Đề án Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật bản

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương I: Những vấn đề lý luận chung về thương mại quốc tế và sự cần thiết phải phát triển quan hệ thương mại Việt – Nhật 3

I- Khái luận chung về thương mại quốc tế 3

1. Khái niệm 3

2. Đặc điểm của thương mại quốc tế 3

II- Sự cần thiét phải phát triển quan hệ thương mại Việt – Nhật 4

1. Xu hướng toàn cầu hoá quan hệ kinh tế của các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng phải có một chính sách về thương mại thích hợp 4

2. Sự phát triển kinh tế của Việt Nam và Nhật Bản có sự khác biệt nên có sự hỗ trợ cho nhau 6

3. Lợi thế so sánh giữa hai quốc gia Việt Nam và Nhật Bản 7

4. Sự gặp gỡ lợi ích và nhu cầu tăng cường mở rộng quan hệ từ hai phía 9

Chương II: Thực trạng quan hệ thương mại Việt – Nhật trong thời gian qua 12

I- Thực trạng quan hệ thương mại Việt – Nhật 12

1. Giai đoạn trước năm 1955 12

2. Giai đoạn 1955 – 1975 14

3. Giai đoạn 1975 – 1985 18

4. Giai đoạn 1986 đến nay 21

II- Đánh giá thực trạng quan hệ thương mại Việt – Nhật qua các giai đoạn 35

1. Những ưu điểm của quan hệ thương mại Việt – Nhật 35

2. Những nhược điểm của thực trạng quan hệ thương mại Việt – Nhật 36

3. Nguyên nhân của các tồn tại 38

Chương III: Những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại Việt – Nhật 42

I- Các chính sách đặt ra đối với Việt Nam 42

1. Chính sách khuyến khích các công ty Nhật Bản tham gia vào quá trình sản xuất hàng xuất khẩu tại Việt Nam 42

2. Chính sách coi thị trường Nhật Bản như một trong những hướng xuất khẩu quan trọng nhất 45

II- Một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy phát triển quan hệ thương mại Việt – Nhật 48

1. Đối với chính phủ 48

2. Về phía danh nghiệp 51

KẾT LUẬN 55

TÀI LIỆU THAM KHẢO 57

 

