Đề án Một vài đề xuất giảm thiểu rủi ro trên thị trường chứng khoán Việt Nam

MỤC LỤC

 

Chương I : Rủi ro trên thị trường chứng khoán Việt Nam.Những vấn đề lý luận chung.

I./ thị trường chứng khoán

II/Rủi ro trên thị trường chứng khoán.

Chương II : Rủi ro trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Chương III: Một vài đề xuất giảm thiểu rủi ro trên thị trường chứng khoán Việt nam.

 

 

doc54 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1867 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một vài đề xuất giảm thiểu rủi ro trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n với rủi ro của chứng khoán đó , nghĩa là nhà đầu tư kỳ vọng vào chứng khoán có rủi ro cao thì sẽ có lợi nhuận cao và ngược lại. Nói 1 cách khác nhà đầu tư chỉ giữ những chứng khoán có rủi ro cao khi lợi nhuận kỳ vọng của nó đủ lớn để bù đắp rủi ro .Như ta đã biết hệ số beta là hệ số đo lường rủi ro của một chứng khoán .Như vậy lợi nhuận kỳ vọng của một chứng khoán có quan hệ đồng biến với hệ số của nó. Bây giờ ta giả sử rằng thị trường tài chính hiệu quả và nhà đầu tư đa dạng hóa danh mục đầu tư sao cho rủi ro phi hệ thống được loại bỏ. Khi đó, chỉ còn rủi ro hệ thống ảnh hưởng đến lợi nhuận của cổ phiếu . Cổ phiếu có beta càng cao thì độ rủi ro càng cao vì vậy cần một lợi nhuận kỳ vọng đủ lớn để bù đắp. Như đã nói ở trên , theo mô hình CAPM mối quan hệ giữa lợi nhuận và rủi ro được diễn tả bới công thức : Rj = Rf +( Rm – Rf ) βj Phương trình trên biểu diễn nội dung mô hình CAPM , có dạng hàm số bậc nhất y = ax + b với biến phụ thuộc ở đây là Rj, biến độc lập là βj và hệ số góc là ( Rm – Rf ). Xét về mặt hình học , mối quan hệ giữa lợi nhuận kỳ vọng cổ phiếu và hệ số rủi ro beta được biểu diễn bằng đường thẳng : đường thị trường chứng khoán SML ( security market line ) ĐƯỜNG SML Từ công thức và đồ thị ở trên ta có thể thấy : Beta = 0 : Lợi nhuận kỳ vọng của chứng khoán có beta = 0 chính là lợi nhuận không rủi ro và bằng Rf , Tại đây tỷ suất lợi nhuận của nó bằng lãi suất trái phiếu chính phủ . Beta =1 : Lợi nhuận kỳ vọng của chứng khoán khi đó bằng lợi nhuận của thị trường Quan hệ tuyến tính giũa lợi nhuận kỳ vọng và beta được biễu diễn bằng đường SML với hệ số góc là Rm – Rf. Mô hình CAPM vẫn đúng với trường hợp danh mục đầu tư nhiều cổ phiếu . Để có thể hiểu rõ vấn đề này ta giả sử có 2 loại cổ phiếu là A và Z có hệ số beta lần lượt là 1,5 và 0,7. Lãi suất trái phiếu chính phủ là 13,4. Áp dụng mô hình CAPM chúng ta có lợi nhuận kỳ vọng của các cổ phiếu như sau : Cổ phiếu A : Rj = Rf + (Rm – Rf)βj = 7+(13,4 – 7)1,5=16.6% Cổ phiếu Z :Rj = 11,48% Ta cho rằng nhà đầu tư này kết hợp 2 loại cổ phiếu với tỷ trọng bằng nhau trong danh mục đầu tư .Khi đó lợi nhuận kỳ vọng của danh mục đầu tư là R = 0,5*16,6 + 0,5* 11,48 = 14,04% Nếu áp dụng mô hình CAPM để xác định lợi nhuận kỳ vọng của danh mục đầu tư , chúng ta có hệ số beta của danh mục đầu tư :Β =∑Wjβj trong đó Wj và βj lần lượt là tỷ trọng và beta của cổ phiếu j trong danh mục đầu tư . Như vậy theo ví dụ hệ số beta của danh mục đầu tư sẽ là β =0,5*1,5 + 0,5*0,7 = 1,1 Áp dụng mô hình ta tính được lợi nhuận kỳ vọng của danh mục đầu tư là R = Rf + ( Rm – Rf)β =14,04 Như vậy ta thấy 2 cách tính khác nhau nhưng cung 1 kết quả như nhau chứng tỏ rằng mô hình CAPM vẫn có