nghiệp phải là những công chức đặc biệt : Vừa trung thành tuyệt đối với lợi ích Nhà nước, vừa phải có tài tổ chức quản lý và kinh doanh. Họ là những vị tướng trên chiến trường có quyền rất rộng rãi vì lợi ích của Nhà nước. Do vậy cơ chế tuyển dụng, đào tạo, đãi ngộ phải được lựa chọn và thực thi nhằm thực hiện mục tiêu đó. Với những doanh nghiệp Nhà nước phải uỷ quyền cho cá nhân thì từng cá nhân này phải được lựa chọn đặc biệt. + Thứ hai là mối quan hệ giữa doanh nghiệp Nhà nước với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Hiện tại khu vực doanh nghiệp Nhà nước vẫn mang tính biệt lập do các doanh nghiệp Nhà nước còn được hưởng nhiều ưu đãi của nhà nước cũng như chế độ đối đãi của Nhà nước đối với cán bộ quản lý và lao động trong các doanh nghiệp này. Cho đến nay doanh nghiệp Nhà nước vẫn hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nước mà thực tế cho thấy chứa đựng nhiều bất hợp lý cần thay đổi. Ví dụ công ty cổ phần 51% sở hữu nhà nước hoạt động theo luật nào trong luật DNNN và luật doanh nghiệp. Quan điểm cho thấy cần phải chuyển các doanh nghiệp Nhà nước sang hoạt động theo một luật chung với các doanh nghiệp khacs đã được nhiều người nhất trí. Song vấn đề chuyển DNNN sang hoạt động theo luật doanh nghiệp như thế nào ? Với doanh nghiệp đã là công ty cổ phần thì đơn giản. Song còn các loại hình DNNN khác thì sao ? Nghị quyết Hội nghị trung ương 4 ( khoá VIII) và luật doanh nghiệp đã chuẩn bị cho bước chuyển này bằng hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ xong có một vài khía cạnh cần xem . Thứ nhất, dù hoạt động theo luật doanh nghiệp, DNNN vẫn cần có một cơ chế kiểm soát tài chính thống nhất. Riêng về lĩnh vực này thì Nhà nước cũng phải có một khung pháp lý rõ ràng quy định trách nhiệm, nghĩa vụ của doanh nghiệp với nhà nước với tư cách chủ sở hữu. Do đó, rất nên xây dựng thành một quy chế chung để tránh sự tuỳ tiện tạo điều kiện cho tham nhũng. Thứ hai, vẫn cần có tổ chức hoặc cá nhân tin tưởng kiểm tra giảm sát hoạt động kinh doanh của DNNN nhằm bảo vệ lợi ích Nhà nước trong quan hệ với lợi ích doanh nghiệp. Tổ chức đó chính là Hội đồng quản trị mà nòng cốt phải là các cá nhân được Nhà nước uỷ quyền và tin tưởng. Chính ở điểm này chúng ta cần thấy vấn đề con người đặc biệt quan trọng để vận hành đúng mục đích đầu tư vốn dưới hình thức sở hữu nhà nước. Nếu chúng ta không bồi dưỡng, đào tạo, sàng lọc để có được những con người đó trong tay thì triển vọng sở hữu Nhà nước trở thành vô chủ sẽ không tránh khỏi. Thứ ba, để DNNN chứng tỏ tính ưu việt của mình nhằm dần dần trở thành nền tảng của chế độ kinh tế mới, ngoài yếu tố cán bộ quản lý, phải khơi dậy được sức mạnh của người lao động không phải theo ý nghĩa chỗ làm việc an toàn mà bằng cách gắn lợi ích của từng người lao động vào doanh nghiệp cũng như khuyến khích các tổ chức xã hội độc lập của họ như hội nghành nghề, tổ chức Đảng, thanh niên, phụ nữ, công đoàn….Đây là lĩnh vực rất phức tạp. Một mặt chúng ta không thể kỳ vọng quá nhiều vào việc người lao động bao giờ cũng là những cổ đông thiểu số, do đó tự thân mỗi người sẽ có ít ảnh hưởng đến kiểm soát các quyết sách của doanh nghiệp. Mặt khác nếu không phát huy được khả năng lao động sáng tạo tự nguyện của người lao động thì tinhs XHCN trong các DNNN bằng không. Để những người lao động làm việc theo tư thế người xã hội chủ nghĩa và đó chính là một trong những tính ưu việt của DNNN, cần phải tổ chức hoạt động của các đoàn thể xã hội. Công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ…cần phải tách khỏi quyền lực của cán bộ quản lý doanh nghiệp để trở thành lực lượng phản biện tích cực cho những quyết sách của cán bộ quản lý. Muốn được như thế một mặt kinh phí cho các đoàn thể này hoạt động phải tách khỏi chế độ lương bổng chung của doanh nghiệp (bằng cách hội viên đóng góp hoặc ngân sách phân bổ theo ngành dọc), mặt khác có thể tận dụng vị thế uỷ thác của các cổ đông, vai trò đại diện trong hội đồng quản trị, ban kiểm soát để vừa giám sát được hoạt động của giới quản lý vừa tạo được bầu không khí nhất trí nỗ lực cho mục tiêu chung của doanh