doc58 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1417 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các năm tiếp theo. Tháng 10/1990 lần đầu tiên trong lịch sử hai nước, ngoại trưởng kiêm phó thủ tướng Nguyễn Cơ Thạch đã sang thăm Nhật Bản. theo đánh giá của hai phía chuyến đi thăm Nhật Bản lần này của ngoại trưởng Việt Nam đã mở ra một thời kỳ mơí trong quan hệ Việt -Nhật. Tiếp đó, tháng 6/1991 ngoại trưởng Makayama sang thăm Việt Nam cùng với các chuyến thăm lẫn nhau quan hệ hai nước được cải thiện rõ rệt. Bứoc vào thập kỷ 90, trong tình hình bối cảnh thế giới thay đổi rất sâu sắc sau khi chiến tranh lạnh kết thúc và trong giai đạn qua độ của tiến trình sắp xếp lại tương quan lực lượng ở Châu á -Thái Bình Dương và Nhật là ở Đông Nam á, quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản đã có những điều kiện và khả năng phát triển thuận lợi hơn : (1) xu thế hội thoạI và hợp tác cùng phát triển, tính chất phụ thuộc lấn nhau giữa các nước đang ngày càng trở lên mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu và khu vực. Châu á- Thái Bình Dương nổi lên là một khu vực rất quan trọng cả về chính trị và kinh tế, thực hiện sự quan tâm chú ý ngày càng lớn của các nứoc lớn và các trung tâm lớn trên thế giới. (2) sự điều chỉnh chính sách của Nhật Bản từ chỗ gắn chặt với Mỹ và phương Tây chuyển sang chủ trương “ quay trở lại Châu á” theo hướng coi trọng Châu á hơn, đóng vai trò chủ động hơn, nhằm phát huy ảnh hưởng của mình ở khu vực. Các nứơc ASEAN giờ đây là bạn của Việt Nam, nhân tố này tạo tiền đề cho Nhật Bản mở rộng quan hệ hợp tác thương mại với Việt Nam. Tháng 11/1992 sau “Hội thảo Quốc tế về chuyển sang kinh tế thị trường”chính phủ Nhật Bản đã quyết định viện trợ trở lạI cho Việt Nam ,kết thúc 14 năm gián đoạn (1978-1992) .Tiếp sau việc nối lạI viện trợ (ODA) cho Việt Nam ,chính phủ Nhật Bản tuyên bố huỷ bỏ quy chế hạn chế xuất khẩu một số mặt hàng kỹ thuật cao, hàng chiến lược sang các nước xã hội chủ nghĩa trong đó có Việt Nam,đã được áp dụng từ năm 1977.Từ nay Việt Nam được phép nhập khẩu những máy móc thiết bị hiệ đại từ Nhật Bản để phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Tháng 2/1993 đoàn KEIDANREN (Liên đoàn các tổ chức kinh tế Nhật Bản ) tới thăm Việt Nam .Đến tháng 3/1993 Thủ tướng Võ Văn Kiệt chính thức thăm Nhật Bản trong vòng 4 ngày và đã bày tỏ mong muốn Nhật Bản tăng cưoừng hợp tác hơn nữa với Việt Nam .Chuến thăm của Thủ tướng đã có vai trò không nhỏ trong việc cảI thiện quan hệ giữa hai nước và thu hút được sự quan tâm hơn nữa của chính phủ Nhật Bản đối với Việt Nam. Ngay sau chuyến thăm của Thủ tướng Việt Nam cũng trong tháng 3/1993,Chính phủ Nhật Bản đã quyết định tái lập bảo hiểm thương mại trung và dài hạn sau 14 năm ngừng cung cấp (1979-1993). Ngày 3/2/1994 “Diễn đàn thúc đẩy và phát triển hơn nữa quan hệ kinh doanh Việt Nam –Nhật Bản “ đã được tổ chức lần đầu tiên tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.Diễn đàn này sôi động và thu hút đông đảo doanh nghiệp cả 2 nước tham gia.Sự kiện này đánh dấu một mốc phát triển của quan hệ thương mại Việt –Nhật .Từ tháng 4/1994 Chính phủ Nhật Bản mở thêm bảo hiểm ngắn hạn cho Việt Nam .Tiếp đó Nhật Bản ký với Chính phủ Việt Nam hiệp định “tránh đánh thuế hai lần”.Cứ 6 tháng một lần phía Nhật Bản xem xét và đIều chỉnh lại chính sách bảo hiểm thương mại.Những bước tiến này của phía Nhật Bản nhằm thúc đẩy hoạt động với Việt Nam . Sự kiện có ý nghĩa quan trọng đặc biệt là chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng TMICHI MURAYAMA-Thủ tuớng đầu tiên của Nhật Bản trong hai ngày 25-26/8/1994,đã mở ra một trang sử mới trong quan