thể áp dụng cho 1 danh mục đầu tư nhiều cổ phiếu 5. Một số phát hiện bất thường khi sử dụng mô hình CAPM Rát nhiều học giả kinh tế khi áp dụng mô hình CAPM đã phát hiện ra một số điểm bất thường khiến cho mô hình không còn đúng như bình thường.Những điểm bất thường bao gồm: Ảnh hưởn của quy mô công ty : Người ta phát hiện rằng cổ phiếu của công ty có giá trị thị trường nhỏ đem lại lợi nhuận cao hơn cổ phiếu của công ty có giá trị thị trường lớn.Các yếu tố khác như nhau Ảnh hưởng của các tỷ số PR và MB : Người ta cũng thấy rằng cổ phiếu của những công ty có tỷ số PE và tỷ số MB thấp đem lại lợi nhuận cao hơn cổ phiếu của những công ty có tỷ số PE và MB cao Ảnh hương tháng giêng : Những người nào nắm giữ số cổ phiếu trong khoảng thời gian từ tháng 12 đến tháng 1 thường có lợi nhuận cao hơn so với những người khác. Tuy vậy , không phải năm nào cũng xảy ra hiện tượng này CHƯƠNG II : RỦI RO TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM Quá trình hình thành thị trường chứng khoán Việt Nam 1. Sự ra đời của Ủy ban chứng khoán nhà nước : Xây dựng và phát triển TTCK là mục tiêu đã được Đảng và Chính phủ Việt Nam định hướng từ những năm đầu thập kỷ 90 (thế kỷ 20) nhằm xác lập một kênh huy động vốn mới cho đầu tư phát triển. Việc nghiên cứu, xây dựng đề án thành lập TTCK đã được nhiều cơ quan Nhà nước, các Viện nghiên cứu phối hợp đề xuất với Chính phủ. Một trong những bước đi đầu tiên có ý nghĩa khởi đầu cho việc xây dựng TTCK ở Việt Nam là việc thành lập Ban Nghiên cứu xây dựng và phát triển thị trường vốn thuộc Ngân hàng Nhà nước (Quyết định số 207/QĐ-TCCB ngày 6/11/1993 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước) với nhiệm vụ nghiên cứu, xây dựng đề án và chuẩn bị các điều kiện để thành lập TTCK theo bước đi thích hợp. Theo sự uỷ quyền của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã phối hợp với Bộ Tài chính tổ chức nghiên cứu về các lĩnh vực liên quan đến hoạt động của TTCK, đề xuất với Chính phủ về mô hình TTCK Việt Nam, đào tạo kiến thức cơ bản về chứng khoán và TTCK cho một bộ phận nhân lực quản lý và vận hành thị trường trong tương lai; nghiên cứu, khảo sát thực tế một số TTCK trong khu vực và trên thế giới… Tuy nhiên, với tư cách là một tổ chức thuộc NHNN nên phạm vi nghiên cứu, xây dựng đề án và mô hình TTCK khó phát triển trong khi TTCK là một lĩnh vực cần có sự phối hợp, liên kết của nhiều ngành, nhiều tổ chức. Vì vậy, tháng 9/1994, Chính phủ quyết định thành lập Ban soạn thảo Pháp lệnh về chứng khoán và TTCK do một đồng chí Thứ trưởng Bộ Tài chính làm Trưởng Ban, với các thành viên là Phó Thống đốc NHNN, Thứ trưởng Bộ Tư pháp. Trên cơ sở Đề án của Ban soạn thảo kết hợp với đề án của NHNN và ý kiến của các Bộ, ngành liên quan ngày 29/6/1995, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 361/QĐ-TTg thành lập Ban Chuẩn bị tổ chức TTCK giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc xây dựng TTCK ở Việt Nam. Ban Chuẩn bị tổ chức TTCK có nhiệm vụ: - Soạn thảo các văn bản pháp luật về chứng khoán và TTCK; - Soạn thảo Nghị định của Chính phủ về thành lập Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước; - Chuẩn bị cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ  quản lý nhà nước, quản lý thị trường, kinh doanh về chứng khoán; - Hợp tác với các nước và tổ chức quốc tế trong việc tổ chức TTCK ở Việt Nam; Đây là bước đi có ý nghĩa rất quan trọng nhằm thúc đẩy quá trình hình thành TTCK, làm tiền đề cho sự ra đời cơ quan quản lý nhà nước với chức năng hoàn chỉnh và đầy đủ hơn. Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) được thành lập ngày 28/11/1996 theo Nghị định số 75/CP của Chính phủ, là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng tổ chức và quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Việc thành lập cơ quan quản lý thị trường chứng khoán (TTCK) trước khi thị trường ra đời là bước đi phù hợp với chủ trương xây dựng và phát triển TTCK ở Việt Nam, có ý nghĩa quyết định cho sự ra đời của TTCK sau đó hơn 3 năm. Với vị thế là cơ quan quản lý chuyên ngành về chứng khoán và TTCK, UBCKNN có vai trò rất quan trọng trong việc chuẩn bị các điều kiện cho sự ra đời của TTCK, đồng thời tổ chức và quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK với mục tiêu chính là tạo môi trường thuận lợi cho việc huy động vốn cho đầu tư phát triển, đảm bảo cho TTCK hoạt động có tổ chức, an toàn, công khai, công bằng và hiệu quả, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư. Sự ra đời của các trung tâm giao dịch chứng khoán : a. Trung tâm giao dich chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh * Quá trình hình thành và phát triển : Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.Hồ Chí Minh (TTGDCK TP.HCM) được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg  ngày 11/07/1998 và chính thức đi vào hoạt động thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/7/2000 đã đánh dấu một sự kiện quan trọng  trong đời sống kinh tế- xã hội của đất nước. Sự ra đời của TTGDCK TP.HCM có ý nghĩa rất lớn trong việc tạo ra một kênh huy động và luân chuyển vốn mới phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là sản phẩm của nền chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng và nhà nước ta. Là đơn vị sự nghiệp có thu, có tư cách pháp nhân, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng, kinh phí hoạt động do ngân  sách nhà nước cấp, Trung tâm được Chính phủ giao một số chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn quản lý điều hành hệ thống giao dịch chứng khoán tập trung tại Việt Nam. Đó là: tổ chức, quản lý, điều hành việc mua bán chứng khoán; quản lý điều hành hệ thống giao dịch; thực hiện hoạt động quản lý niêm yết, công bố thông tin, giám sát giao dịch, hoạt động đăng ký, lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán và một số hoạt động khác. Để thực hiện tốt các chức năng, Trung tâm có cơ cấu tổ chức khá chặt chẽ, bao gồm: một Giám đốc và hai Phó giám đốc, trong đó có một Phó giám đốc thường trực và 9 phòng, ban (Phòng Quản lý niêm yết, Phòng Quản lý thành viên, Phòng Giám sát giao dịch, Phòng Đăng ký - Lưu ký - Thanh toán bù trừ, Phòng Công nghệ thông tin, Phòng Thông tin Thị trường, Phòng Hành chính Tổng hợp, Phòng Kế toán và Ban quản lý Dự án).             