nghiệp. + Thứ ba là những vấn đề khó khăn hiện tại của DNNN cần phải được phân loại và đậy mạnh các giải pháp khắc phục. Một là vấn đề nợ : Tỷ lệ nợ của các doanh nghiệp nhà nước so với thế giới chưa phải là cao thể hiện khả năng sử dụng đòn bẩy tài chính còn ở mức thấp. Song vấn đề thanh toán lại cực kỳ khó khăn. Như trên đã phân tích, chính sách khấu hao, chính sách thuế, các nghĩa vụ xã hội mà nhà nước giao cho DNNN thời gian trước đây đã buộc doanh nghiệp chi dùng cả vốn của mình. Do vậy cũng nên áp dụng cách xử lý của nền kinh tế hiện đại trên hai hướng chính : 1) Cơ quan pháp luật (toà án) cưỡng chế các bên nợ phải trả cho chủ nợ theo đúng cam kết. 2) Nếu không thể trả nợ, rất cần thiết phải tuyên bố vỡ nợ, phá sản để thanh lý doanh nghiệp cho những mục tiêu khác. Nếu không kiên quyết trong vấn đề phá sản những doanh nghiệp hết lý do tồn tại mà thay vào đó lại bơm vốn, bơm trợ cấp vào đó vô hình chung tạo nên tấm gương xấu cho các doanh nghiệp khác có cớ để lẩn trốn sắp xếp lại. Quan điểm thành lập cơ quan mua bán nợ Nhà nước với tư cách giải pháp hỗ trợ làm trong sạch sổ sách đẩy mạnh cổ phần hoá khả dĩ chỉ nên áp dụng như giải pháp tạm thời. Về lâu dài công ty mua bán nợ cũng phải hoạt động theo cơ chế kinh doanh. Về nguyên tắc nếu tiếp tục xử lý nợ theo kiểu bao cấp trước kia thì sẽ không kích thúch nổi doanh nghiệp nhà nước thoát khỏi tình trạng khó khăn về tài chính hiện nay mà lại thêm gánh nặng cho nhà nước. Cho nên xử lý nợ cũng phải theo quan điểm cơ cấu lại, loại bỏ các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả không còn lý do để tồn tại. Hai là vấn đề lao động dư thừa : Theo tinh thần của Luật Lao động và các văn bản có liên quan thì bản thân DNNN không có khả năng giải quyết vấn đề lao động dư thừa do lịch sử để lại nếu không có sự hỗ trợ chính sách từ phía Nhà nước, đặc biệt là quỹ hỗ trợ thất nghiệp. Hiện nay chính sách này cũng chưa được hình thành. Mặt khác cần sự đốc thúc của đại diện sở hữu Nhà nước để giám đốc doanh nghiệp giải quyết vấn đề giảm chi phí bằng cách tổ chức khoa học lao động. Hiện tại các giám đốc không mấy tích cực làm việc này vì đối với họ sức ép tìm kiếm thu nhập cho công nhân viên chức ngang bằng sức ép tìm kiếm lợi nhuận cho Nhà nước. Vả lại còn bao mối quan hệ phức tạp với cấp trên, với các cơ quan chức năng của Nhà nước khiến cho việc giảm biên ché không nhằm vào những người càan giảm. Cho nên cần có nguồn tài chính bù đắp thích đáng cho người lao động dư thừa xin thôi việc tự nguyện. Bộ phận dư thừa không tự nguyện có thể hưởng trợ cấp thất nghiệp chờ việc hoặc đào tạo đón đầu những ngành mới. Những người không chấp nhận cả hai hình thức này mà quả thật không thích hợp với nhiệm vụ mới có lẽ cần cưỡng bức sa thải có đền bù, đồng thời sửa đổi luật lao động, tìm hướng cho DNNN trong tương lai có thể tự giải quyết được vấn đề lao động dư thừa do công nghệ. Ba là chuyển giao công nghệ và chiến lược đầu tư : Phải khẳng định rằng chuyển giao công nghệ vẫn là vấn đề sống còn của DNNN nếu muốn tồn tại có hiệu quả. Chúng ta không thể hy vọng doanh nghiệp làm từ A đến Z trong lĩnh vực đổi mới công nghệ. Do vậy con đường cải tiến và sử dụng công nghệ chuyển giao từ các nước khác là con đường hiệu quả và ngắn nhất cho hiện đại hoá doanh nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên từng DNNN sẽ không thể thực hiện thành công chuyển giao công nghệ ở trình độ mong. ở đây Nhà nước, nhất là các bộ ngoại giao và các bộ chuyên ngành phải tạo điều kiện bằng công tác thông tinh chính xác nhanh nhạy kết hợp tình báo kinh tế để thu nhập bằng được, dù phải trả giá cao những công nghệ tiên tiến nhất vào nền kinh tế nhằm tạo ra các ngành mũi nhọn đẩy bật nền kinh tế tiến nhanh về phía trước. Ngoài ra cần kiểm soát nghiêm ngặt quá trình nhập khẩu công nghệ nhằm ngăn chặn xu hướng biến nước ta thành kho phế thải. Từ chiến lược công nghệ đúng đắn sẽ định hướng cho chiến lược đầu tư. Vì thế đầu tư mới ở doanh nghiệp Nhà nước có xu hướng rải mành mành, hiệu quả chưa cao. Đã đến l

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34600.doc
Tài liệu liên quan