hệ Việt-Nhật .Sự có mặt của Thủ tướng Nhật Bản tại Việt Nam khẳng định mạnh mẽ chính sách “nhìn về Việt Nam” của Chính phủ Nhật Bản .Trong chuyến thăm,Thủ tướng Nhật Bản tuyên bố sẽ ủng hộ tích cực chính sách đổi mới của Việt Nam ,tiếp tục hợp tác kinh tế với Việt Nam và dành cho Việt Nam một khoản viện trợ khoảng 60 tỷ yên trong tài khoá 1994 và cử sang Việt Nam đoàn đIều tra tổng hợp về hợp táckinh tế vào tháng 10/1994.Phía Nhật Bản cũng nhất trí về việc “Tổ chức những người tình nguyện Nhật Bản hợp tác với nước ngoài”,cử giáo viên Nhật Bản sang Việt Nam dạy tiếng Nhật Bản và viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam 7 tỷ 733 triệu yên. Sau chuyến thăm của thủ tướng, nhiều cuộc hội thảo, diễn đàn về Việt Nam được tổ chức ở Tokyo, osaka, Hà Nội, thành phố Hồ chí Minh, đã làm nóng lên bầu không khí “ đầu tư vào Việt Nam” và buôn bán với Việt Nam . Các doanh nghiệp Nhật Bản được sự hỗ trợ tích cực từ phía chính phủ ,các nhà bảo hiểm , ngân hàng và các công ty của Nhật Bản trong hoạt động buôn bán và đầu tư ở Việt Nam. Hoạt động xúc tiến mậu dịch của chính phủ Nhật Bản đã làm cho hoạt động thương mại Việt – Nhật sôi động và nhộn nhịp hẳn lên. Chính vì vậy, cho tới nay đã có những ngân hàng có tên tuổi như Bank of Tokyo, IBJ, Fufitsu, Misubishi và rất nhiều hãng thương mại lớn của Nhật Bản có mặt tại Việt Nam. Bằng các chính sách và bước đi của mình, chính phủ Nhật Bản đã thực sự thúc đẩy tiến trình hợp tác với Việt Nam trên cả hai lĩnh vực thương mại và đầu tư. Nhật Bản đã thực sự tiến xa hơn trong quan hệ hợp tác kinh tế – thương mại với Việt Nam kể từ ngày Mỹ chính thức bỏ lệnh cấm vậnthương mại chống Việt Nam. đồng thời Nhật Bản cũng giành cho Việt Nam nhiều ưu đãi hơn trước. Chính vì vậy, mà hoạt động kinh doanh của các công ty Nhật Bản tại thị trường Việt Nam ngày càng sôi động cho đến nay đã có 168 công ty của Nhật Bản đầu tư và đặt văn phòng đại diện tại Việt Nam. Cuối năm 1994, một phái đoàn thương mại Việt Nam do thứ trưởng bộ thương mại Mai văn D dẫn đầu đã sang thăm Nhật Bản. thành phần đoàn gồm có các nhà doanh nghiệp, các nhà hoạch định chính sách và chiến lược phát triển thương mại của Việt Nam. Mục đích của chuyến thăm là thiết lập quan hệ hợp tác kinh tế thương mại với Nhật Bản và tiếp cận với thị trường Nhật Bản để nắm bắt rõ thông tin cần thiết phục vụ cho hoạt động kinh doanh với thị trường này. nhiều cuộc hội thảo và diễn đàn về Nhật Bản và thị trường Nhật Bản đã được tổ chức tại Hà Nội và thành phố ò Chí Minh thổi bùng lên phong trào “buôn bán với thị trường Nhật Bản” tất cả những việc làm cụ thể và thiết thực này đã góp phần bước tiến quan hệ thương mại Việt –Nhật đang ở vào thời kỳ phát triển. Ngày 11/7/1995 Mỹ chính thức tuyên bố “ bình thường hoá quan hệ với Việt Nam” sự kiện này thực sự mở ra cho Việt Nam một kỷ nguyên mới cho sự phát triển hợp tác kinh tế – thương mại với tất cả các nước trên thế giới. Những bước tiến của Mỹ trong quan hệ với Việt Nam thực sự có ý nghĩa đối với quan hệ thương mạI Việt Nam – Nhật Bản. từ đây sẽ không có một lý do khách quan nào ngăn cản mối quan hệ này phát triển và chính phủ Nhật Bản cũng không phải điều chỉnh chính sách kinh tế thương mại của mình đối với Việt Nam. Ngày 28/7/1995 Việt Nam chính thức tham gia vào ASEAN. Sau 3 năm là thành viên của ASEAN, ngày 14/11/1998, Việt Nam lại bước vào một tổ chức mới,đó là diễn đàn hợp tác kinh tế châu á - tháI bình dương. Sự kiện này đã đặt Việt Nam vào một vị thế mới trong quan hệ với Nhật Bản. Tất cả mọi ưu đãi trong buôn bán mà Nhật Bản đã dành cho các nước ASEAN và các nứoc trong khối APEC thì Việt Nam sẽ được hưởng. Hoạt động buôn