Có thể nói, tại thời điểm ra đời, TTGDCK TP.HCM gặp rất nhiều khó khăn như: hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung chưa được hoàn thiện, các văn bản điều chỉnh hoạt động trên thị trường chứng khoán còn nhiều bất cập, chồng chéo, chưa thống nhất...., đội ngũ cán bộ quản lý điều hành chưa có kinh nghiệm thực tiễn, sự hiểu biết của công chúng về đầu tư chứng khoán và TTCK còn nhiều hạn chế. Thêm vào đó, TTGDCK khai trương và chính thức đi vào hoạt động trong bối cảnh đất nước chưa thoát khỏi ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực, mức đầu tư cho nền kinh tế giảm sút, nhu cầu huy động vốn của các doanh nghiệp chưa cao, thu nhập bình quân đầu người còn quá thấp...Tuy vậy, sự quan tâm rất lớn của Chính phủ, các Bộ ngành, đặc biệt là sự chỉ đạo kịp thời, hiệu quả của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN), qua hơn 4 năm hoạt động TTGDCK TP.HCM đã phát triển về nhiều mặt, thực hiện tốt vai trò tổ chức và vận hành các hoạt động giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung thông suốt, an toàn và hiệu quả. Cụ thể các mặt đạt được như sau:              Hoạt động quản lý, điều hành thị trường: Tính đến thời điểm ngày 31/08/2004, TTGDCK TP.HCM đã tổ chức thành công 864 phiên giao dịch.Các hoạt động giao dịch được diễn ra liên tục, thông suốt. Bên cạnh đó, Trung tâm luôn nghiên cứu các giải pháp, kiến nghị Chính phủ và UBCKNN ban hành những chính sách, quy định kịp thời để điều tiết thị trường cho phù hợp với xu hướng phát triển và tạo ra một môi trường đầu tư thông thoáng, công bằng, đúng pháp luật đồng thời bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà đầu tư. Đó là việc điều chỉnh biên độ dao động giá để phù hợp với từng giai đoạn phát triển của thị trường; tăng phiên giao dịch từ 3 phiên/tuần lên 5 phiên/tuần; áp dụng các biện pháp kỹ thuật mới như: Tăng từ một đợt khớp lệnh lên 2 đợt trong một phiên giao dịch, áp dụng lệnh giao dịch tại mức giá khớp lệnh (lệnh ATO), chia nhỏ lô giao dịch cổ phiếu từ 100CP xuống còn 10 CP, giảm tỷ lệ ký quỹ tiền mua chứng khoán từ 100% xuống 70%; tăng tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài từ 20% lên 30% trên tổng khối lượng cổ phiếu niêm yết của một tổ chức phát hành, không giới hạn đối với trái phiếu; thay đổi phương thức giao dịch trái phiếu, theo đó trái phiếu chỉ được giao dịch theo phương thức thoả thuận, không quy định khối lượng giao dịch, biên độ dao động giá, đơn vị giao dịch và đơn vị yết giá và nhiều chính sách giải pháp khác. Bên cạnh  đó, hoạt động giám sát giao dịch của Trung tâm cũng được tiến hành thường xuyên nhằm phát hiện và đề xuất Thanh tra UBCKNN xử lý kịp thời các hành vi vi phạm.             Hoạt động quản lý niêm yết: Khi mới đi vào hoạt động, tại TTGDCK TP.HCM chỉ có 2 loại cổ phiếu (REE và SAM) và một số ít trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao dịch. Số lượng chứng khoán niêm yết đã tăng dần qua các năm. Tính đến ngày 28/07/2004, toàn bộ thị trường đã có 128 loại chứng khoán được niêm yết với tổng giá trị niêm yết là 19.025.029 triệu đồng. Trong đó có 24 cổ phiếu với tổng giá trị niêm yết đạt 1.241.991 triệu đồng và 101 trái phiếu Chính phủ, 2 trái phiếu doanh nghiệp và một trái phiếu chính quyền địa phương tương đương với giá trị niêm yết là 17.783.038 triệu đồng (chiếm 93,47% trên tổng giá trị niêm yết toàn thị trường). Dự kiến thời gian tới, số cổ phiếu niêm yết tại Trung tâm được tăng lên rất nhiều do Chính phủ đã có chủ trương đưa cổ phiếu của một số tổng công ty lớn, các ngân hàng thương mại quốc doanh cổ phần hoá vào niêm yết trên thị trường. Nhìn chung, phần lớn các công ty có cổ phiếu niêm yết trên thị trường đều hoạt động kinh doanh có lãi. Mức thu nhập bình quân trên cổ phiếu (EPS) trong năm 2003 khoảng 3.610 đồng/cp; mức cổ tức trung bình chia cho cổ đông là 1.580đồng/cp. Đa số các công ty niêm yết đều thực hiện tốt các nghĩa vụ công bố thông tin đúng theo quy định, chỉ có một số ít chưa thật sự ý thức được ý nghĩa và tầm quan trọng cũng như lợi ích mang lại từ việc công bố thông tin nên đã có một vài trường hợp châm trễ, vi phạm công bố thông tin và được xử lý kịp thời.   Hoạt động quản lý thành viên:  Qua 4 năm hoạt động, số Công ty chứng khoán thành viên TTGDCK TP.HCM không ngừng tăng về số lượng, quy mô và chất lượng dịch vụ. Từ lúc chỉ có 6 Công ty chứng khoán thành viên vào thời điểm đầu, đến nay toàn thị trường đã có 12 công ty chứng khoán đăng ký làm thành viên TTGDCK TP.HCM với tổng số vốn đăng ký là 584,75 tỷ đồng. Các Thành viên của TTGDCK TP.HCM hầu hết được cấp giấy phép hoạt động kinh doanh với 05 nghiệp vụ gồm: Môi giới, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư. Số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư mở tại các công ty chứng khoán thành viên tăng liên tục qua từng năm và cho đến ngày 28/7/2004 có khoảng hơn 19 ngàn tài khoản được mở, trong đó có 153 tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài. Hoạt động quản lý giao dịch: Trước hết, phải nói rằng hoạt động quản lý giao dịch là một trong những nghiệp vụ quan trọng của TTGDCK TP.HCM. Xác định được tầm quan trọng đó, thời gian qua Trung tâm luôn nghiên cứu và kiến nghị các giải pháp kỹ thuật cũng như các quy chế, quy trình nhằm từng bước hoàn thiện và tạo điều kiện thuạn lợi để các nhà đầu tư tham gia mua bán chứng khoán trên thị trường. Từ thời điểm ban đầu Trung tâm chỉ thực hiện một đợt khớp lệnh trong một phiên giao dịch và mỗi tuần chỉ tổ chức 3 phiên giao dịch (Hai, Tư, Sáu) thì nay Trung tâm đã tăng lên 2 đợt khớp lệnh trong một phiên và mỗi tuần thực hiện 5 phiên giao dịch. Bên cạnh đó, nếu như trước đây, trái phiếu được tổ chức giao dịch thông qua 2 phương thức là khớp lệnh và thoả thuận, có quy định biên độ giao động, đơn vị yết giá thì nay, căn cứ vào tình hình thị trường và kinh nghiệm quốc tế, trái phiếu được giao dịch chỉ  qua phương thức thoả thuận, không quy định biên độ và đơn vị yết giá.              Hoạt động công bố thông tin thị trường: Hoạt động công bố thông tin thị trưòng chiếm vị trí khá quan trọng trong việc xây dựng một thị trường chứng khoán hoạt động công khai, minh bạch nhằm tạo ra một môi trường đầu tư công bằng, cung cấp kịp thời các thông tin, dữ liệu cần thiết cho các nhà đầu tư. Nhận thức được điều đó, một mặt TTGDCK TP.HCM tăng cường, kiểm tra giám sát việc thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin của công ty niêm yết, mặt khác nâng cao chất lượng, nội dung và đa dạng hoá các phương tiện công bố thông tin theo phương châm: Đầy đủ, kịp thời, chính xác và dễ tiếp cận. Hiện nay các thông tin về hoạt động chứng khoán và hoạt động của các tổ chức niêm yết được công bố thông tin  đúng theo quy định và qua nhiều phương tiện như: trang Web, bản tin Thị trường Chứng khoán, màn hình điện tử đặt tại TTGDCK TP.HCM và các công ty Chứng khoán thành  viên, thông qua mạng Internet gửi đến các địa chỉ E-mail đăng ký, Fax và các ấn phẩm