bán của các nước ASEAN, APEC phát triển rất nhanh, chắc chắn Việt Nam sẽ không nằm ngoài xu hướng này. Hoàn cành quốc tế ngày càng thuận lợi đã tạo đà cho quan hệ thương mại Việt –Nhật phát triển không ngừng và có những bước tiéen đáng ghi nhận, nhịp độ tăng trưởng nhanh và tương đối ổn định. Kết quả đạt được là rất đáng khích lệ, đã vượt xa so với giai đoạn trước. Bảng 5 : kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Nhật Bản Đơn vị : triệu USD Năm Xuất khẩu Nhập khẩu Tổng kim ngạch XNK Việt- Nhật Tỷ giá xuất siêu Kim ngạch So với năm trước (%) Kim ngạch So với năm trước (%) Kim ngạch So với năm trước (%) 1986 83 - 189 - 272 - -106 1987 144 173,5 179 94,7 323 118,8 -35 1988 196 136,1 194 108,4 390 120,7 2 1989 347 177 169 87,1 516 132,3 178 1990 595 171,5 214 126,6 809 156,8 381 1990 662 111,3 217 101,4 879 108,7 445 1992 870 131,4 451 207,8 1321 150,3 419 1993 1069 122,9 639 141,7 1708 129,3 430 1994 1350 126,3 644 100,8 1994 116,7 706 1995 1716 127,1 921 143,0 2637 132,2 795 1996 2020 117,7 1140 123,8 3160 119,8 880 1997 2198 108,8 1283 112,5 3481 110,2 915 1998 1850 84,4 1380 107,6 3230 92,8 470 1999 1620 87,5 1315 95,2 2940 90,8 305 Tổng cộng: 14720 - 8935 - 23660 - 5789 Nguồn: số liệu thống kê của bộ tài chính Nhật Bản, JETRO. Trong vòng 14 năm (1986 – 1999) tổng giá trị xuất nhập khẩu Việt – Nhật đạt 24262 triệu USD, trong đó xuất khẩu sang Nhật đạt 15130 triệu USD, nhập khẩu 9132 triệu USD. Việt Nam đã xuất siêu sang Nhật Bản một khối lượng hàng hoá tương đối lớn trị giá 5998 triệu USD, chiếm 28,4% tổng giá trị xuất nhập khẩu Việt – Nhật. Đây thật sự là một bất ngờ đối với Việt Nam vì trong nhiều năm liên tục Việt Nam đã tình trạng nhập siêu và hơn thế nữa Việt Nam là một nước trong những nước thâm hụt triền miên cán cân thương mại. Nhìn vào bảng 5 ta thấy nếu như năm 1986, 1987 Việt Nam vẫn nhập siêu từ Nhật Bản thì đến năm 1988 tình thế lại quay ngược trở lại. Năm 1988 là năm đầu tiên Việt Nam xuất siêu sang Nhật Bản sau một thời kỳ nhập siêu. Trong suốt 12 năm (1988 – 1999) Việt Nam liên tục xuất siêu sang Nhật Bản. Điều này phản ánh sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt nam tuy còn ở mức thấp nhưng dù sao cũng là một nguồn động viên đáng khích lệ đối với Việt Nam. Việt Nam đã thúc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của mình sang thị trường Nhật Bản, vì vậy tình trạng thâm hụt triền miên của Việt Nam trong cán cân thương mại Việt – Nhật đã bị đẩy lùi. Kim ngạch buôn bán Việt – Nhật tăng nhanh và tương đối ổn định. Qui mô buôn bán không ngừng gia tăng năm 1985 đạt 272 triệu USD, đến năm 1997 đã lên tới 3481 triệu USD, trong vòng 12 năm (1986 – 1997) kim ngạch buôn bán Việt – Nhật tăng 12,8 lần. Đến năm 1998 do tác động của cuộc khủng hoảng và sự suy giảm kinh tế của Nhật Bản kim ngạch buôn bán có giảm chút ít, song vẫn đạt mức 3,23 tỷ USD tăng 11,9 lần so với năm 1986 trong đó Việt Nam vẫn xuất siêu 470 triệu USD. Năm 1999 tình trạng còn tồi tệ hơn, tính đến hết tháng 7/1999 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu chỉ đạt 90% so với cùng kỳ năm 1998. Phân tích sâu hơn ta thấy, tổng kim ngạch nhập khẩu 9 tháng đầu năm 1999 giảm 4,37% tương ứng 47 triệu USD, so với cùng kỳ năm 1998, trong đó các mặt hàng giảm mạnh là: linh kiện xe máy CKD giảm 73,62%, phân bón các loại giảm 51,6%, ôtô các loại giảm 39,75%, sắt thép các loại giảm 18,58%. Tuy vậy, tỷ trọng mậu dịch nhập khẩu từ Nhật Bản trong tổng mậu dịch của ta với thế giới thấp hơn không đáng kể ở năm 1998. Trong hoạt động xuất khẩu sang Nhật Bản có phần khả quan hơn chút ít nó phản ánh sự cố gắng của ta trong đẩy mạnh phát triển kinh tế