thường niên của Trung tâm. Hoạt động đăng ký, lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán: Qua hơn 4 năm hoạt động, hoạt động đăng ký, lưu ký và thanh toán bù trừ của TTGDCK TP.HCM không ngừng được cải thiện, nâng cao và luôn đảm bảo quy trình thanh toán các giao dịch được diễn ra thông suốt an toàn. Đồng thời, TTGDCH TP.HCM đã triển khai thực hiện các nghiệp vụ cho các loại trái phiếu chính phủ đang lưu ký của các tổ chức tín dụng, Ngân hàng thương mại... như quản lý các giao dịch trái phiếu cầm cố, chiết khấu, các trái phiếu được đưa vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tham gia thị trường  mở và các hoạt động khác của Ngân hàng Nhà nước. Các giao dịch trái phiếu Chính phủ qua hệ thống lưu ký của Trung tâm đã mang lại những thuận lợi nhất định như thực hiện được nhanh chóng, hiệu quả, tiết kiệm chi phí do sự cách trở về địa lý và giảm được chi phí rút, in ấn chứng chỉ chứng khoán, vận chuyển cũng như đảm bảo an toàn cho quá trình thực hiện. Nhằm thực hiện tốt Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt nam từ nay đến năm 2010 đã được Chính phủ thông qua, trong thời gian tới, TTGDCK TP.HCM sẽ tập trung thực hiện một số nội dung quan trong sau đây:  - Triển khai thực hiện Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán đã được hoạch định, đặc biệt là nâng TTGDCK TP.HCM lên Sở giao dịch; - Nghiên cứu phát triển mạnh thị trường trái phiếu, đặc biệt là trái phiếu chính phủ; - Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện và nâng cấp hệ thống giao dịch, giám sát, công bố thông tin, đăng ký - lưu ký - thanh toán bù trừ ở mức độ tự động hoá. Kết nối mạng hệ thống diện rộng giữa TTGDCK TP.HCM với các Công ty Chứng khoán; - Không ngừng nâng cao năng lực vận hành, quản lý và giám sát thị trường; - Nghiên cứu phát triển các định chế tài chính trung gian cho thị trường, các nhà đầu tư có tổ chức, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài. b. Trung tâm giao dịch thành phố Hà nội Sự ra đời của TTGDCK Hà Nội: Ngày 11 tháng 07 năm 1998, Chính phủ ra Quyết định số 127/1998/QÐ-TTg thành lập hai Trung tâm giao dịch chứng khoán trực thuộc Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Theo đó, Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, là đơn vị sự nghiệp có thu, có tư cách pháp nhân, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng, kinh phí hoạt động do ngân sách Nhà nước cấp. Biên chế của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội thuộc biên chế của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước. TTGDCK Hà Nội có các nhiệm vụ chủ yếu sau: 1. Tổ chức, quản lý, điều hành việc mua bán chứng khoán; 2. Quản lý, điều hành hệ thống giao dịch chứng khoán; 3. Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ việc mua bán chứng khoán, dịch vụ lưu ký chứng khoán; 4. Thực hiện đăng ký chứng khoán. Quá trình xây dựng mô hình hoạt động của TTGDCK Hà Nội: Việc xây dựng mô hình hoạt động cụ thể cho Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội có ý nghĩa rất quan trọng, vừa phải đáp ứng những nhu cầu cấp thiết của nền kinh kế, vừa phải phù hợp với quy mô và lộ trình phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. Ngày 05/8/2003 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đến 2010. Theo đó, xây dựng thị trường giao dịch cổ phiếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội, chuẩn bị điều kiện để sau 2010 chuyển thành Thị trường giao dịch chứng khoán phi tập trung (OTC). Tháng 6/2004, Bộ tài chính ra Thông báo số 136/TB/BTC nêu kết luận của Lãnh đạo Bộ về mô hình tổ chức và xây dựng thị trường giao dịch chứng khoán Việt Nam. Trong đó, định hướng xây dựng Trung tâm GDCK Hà Nội thành một thị trường giao dịch phi tập trung (OTC) đơn giản, gọn nhẹ, theo đó, Trung tâm GDCK Hà Nội sẽ phát triển theo hai giai đoạn: Giai đoạn đầu, từ 2005 đến 2007 - thực hiện đấu giá cổ phiếu doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá và đấu thầu trái phiếu chính phủ đồng thời tổ chức giao dịch chứng khoán chưa niêm yết theo cơ chế đăng ký giao dịch. Giai đoạn sau 2007 - Phát triển TTGDCKHN thành thị trường phi tập trung phù hợp với quy mô phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam. Mô hình hoạt động của TTGDCK Hà Nội đã từng bước được cụ thể hoá. Gần đây, Bộ Tài chính đã ra Quyết định số 244/2004/QÐ-BTC ban hành Quy chế tạm thời tổ chức giao dịch chứng khoán tại TTGDCK Hà Nội. Như vậy, có thể nói cơ sở pháp lý ban đầu cho hoạt động của TTGDCK Hà Nội đã được thiết lập. Theo đó, có thể khái quát các nội dung hoạt động chính trong giai đoạn đầu của TTGDCK Hà Nội như sau: 1. Tổ chức đấu giá cổ phần cho các doanh nghiệp : TTGDCKHN cung cấp các phương tiện để thực hiện đấu giá cổ phần, đặc biệt là cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá, theo tinh thần Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần vừa được Chính phủ ban hành và thông tư số 126/2004/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định 187/2004/NÐ-CP. Trong đó quy định các doanh nghiệp khi cổ phần hoá phải bán đấu giá công khai ra bên ngoài tối thiểu 20% vốn điều lệ. Trường hợp doanh nghiệp cổ phần hóa có khối lượng cổ phần bán ra trên 10 tỷ đồng phải tổ chức đấu giá cổ phần tại TTGDCK để thu hút người đầu tư, các trường hợp khác cũng được khuyến khích đấu giá qua TTGDCK. 2. Tổ chức đấu thầu trái phiếu : TTGDCKHN tổ chức đấu thầu trái phiếu, bao gồm các loại trái phiếu chính phủ, trái phiếu được chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu công trình … 3. Tổ chức giao dịch chứng khoán theo cơ chế đăng ký giao dịch: Hàng hoá giao dịch trên TTGDCK Hà Nội: - Các loại chứng khoán của các công ty cổ phần có vốn điều lệ từ 5 tỷ đồng trở lên, chưa thực hiện niêm yết tại TTGDCKTP. HCM, hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký giao dịch phải có lãi, số cổ đông tối thiểu là 50 người (kể cả trong và ngoài doanh nghiệp). - Các loại trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương Phương thức giao dịch áp dụng tại TTGDCKHN: + Phương thức giao dịch thoả thuận. + Phương thức giao dịch báo giá trung tâm. Ngày 8.3.2005 TTGDCK Hà Nội chính thức khai trương hoạt động, đánh dấu một bước phát triển mới của thị trường chứng khoán Việt Nam.  