nói chung, trong những ngành hướng về xuất khẩu nói riêng. Tính đến tháng 9/1999 kim ngạch xuất khẩu của ta sang Nhật Bản đạt 1,2 tỷ USD, nghĩa là cao hơn cùng kỳ năm trước tới 210 triệu USD. Trong đó đáng chú ý xuất khẩu gạo tăng mạnh đạt 444,29%, hoa quả tăng 92,05%, cao su tăng 90,2%. Nếu so với hoạt động xuất khẩu chung của chúng ta, thì hoạt động xuất khẩu sang Nhật Bản gia tăng mạnh hơn, vì vậy vai trò của thị trường Nhật Bản cũng gia tăng, chiếm tới 14% thị phần xuất khẩu của ta. Điều đang lưu ý trong hoạt động mậu dịch của ta với Nhật Bản là trong nhiều năm chúng ta xuất siêu. Tuy nhiên, nhìn nhận đánh giá hiện tượng này cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Song có điều thống nhất là xuất siêu ở đây không phải phản ánh thế mạnh trong hoạt động kinh doanh nói chung của các công ty Việt Nam. Trong thực tế chúng ta chưa tạo ra được những nguồn hàng chủ lực có tính dài hạn. Chúng ta mới chỉ tìm kiếm những cái có sẵn (không phải nhiều) để xuất khẩu. Vấn đề này đặt ra là phải xây dựng được chiến lược về sản phẩm trong xuất khẩu nói chung, đối với từng thị trường nói riêng. Đây và vấn đề nan giải đối với Việt Nam. Để giải quyết cần phải đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh thế sang hướng mạnh và xuất khẩu, Nhà nước cần có chính sách ưu tiên đầu tư phát triển các ngành tạo nguồn hàng xuất khẩu, đặc biệt cần nâng cao năng lực cạnh tranh qua công nghiệp hoá, hiện đại hoá kỹ thuật, công nghệ các ngành sản xuất chế biến hàng xuất khẩu .... Bảng 6: Tỷ trong xuất khẩu Việt – Nhật trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Đơn vị: triệu USD 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 Kim ngạch XK Việt – Nhật 347 595 662 870 1069 1350 1716 2020 2198 1850 Tổng kim ngạch XK của Việt Nam 1946 2404 2087,1 2580,7 2985,2 4054,3 5200 7256 9274 9300 Tỷ trọng % 17,8 24,8 31,7 33,7 35,8 33,3 33 27,8 23,7 19,9 Nguồn: Thống kê của Bộ Tài chính Nhật Bản, JETRO Kim ngạch xuất khẩu của Việ Nam sang Nhật Bản đã tăng lên nhanh chóng nhưng tỉ trọng của nó lại tăng giảm thất thường. Năm 1985 mới chỉ đạt 4,6% năm 1993 đã lên tới 35,8%, đến năm 1998 tụt xuống còn 19,9%. Năm 1998 là năm mà giá trị kim ngạch xuất khẩu Việt – Nhật giảm trong một thời gian dài liên tục. Vậy nguyên nhân nào đưa đến việc giảm kim ngạch xuất khẩu Việt – Nhật? Nguyên nhân dễ nhận thấy là cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực và sự suy thoái kinh tế của Nhật Bản, thực sự nền kinh tế Nhật Bản đang rơi vào vòng xoắn giảm phát. Điều này đã dẫn tới tính trạng giảm nhẹ tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu của năm 1997 so với năm 1996 (8,8% so với 17,7%) và sự chững lại của kim ngạch xuất khẩu năm 1998 so với năm 1997 (-15,8% so với 8,8%). Mặc dù có rất nhiều cố gắng nhưng việc mất giá của đồng yên và của các đồng tiền khác đã làm cho hàng hoá Việt Nam mất đi lợi thế cạnh tranh vốn có nên năm 1998 kim ngạch xuất khẩu Việt Nhật chỉ đạt 1850 triệu USD bằng 91,6% so với năm 1996. Đồng thời do suy thoái kinh tế của Nhật Bản, sức mua trong nước giảm, ngơừi dân Nhật Bản không còn sung túc như trước đã dẫn đến việc hạn chế xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Nhật Bản như nông, lâm, thuỷ hải sản, hàng dệt may... và trong chừng mực nào đó kể cả dầu thô. Bên cạnh đó, suy thoái kinh tế của Nhật Bản không những gây hậu quả trực tiếp mà còn ảnh hưởng đến Việt Nam một cách gián tiếp. Châu á chủ yếu là Đông Nam á, chiếm 70% giá trị kim ngạch ngoại thương của Việt Nam khi hoạt động giữa các nước này và Nhật Bản suy yếu thì cũng sẽ ảnh hưởng tới tình trạng thương mại của Việt Nam do một tỷ lệ khá lớn hàng xuất khẩu (nông, lâm hải sản) của Việt Nam sang các nước Đông Nam á được tái xuất sang Nhật Bản sau khi được chế biến lại. Công cuộc cải tổ, đổi mới nền kinh tế Việt Nam đã thu được những thành quả bước đầu đáng ghi nhận. Những kết quả đạt được từ sự tăng trưởng kinh tế phần nào được thực hiện trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản: năm 1989: 347 triệu USD nhưng đến năm 1996 đã lên tới 2020 triệu USD nhưng đến năm 1997, 1998 có dấu hiệu giảm sút và đến năm 1999 lại có dấu hiệu tăng. Tuy nhiên kim ngạch xuất của Việt Nam sang Nhật Bản tăng nhanh và ổn định trong một thời gian dài, yếu tố này chứng tỏ thị trường Nhật Bản đã chấp nhận hàng hóa của Việt Nam và triển vọng sẽ còn tăng nhanh hơn nữa khi thời kỳ khủng hoảng kinh tế khu vực và suy thoái kinh tế Nhật Bản qua đi. Bảng 7: Các mặt hàng chủ yếu của Việt Nam xuất sang Nhật Bản Đơn vị: triệu USD Tên hàng 1996 1997 1998 1999 Dầu thô và chế biến 634 603 305 302 Tôm đông lạnh 190 240 221 230 Dụng cụ gia đình 57 53 68 57 áo khoác dùng cho bé trai 116 98 65 63 Quần áo thể thao 61 62 61 65 Than đá 69 67 62 58 Sơ mi bé trai 59 62 57 54 Quần áo bé trai các loại khác 60 58 45 40 Va li, tủ, cặp, xắc các loại 57 59 44 41 Dép và phụ tùng 48 78 38 37 Nguồn: Hội mậu dịch Việt – Nhật Bảng 8: Các mặt hàng chủ yếu Việt Nam nhập từ Nhật Bản. Đơn vị: Triệu USD Tên hàng 1996 1997 1998 1999 Dầu thô và chế biến 634 603 305 307 Tôm đông lạnh 190 240 221 231 Linh kiện điện tử 19 94 94 95 Sản phẩm sắt thép 25 26 34 36 Ôtô các loại 38 48 32 30 Máy và phụ tùng cho điện thoại và điện tín - 20 28 28 Máy xây dựng, khai thác 20 29 - 21 Hàng tơi lụa - 22 28 27 Dầu nhẹ 25 27 28 30 Xe gắn máy các loại 153 59 27 25 Bán thành phẩm thép và hợp kim thép 18 6 24 25 Hàng dệt bông 20 25 21 21 Sợi tổng hợp 26 25 21 20 Nguồn: Hội mậu dịch Việt – Nhật. Nhìn chung cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của ta trong những năm gần đây cũng đã có sự cải thiện. Cụ thể là các mặt hàng qua chế biến tăng lên, còn các mặt hàng chưa qua chế biến đã giảm dần, năm 1997 còn 53%. ... Hiện nay các hàng xuất khẩu chủ lực của ta sang Nhật Bản là dầu thô, tôm đông lạnh, dụng cụ gia đình, quần áo, giày dép... Tuy nhiên cho tơí nay Việt Nam vẫn chưa có những mặt hàng xuất khẩu chế biến sâu và tinh. Ngược lại chúng ta nhập chủ yếu là các linh kiện điện tử, sản phẩm sắt thép, ôtô các loại và máy móc. Bảng 9: Tỷ trọng nhập khẩu Việt – Nhật trong kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Đơn vị: Triệu USD 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 9/2000 Kim ngạch NK Việt – Nhật 169 214 217 451 639 644 921 1140 1283 1380 1231 1412 Tổng kim ngạch NK của VN 2565,8 2752,4 2338,1 2540,7 3924,0 5825,8 8155,4 11143,6 11742,5 11200 10812 13540 Tỷ trọng % 6,6 7,8 9,3 17,8 16,3 11,1 11,3 10,2 10,9 12,3 11,4 11,9 Nguồn: Số liệu thông kê của Bộ Tài chính Nhật Bản, JETRO. Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản khá nhỏ bé nếu như tỷ trọng của kim ngạch nhập khẩu Việt – Nhật trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam tăng liên tục cho đến năm 1992, tỷ lệ năm 1993 tỷ trọng lại tăng giảm thất thường. Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản chủ yếu là các mặt hàng chế tạo có hàm lượng công nghệ cao. Kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng này đang tăng lên trừ xe máy và hàng dệt từ sợi tổng hợp. Điều này thể hiện qua bảng sau: Bảng 10: Các mặt hàng nhập khẩu chính của Việt Nam từ Nhật Bản. Đơn vị: Triệu USD STT Tên hàng 1996 1997 1998 1999 9/2000 1 Mạch điện tử tích hợp, linh kiện điện tử 19,3 94,6 93,98 94,3 85,6 2 ống thép làm từ chế phẩm thép 25,2 25,9 34,4 35,0 30,2 3 Xe ôtô du lịch và các loại xe khác 38,0 48,2 31,84 30,1 27,1 4 Dầu nhẹ 25,8 27,2 28,29 30,0 29,0 5 Hàng dệt lụa 21,8 25,0 28,37 28,6 27,2 6 Các loại xe gắn máy 2hoặc 3 bánh 153,2 59,5 26,93 25,5 20,0 7 Thiết bị điện thoại, điện tín và các bộ phận của nó 26,8 28,1 28,66 29,2 28,1 8 ống thép kim từ bán thành phẩm 25,6 27,2 24,64 25 24,0 9 Hàng dệt từ sợi tổng hợp 26,2 25,8 20,85 20 17,2 10 Máy công trình, máy ủi, máy xúc 20,2 29,5 33,1 34,2 30,7 Nguồn: Số liệu thống kê của Bộ tài chính Nhật Bản JETRO. Việt Nam vẫn nhập khẩu từ Nhật Bản các mặt hàng chế tạo có hàm lượng công nghệ cao. Hàng tiêu dùng chỉ chiếm khoảng 3,2% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ thị trường này, nhưng cho tới nay Việt Nam vẫn chưa nhập khẩu được những dây chuyền công nghệ từ Nhật Bản. Như vậy có thể nói rằng, ngoài vai trò là thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam, Nhật Bản còn là thị trường tiềm năng rất lớn cho nhập khẩu hàng hoá vào Việt Nam, tuy nhiên hoạt động này vẫn diễn ra một cách cầm chừng và chịu tác động của nhiều chính sách khác nhau. Nhiều hàng tiêu dùng của Nhật Bản rất được ưa chuộng ở Việt Nam nhưng không thể nhập khẩu chúng một cách tràn lan. Trên thực tế loại hàng này mới chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong kim ngạch nhập khẩu Việt – Nhật. Một câu hỏi đặt ra là phải chăng thị trường Nhật Bản không đáp ứng được nhu cầu nhập khẩu của Việt Nam và phải chăng quan hệ thương mại song phương giữa hai nước, Việt Nam lại xuất siêu? Số liệu trên cho thấy riêng năm 1986 Việt Nam đã nhập một lượng hàng hoá từ Nhật Bản có gía trị lớn hơn trị giá của lượng hàng hoá xuất sang Nhật Bản đó là 106 triệu USD. Còn các năm sau, kể từ năm 1988 cho tới nay tình hình đã ngược lại, năm 1988 Việt Nam đã xuất siêu sang Nhật Bản 2triệu USD, năm 1989 là 178 triệu USD thì đến năm 1997 đã lên tới 915 triệu USD và đến tháng 9 năm 2000 đạt con số 340 triệu USD. Rõ ràng đây là một điều không bình thường vì trong quan hệ buôn bán với các nước khác, Nhật Bản ít khi chịu ở tình trạng “Nhập siêu” từ các nước đó, mà chủ yếu ở tình trạng xuất siêu. Chẳng hạn, năm 1991 Nhật Bản đã xuất siêu sang Mỹ 41 tỷ USD. Năm 1993 thặng dư thương mại của Nhật Bản với Thái Lan là 7663,6 triệu USD, với Singapore là 13137 triệu USD. Các nước Châu á khác cũng nhập siêu từ Nhật Bản như Hàn Quốc, Inđônêxia, Malaysia.... Những năm vừa qua mặc dù kinh tế Nhật Bản tiếp tục khủng hoảng trì trệ và riêng trong lĩnh vực thương mại đều có giảm sút nhiều so với trước đây nhưng năm 1995 Nhật Bản vẫn đứng đầu danh sách “Các nước xuất siêu lớn nhất thế giới” với tổng thặng dư thương mại 107 tỷ USD trong đó riêng thặng dư của Nhật Bản với Châu á đã lên tới 70,7 tỷ USD. Vấn đề trên có thể lý giải một phần là ở chỗ tầm quan trọng của thị trường Việt Nam trong những năm qua chưa phải là đáng kể, người Nhật Bản cũng chưa cần quan tâm đến việc duy trì sự cân bằng với cán cân thương mại với Việt Nam. Vì tỷ trọng của phần hàng hoá này quá nhỏ bé chỉ chiếm 0,29% trị giá ngoại thương của Nhật Bản. Trong khi đó Nhật Bản vẫn tranh thủ một số mặt hàng của Việt Nam có lợi cho họ. Rõ ràng là trong kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản từ Việt Nam trong các năm từ 1989 đến tháng 9/2000 có một bộ phận lớn là dầu thô, chiếm tỷ trọng từ 25 – 35% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Theo Bộ Thương mại, hàng Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản toàn đơn giản, diện hàng hẹp, trong đó có trên 50% nguyên liệu thô và sản phẩm mới qua sơ chế. Mặt hàng dầu thô có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất khoảng trên 322 triệu USD (tính đến đầu tháng 9/2000). Tiếp đó là dệt may 301,7 triệu USD, hải sản 271,8 triệu USD, giày dép các loại 47,4 triệu USD. Hơn nữa, một vấn đề mới nảy sinh trong vài năm gần đây đã kìm hãm hoạt động xuất khẩu của Nhật Bản sang Việt Nam đó là vấn đề nợ thương mại của Việt Nam đối với chính phủ Nhật Bản quá lớn mà chính phủ Việt Nam vẫn chưa có chính sách và biện pháp tích cực để giải quyết triệt để vấn đề này. Do vậy, hiện nay các công ty Nhật Bản đã giảm hẳn hoạt động xuất khẩu hàng trả chậm sang Việt Nam. Một hiện tượng nữa là trong các số liệu xuất nhập khẩu chính thức giữa Việt Nam và Nhật Bản nêu trên còn thiếu một số bộ phận hàng hoá đáng kể do xí nghiệp của Nhật Bản chế tạo ở trong nước Nhật hoặc ở ngoài nước Nhật để nhập khẩu vào Việt Nam. Đó có thể là lượng hàng hoá nằm trong kênh buôn bán chính thức giữa Việt Nam và các nước khác. Trong trường hợp này họ đã tái xuất khẩu hàng của Nhật Bản sang Việt Nam, đặc biệt còn một lượng hàng hoá không nằm trong kênh buôn bán chính thức, tức là qua đường buôn lậu. Trên thực tế không xác định được lượng hàng hoá này là bao nhiêu nhưng có thể đánh giá là không nhỏ. Nhìn vào bức tranh buôn bán giữa Việt Nam và Nhật Bản trong những năm vừa qua ta thấy Việt Nam là thị trường tiềm năng tiêu thụ các mặt hàng công nghiệp của Nhật Bản mà đặc biệt là các sản phẩm của các ngành công nghiệp nặng nhưng cho đến nay Việt Nam vẫn chưa nhập khẩu được những dây chuyền công nghệ hiện đại của Nhật Bản mặc dù Việt Nam đã rất cần loại hàng hoá này. Trước đây, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang Nhật Bản nguyên liệu thô nhưng đến nay đã tăng khối lượng hàng chế tạo chứ không đơn điệu như trước đây, mặc dù sản phẩm xuất khẩu mới chỉ qua sơ chế chứ chưa có sản phẩm chế biến sâu và tinh. Giai đoạn này cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu Việt – Nhật đã có sự thay đổi nhưng vẫn phản ánh đúng thực trạng của một nền kinh tế Việt Nam đang trong thời kỳ phát triển. Tóm lại, quan hệ thương mại Việt – Nhật giai đoạn này là bước phát triển nhất của nó từ lúc mới hình thành cho đến nay. Kết quả đạt được tuy chưa phải là lớn và còn cách xa với tiềm năng của hai nước nhưng dù sao cũng đã khích lệ đối với việc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay – giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế. Nó cũng thể hiện được sự cố gắng và tinh thần hợp tác giữa hai nước trong lúc gặp vô vàn khó khăn trở ngại. Mối quan hệ này là bằng chứng sống của sự gắn bó giữa hai dân tộc về mặt lợi ích. Lợi ích của thương mại hai nước chính là nguyên nhân dẫn tới sự ra đời và phát triển của mối quan hệ này. Quan hệ thương mại Việt – Nhật phát triển mạnh trong thập kỷ 90 và có rất nhiều ưu việt, mặc dù vẫn còn tồn tại nhất định nhưng cũng không ngăn cản được sự phát triển và mở rộng quan hệ này trong tương lai. II- Đánh giá thực trạng quan hệ thương mại Việt – Nhật qua các giai đoạn. Sau một thời gian dài trải qua bao thăng trầm, đến nay quan hệ thương mại Việt – Nhật đã được mở rộng và trên đà phát triển. Nhìn vào bức tranh buôn bán giữa Việt Nam và Nhật Bản trong những năm vừa qua, ta thấy nổi lên một số điểm chính sau: 1. Những ưu điểm của quan hệ thương mại Việt – Nhật. Quy mô buôn bán không ngừng gia tăng: Chỉ tính riêng 8 năm (1989 – 1997), kim ngạch xuất nhập khẩu Việt – Nhật đã đạt 15299,3 triệu USD, trong đó xuất khẩu là 10187,1 triệu USD, nhập khẩu là 5096,2 triệu USD. Tốc độ tăng trưởng thương mại bình quân hàng năm giữa Việt Nam và Nhật Bản là 30%, trong đó tăng trưởng xuất khẩu là 33,2% và nhập khẩu là 38,9%, đều tăng nhanh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34985.doc
Tài liệu liên quan