II. Rủi ro trên thị trường chứng khoán Việt Nam 1. Những rủi ro trên thị trường chứng khoán Việt Nam a. Thông tin không đối xứng : * Định nghĩa : Trong thị trường tài chính luông vốn luôn di chuyển từ những người có nguồn vốn nhàn rỗi đên những nhà đầu tư cần vốn để phát triển từ đó thúc đẩy nền kinh tế . Tuy nhiên sẽ không đơn giản để các giao dịch tài chính đạt đến mục tiêu hiệu quả .Nguyên nhân bởi thông tin là rào cản cho sự hoàn thiện. Từ phía người cho vay , với tư cách là người sử hữu vốn yếu tố rủi ro là sự tác động lớn đến khả năng cho vay, tính an toàn cho đồng vốn của họ là yếu tố đặt lên hàng đầu .Họ yêu cầu người vay vốn phải đưa ra được những tư liệu chứng minh được sự an toàn của đồng vốn và đảm bảo được thời hạn thanh toán mặt khác người sở hữu vốn cũng yêu cầu thu được lãi suất kỳ vọng và lãi suất này phải cao hơn lãi suất phi rủi ro Từ phía người đi vay họ cần vốn để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình như vậy yêu cầu đặt ra đối với họ là huy động được một nguồn vốn đáp ứng đủ quy mô , có lãi suất và thời gian hợp lý.Do đó người đi vay muốn huy động được nguồn vốn cần đáp ứng đủ các yêu cầu của người cho vay. Do vậy 1 giao dịch được thực hiện phụ thuộc vào người đi vay . Tuy nhiên trong hoạt động tài chính luôn có một mâu thuẫn cơ bản và cố hữu giữa người cho vay và người đi vay một vấn đề tạo nên các cơ sở sự tồn tại của các điều kiện cho vay trong các tổ chức tài chính , đó là sự không cân xứng về thông tin giữa người cho vay và người đi vay. Đối với người đi vay thông tin của họ về người cho vay là tương đối đồng nhất và đôi khi không thật sự không quan trọng.Điều mà họ quan tâm là các điều kiện cho vay, lãi suất và thời hạn thanh toán chỉ cần vay được là hoàn toàn hoàn thành mục tiêu của mình trong giao dich tài chính. Nhưng mọi chuyện lại hoàn toàn khác đối với người cho vay .Họ có quyền lựa chọn người được vay và ngay lúc nay họ có quyền quyết định , quyền sử dụng vốn tức là có quyền sở hữu . Nhưng ngay khi một giao dịch tài chính được thực hiện ,quyền sử dụng vốn được chuyển sang cho người đi vay Nếu không có vật thế chấp hoặc bảo lãnh của một tổ chức tài chính người cho vay chỉ có sự thừa nhận về mặt pháp lý. Như vậy đồng nghĩa với việc rủi ro trong quá trình thu hồi vốn và độ rủi ro này phụ thuộc hoàn toàn vào người vay vốn. Do vậy những gì người cho vay phải làm để hạn chế rủi ro là phải thu thập và phân tích các thông tin liên quan đến người vay vốn .Cần biết người đi vay sử dụng đồng vốn như thế nào , mức độ rủi ro cao hay thấp và năng lực tài chính… tuy nhiên những thông tin như thế đến với người cho vay thường không đầy đủ hoặc thiếu chính xác dẫn đến những quyết định sai hoặc dẫn đến ‘lựa chọn đối nghịch’. Tóm lại trong các giao dịch tài chính thường có sự chênh lệch về thông tin giữa các bên tham gia , đây được gọi là hiện tượng thông tin không cân xứng. Theo nhà kinh tế học Markusk K , đại học boston : “Thông tin không cân xứng là hiện tượng người đi vay có thông tin tốt hơn người cho vay”. Theo hai nhà kinh tế học Udo Schmidt Mỏh và J. Miguel Villas-boas (University of califonia at Berkeley) : “Thông tin không cân xứng là tình trạng trong đó người mua và người bán có thông tin khác nhau trong cung 1 giao dịch”. Có rất nhiều định nghĩa về thông tin không đối xứng theo cách khác nhau nhưng tất cả đều có những đặc điểm chung cơ bản : Thứ nhất có sự khác biệt về thông tin giữa các bên tham gia giao dịch. hứ hai có nhiều sự trở ngại trong việc chuyển thông tin giữa hai bên . Thứ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docRủi ro trên thị trường chứng khoán Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan