Đề án Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-Xã hội

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 2

CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC 3

1.1.Nguồn nhân lực. 3

1.1.1.Khái niệm. 3

1.1.2.Vai trò nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế-xã hội. 4

1.1.3.Phân loại nguồn nhân lực. 5

1.2.Chất lượng nguồn nhân lực. 6

1.2.1.Khái niệm. 6

1.2.2.Vai trò. 7

1.2.3.Chỉ tiêu đánh giá chất lượng nguồn nhân lực. 7

1.2.4.Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực. 9

CHƯƠNG II:THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC HIỆN NAY. 12

2.1.Thực trạng nguồn nhân lực. 12

2.1.1.Số lượng(quy mô) nguồn nhân lực. 12

2.1.2.Cơ cấu nguồn nhân lực. 15

2.1.3.Chất lượng nguồn nhân lực. 16

2.1.4. Đánh giá chung chất lượng nguồn nhân lực nước ta hiện nay. 21

2.2.Thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực. 22

2.2.1.Tuyển dụng 22

2.2.2.Đào tạo 23

2.2.3.Đãi ngộ 24

2.2.4.Đánh giá 24

CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC 26

3.1.Phương hướng và những quan điểm chỉ đạo. 26

3.2.Các nhóm giải pháp cơ bản. 28

3.2.1.Đào tạo. 28

3.2.2.Đãi ngộ. 32

KẾT LUẬN 37

TÀI LIỆU THAM KHẢO 38

 

 

doc38 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8306 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-Xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chỉ tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà Đại hội Đảng lần thứ IX đề ra(nông -lâm-ngư nghiệp:20-21%;công nghiệp và xây dựng:38-39%;các ngành dịch vụ:41-42%)thì tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động còn quá chậm,dẫn đến khoảng cách khá xa giữa cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế.Nhưng điều đáng lưu ý hơn là cơ cấu lao động đã được đào tạo giữa các ngành,các khu vực sản xuất,các vùng,các dạng lao động và giữa các trình độ rất bất hợp lý.Nông thôn chiếm gần 75% dân số và lao động nhưng chỉ chiếm 47,38 lực lượng lao động được đào tạo cả nước, đặc biệt trong gần 60% lao động làm việc ở lĩnh vực nông,lâm,ngư nghiệp,số được đào tạo mới chỉ chiếm 7%.Đây thực sự là trở ngại lớn nhất khi tiến hành công nghiệp hóa,hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. -Cơ cấu trình độ lực lượng động, đến cuối năm 2003 tỷ lệ lao động qua đào tào dậy nghề trong lực lượng lao động là 17,5%.Cụ thể có khoảng 4,9 triệu lao động có trình độ sơ cấp hoặc có chính chỉ dạy nghề,1,47 triệu lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp,khoảng 1,3 triệu lao động có trình độ cao đẳng, đại học,hơn 10 ngàn thạc sỹ.Riêng tiến sỹ,phó giáo sư và giáo sư đến tháng 5-2002 có khoảng 13.500 người.Nghĩa là,tỷ lệ đại học-trung học chuyên nghiệp-công nhân kỹ thuật là 1-1,75-2,3.Tỷ lệ này nói lên sự mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu trình độ lao động.Chúng ta thiếu cả cán bộ trên đại học, đại học,trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật lành nghề,nhưng thiếu hụt nghiêm trọng hơn cả là chuyên gia đầu nghành và công nhân lành nghề-kỹ thuật viên.Chẳng hạn,trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, đặc biệt ở các trường đại học và viện nghiên cứu có nhu cầu lớn về lực lượng cán bộ có trình độ trên đại học nhưng tỷ lệ số người có trình độ trên đai học trên tổng số cán bộ giảng dạy hiện mới đạt 12,7%(cần đạt 30%).Hay trong khu vực kinh tế tậo thể và tư nhân hiện sử dụng 85%lao động xã hội,nhưng số cán bộ có trình độ trung học chuyên nghiêpk chỉ chiếm 9%...Vì thế tăng nhanh quy mô đào tạo,nhất là đào tạo dạy nghề,phải là giải pháp hàng đầu,cấp bách để tạo ra nguồn lao động có số lượng và chất lượng phục vụ đất nước. -Cơ cấu độ tuổi của lực lượng lao động,nói chung lực lượng lao động nước ta được xếp vào loại trẻ,54% số người trong độ tuổi lao động là thanh niên(16-35 tuổi),hàng năm có thêm 1,2 triệu người bước vào độ tuổi lao động.Lực lượng lao động trẻ có thuận lợi về sức khỏe,tính năng động sáng tạo,có trình độ văn hóa khá,khả năng tiếp thu khoa hoc-công nghệ tiên tiến nhanh.Tuy nhiên, đội ngũ lao động trình độ cao lại đang bị già hóa rất nhanh và đang có sự hẫng hụt lớn giữa các thế hệ.Số công nhân kỹ thuật bậc cao đa phần xấp xĩ tuổi 50;trong số trên 10.000 cán bộ khoa học bậc cao thì tuổi bình quân của tiến sĩ là 52,8;giáo sư ở độ tuổi 51-70 chiếm 90%,dưới 50 tuổi chỉ có 4%,phó giáo sư độ tuổi 52-70 chiếm 82%,dưới 50 chỉ có 18%. 2.1.3.Chất lượng nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực giữ vai trò quyết định sức mạnh của nguồn nhân lực,bao gồm các yếu tố như:sức khỏe,mức sống,trình độ giáo dục đào tạo về văn hóa và chuyên môn nghề nghiệp,trình độ học vấn,năng lực sáng tạo,khả năng thích ứng,kỹ năng lao động,văn hóa lao động, đạo đức,tâm lý,tư tưởng,tình cảm,tính cách,lối sống...song khái quát lại,gồm:thể lực,trí lực và những phẩm chất đạo đức tinh thần của con người. a)Về thể lực. Từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX,tầm vóc và thể lực của con người Việt Nam đang được cải thiện về chiều cao và cân nặng,tỷ lệ suy dinh dưỡng và tuổi thọ.Chiều cao trung bình của thanh niên Việt Nam đã tăng từ 1,56m năm 1994 lên 1,58m năm 2000.Tuổi thọ trung bình tăng từ 65 tuổi năm 1989 lên 68,5 tuổi năm 2000.Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 44,9% năm 1995 xuống còn 33,1% năm 2000 và 30,1% năm 2002,nhưng tỷ lệ như thế này là vẫn còn rất cao.Thể lực của người Việt Nam vẫn còn kém hơn nhiều so với một số nước trong khu vực và so với yêu cầu nguồn lực con người cần có ở nước ta.Hiện tai nước ta nằm trong số các nước có mức sống thấp nhất thế giới(GDP tính theo đầu người là 410USD năm2001).Theo số liệu thống kê năm 2002 của Chương trình phát triển Liên hiệp quốc(UNDP),thu nhập quốc dân bình quân đầu người của nước ta đứng thứ 165/208 nước và vùng lãnh thổ.Theo phân loại của Ngân hàng thế giới,các nước có thu nhập thấp là dưới 745USD/người năm 2001.Trên thế giới,dân số của các nước thu nhập thấp như vậy có tổng 2,5 ty người,bình quân thu nhập đầu người năm 2001 của những nước này là 430 USD.Vậy là chỉ số này của Việt Nam còn thấp hơn mức trung bình của các nước có thu nhập thấp và thấp hưn 12 lần thu nhập bình quân đầu người của thế giới(5150). Đến cuối năm 2003,Việt Nam vẫn còn 29% dân số sống dưới mức thu nhập 1USD/ngày và 50% dân số sống dưới thu nhập 2USD/ngày,12% hộ nghèo và chỉ có 55% dân số nông thôn có nước sạch. Mức thu nhập thấp như vậy mà tốc độ tăng dân số vẫn còn cao,trình độ hiểu biết về dinh dưỡng và sức khỏe của nhân dân lại thấp,nên đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng sống,trong đó có vấn đề giáo dục,chăm sóc và bảo vệ sức khỏe. Điều kiện lao động trong nhiều cơ sở các ngành sản xuất cũng như ở các cơ quan hành chính sự nghiệp của nước ta còn kém,thậm chí có nơi còn rất khắc nghiệt,môi trường lao động bị ô nhiễm nghiêm trọng,các yếu tố nguy hiểm và độc hại vượt quá ngưỡng giới hạn cho phép nhiều lần, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp có chiều hướng tăng nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân và hợp tác xã..Tất cả những điều này cho thấy chất lượng dân số nói chung và người lao động nói riêng về mặt thể lực sức khỏe cũng như điều kiện lao động,không bảo đảm,cần phải được cải thiệ căn bản.Nói cách khác,thu nhập thấp, đời sống khó khăn,dinh dưỡng thiếu,thể lực hạn chế, đó là trạng thái chung của nguồn nhân lực nước ta hiện nay về phương diện mức sống và sức khỏe. b)Về trí lực. Chất lượng nguồn nhân lực được phản ánh chủ yếu qua sức mạnh trí tuệ, đây là yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lượng của nguồn lao động, đặc biệt trong điều kiện trí tuệ hóa lao động hiện nay.Trình độ trí tuệ biểu hiện ở năng lực sáng tạo,khả năng thích nghi và kỹ năng lao động nghề nghiệp của người lao động thông qua các chỉ số:trình độ văn hóa dân trí,học vấn trung bình của một người dân;số lao động đã qua đào tạo,trình độ và chất lượng đào tạo;mức độ lành nghề(kỹ năng,kỹ xảo..)của lao động; trình độ tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh;năng suất,chất lượng;hiệu quả của lao động.. Theo số liệu của UNDP,chỉ số phát triển con người HDI của Việt Nam có xu hướng gia tăng từ xếp thứ 116/174 nước(1993) lên xếp thứ 109/177 nước(2000),nhưng năm 2003 lại tụt xuống thứ 112/177 nước.Nước ta là một trong mười nước có chỉ số xếp hạng HDI cao hơn xếp hạng GDP/người trên 20 bậc, điều này chứng tỏ nước ta đã cố gắng;gắn tăng trưởng kinh tế với xã hội,quan tâm đến yếu tố sức khỏe,y tế,giáo dục..Mặt khác,cho đến nay đại bộ phận lao động nước ta chưa qua đào tạo đầy đủ, đến cuối năm 2003 số người được đào tạo mới chỉ chiếm 17,5% tổng số lao động cả nước và hiện vẫn còn có3,74% lao động không biết chữ.Trong cơ cấu lao động ở các cơ sở sản xuất của nước ta, đội ngũ công nhân và lao động giản đơn chiếm 82%,đội ngũ các nhà kỹ thuật,quản lý,phát minh và đổi mới công nghệ chỉ chiếm 18%,trong khi tỷ lệ tương ứng ở các nước phát triển là 28% và 72%. Như vậy chưa nói đến chất lượng đào tạo và sự phù hợp giữa kiến thức đào tạo trước đây với việc làm hiện nay ra sao,mà chỉ riêng chỉ số trên đã cho thấy tỷ lệ lao động được đào tạo ở nước ta là quá thấp,vì thế chất lượng lao động nói chung rất hạn chế. Đáng chú ý là số lao động được đào tạo đã thấp mà hiện tại vẫn còn 2,2% trong tổng số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật chưa có việc làm.Thêm vào đó,chỉ khoảng 70% số người có trình độ đại học,cao đẳng và trung học chuyên nghiệp làm việc đúng ngành nghề đào tạo.Chẳng hạn,trong số học sinh tốt nghiệp các nghành nông,lâm,ngư nghiệp ở các trường trung học chuyên nghiệp chỉ trên 40% làm việc đúng ngành nghề,còn trong số sinh viên tốt nghiệp đại học ở các khoa này thì chỉ khoảng 20% đúng ngành đào tạo.Trong số lao động chuyển ngành nghề so với ngành nghề được đào tạo,chỉ có 42,5% được đào tạo lại,số còn lại 57,5% làm trái nghề,coi như chưa đào tạo.Ở khu vực hành chính sự nghiệp và bộ máy sản xuất kinh doanh khu vực nhà nước hiện có khoảng 30% cán bộ,nhân viên không đủ trình độ chuyên môn hay làm không đúng nghề,họ làm việc chủ yếu bằng kinh nghiệm...Tình hình này làm cho chất lượng lao động càng hạn chế. Hiện tại có 10% công chức chưa tốt nghiệp phổ thông;60,51% công chức tốt nghiệp đại hoc,cao đẳng;4,41% công chức có trình độ trên đại học;4,28% có trình độ lý luận chính trị cao cấp;28,26% có trình độ lý luận chính trị trung cấp;37,07% có trình độ tiếng Anh(A,B,C);14,47% đã qua đào tạo hành chính nhà nước;4,34% đã qua đào tạo quản lý kinh tế;227,19% được đào tạo về tin học. Đội ngũ trí thức lực lượng nòng cốt chưa nhiều nhưng những năm gần đây phát triển khá nhanh.Lao động có trình độ cao đẳng trở lên tăng từ 800.000 năm 1995 lên 1,3 triệu người năm 2000;số tiến sĩ chuyên ngành và tiến sĩ khoa học tăng từ 9.300 năm 1995 lên 13.500 người năm 2000.Còn theo thống kê của Hội đồng chức danh nhà nước năm 2002 thì đến cuối năm 2002,cả nước có hơn 1000 giáo sư và khoảng 4000 phó giáo sư.trong đó có một số chuyên gia đầu ngành về khoa học,kỹ thuật và công nghệ đạt trình độ quốc tế.Còn theo thống kê của Bộ nội vụ thì tính đến tháng 11-2004,cả nước đã có khoảng 5479 giáo sư,phó giáo sư được công nhận,trong đó số lượng giáo sư,phó giáo sư đang làm việc là 3075,chiếm 56,1%.Tuy nhiên so với một số nước trong khu vực và so với yêu cầu cấp bách của phát triển kinh tế trong điều kiện hiện nay thì con số đó còn quá nhỏ nhoi. Một số chỉ tiêu về giáo dục các nước ASEAN Chỉ tiêu Thời gian Vietnam Brunay Indonexia Malayxia Philipin Thailan Singapo Đaihọc và sau trung học 5,1 - - 5 - - 22 Trung học 8,8 - - 48 - - 30 Tiểu học và thấp hơn 85,1 - - 47 - - 47 Tỷ lệ người biết chữ từ 15 tuổi trở lên (%) 1992 89 - 84 80 90 94 - Số năm đi học tính cho người từ 25 tuổi trở lên (năm) 1992 4,9 5,0 4,1 5,6 7,6 3,9 4,0 Số cán bộ khoa học kỹ thuật trên 1000người 1986-1991 - 21,7 12,1 - - 1,2 22,9 Tỷ lệ chi cho giáo dục trong GNP (%) 1991 1,6 - 2,5 6,9 2,9 3,8 3,4 GNP bình quân đầu người cho giáo dục 1991 4 - 21,9 510,6 21,46 62,7 480,8 Tình hình trên cho thấy bên cạnh các chỉ tiêu đáng mừng như tỷ lệ người biết chữ từ 15 tuổi trở lên đạt được 89% năm 1992,tăng 6% so với năm 1989,thực trạng trình độ nguồn nhân lực Việt Nam còn nhiều vấn đề còn lo ngại;số người mù chữ từ 15 tuổi trở lên còn 4,7 triệu năm 1992;trong toàn bộ dân số ở độ tuổi lao động,chỉ có 5,1% là có trình độ đại học và sau trung học,8,8% có trình độ trung học;trong tổng số lực lượng lao động,số lao động kỹ thuật chỉ chiếm có 12%;năm 1995,trong số 40,2 triệu người chỉ có 4,7 triệu người là lao động có kỹ thuật.Một mặt,Việt Nam có cố gắng nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo,chất lượng nguồn nhân lực như:số học sinh cao đẳng và đại học tăng từ 129.600 người năm 1990 lên 279.900 người năm1995.tức là tăng gần 2,3 lần trong 5 năm;tốt nghiệp đại học từ 20.500 năm 1990 tăng lên 58.500 năm 1995;số học sinh trung học chuyên nghiệp từ 135.400 năm 1990 lên 197.500 năm 1995,số tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp từ 39.900 năm 1990 lên 56.300 năm 1995.Chưa kể đến tỷ lệ chi cho giáo dục đào tạo trong GDP đã tăng nhanh từ 1,6% năm 1991 lên 2,75% năm 1993,Gần 6% năm 1994.Nhưng để đạt được mức độ chung như nước khác ngay trong khối ASEAN,rõ ràng chúng ta còn phải đầu tư nhiều thời gian,công sức và tiền của cho công tác giáo dục đào tạo để biến những tiềm năng nguồn nhân lực Việt Nam thành hiện thực. c)Phẩm chất đạo đức tinh thần của người Việt Nam. Xem xét chất lượng nguồn nhân lực không thể không nói đến đạo đức,tư tưởng,văn hóa,tâm lý,tính cách...của con người. Đây là phẩm chất đạo đức-tinh thần có vai trò hết sức quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nguồn nhân lực,thúc đẩy tính tích cực và làm gia tăng hiệu quả hoạt động của con người.Những phẩm chất đạo đức-tinh thần trên không chỉ do tồn tại xã hội đương thời chi phối mà còn chịu ảnh hưởng dai dẳng của xã hội trước,nhất là khi đã trở thành truyền thống.Con người là sản phẩm của lịch sử,nên dù có ý thức hay không đều mang trong mình một di sản truyền thống nhất định.Mà truyền thống thì bao gồm cả yếu tố giá trị,tích cực lẫn những yếu tố phản giá trị,tiêu cực.Vì vậy,trong tư tưởng, đạo đức,văn hóa tâm lý,tính cách của con người Việt Nam hôm nay,bên cạnh những giá trị truyền thống tốt đẹp,có cả những di sản không tốt từ truyền thống cần được khắc phục trong quá trình phát triển.Nổi cộm là những tư tưởng và tâm lý tiểu nông, đó là:coi trong địa vị,ngôi thứ,chủ nghĩa hình thức,gia trưởng;nặng về tình nghĩa hơn lý lẽ;thiên về tình cảm,kinh nghiệm,thiếu lý trí,thực nghiệm khoa học; dễ thỏa hiệp,bảo thủ,dung hòa;hay nể nang,tùy tiện,sống theo lệ hơn là theo luật;lối sống mang nặng tâm lý cộng đồng làng xã,lấy các quan hệ họ hàng,làng xóm làm chuẩn mực cư xử...Tất cả những điều đó đã làm cho con người trở nên thiển cận, đố kỵ,bản vị,cục bộ,bè phái.Trong truyền thống,người Việt Nam thường không đề cao trí tuệ(mặc dù trọng sự học)mà ca tụng sự khôn khéo:" ăn cỗ đi trước,lội nước theo sau",thủ thế,giữ mình..Những đặc điểm trên đây chẳng những hoàn toàn xa lạ,không thích hợp với con người lao động công nghiệp,mà còn tạo ra"sức ì"ghê gớm,là lực cản quá trình phát triển kinh tế.Vì vậy,việc cải tạo,khắc phục và xóa bỏ những di sản tiêu cực của truyền thống thực sự là một cuộc đấu tranh rất khó khăn,phức tạp và lâu dài như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:"Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to,nó ngấm ngầm cản trở cách mạng tiến bộ.Chúng ta lại không thể trấn áp nó,mà phải cải tạo nó một cách rất cẩn thận,rất khó chịu,rất lâu dài". 2.1.4. Đánh giá chung chất lượng nguồn nhân lực nước ta hiện nay. Dân số nước ta đông,tốc độ tăng dân số khá lớn,tạo ra lực lượng lao động dồi dào và trẻ,nhu cầu về việc làm ngày càng tăng,giá lao động lại rẻ, đây đang là lợi thế so sánh quan trọng của nguồn nhân lực của nước ta.Mặt khác,con người Việt Nam có truyền thống yêu nước,cần cù,chịu khó,có tư chất thông minh và sáng tạo,có khả năng thích ứng nhanh với hoàn cảnh. Không chỉ trong quá khứ mà cả ngày nay,không chỉ tầng lớp trên xã hội mà cả người dân bình thường cũng có truyền thống hiếu học,trọng học dù điều kiện khó khăn cũng đều cố gắng cho con cái của mình được học hành, đỗ đạt cao để trở thành trí thức,có địa vị xã hội.Mặt khác,do ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa,Nhất là của Nho giáo ở nước ta vẫn tồn tại khá phổ biến là tâm lý trọng chức tước,thích làm quan và coi quan tước là một bậc thang đánh giá sự tiến bộ của một cá nhân. Điều đó thúc đẩy nâng cao dân trí,nâng cao trình độ học vấn của dân tộc,phản ánh trách nhiệm cao của cha mẹ với con cái,với thế hệ trẻ. Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp truyền thống mang nặng tính tự cung tự cấp,thêm vào đó cơ chế tập trung bao cấp quan niệm hiện vật tồn tai trong một khoảng thời gian khá dài ở Việt Nam một tập tính không quen hạch toán kinh tế,ngại trao đổi,buôn bán.Từ khi thực hiện nền kinh tế hàng hóa thị trường,tập tính không phù hợp này phần nào được dỡ bỏ và cải biến,người Việt Nam đã bắt đầu làm quen với nền kinh tế thị trường,song nói chung sự yếu kém về năng lực hạch toán,quản lý kinh tế vẫn còn là hạn chế lớn của người Việt Nam hiện nay. Qua một số đánh giá trên cho thấy dân số nước ta tuy đông nhưng chất lượng sống thấp,lực lượng lao động dồi dào nhưng chất lượng hạn chế,nhất là về trình độ chuyên môn nghiệp vụ,kỹ năng lao động,thể lực và văn hóa lao động công nghiệp, đặc biệt là tư tưởng và tâm lý của người sản xuất nhỏ vẩn còn tồn tại phổ biến của người lao động.Thêm vào đó,việc khai thác và sử dụng số lao động đã qua đào tạo ,có trình độn lại bât hợp lý và kém hiệu quả; đồng thời có sự mất cân đối lớn về cơ cấu trình độ đào tạo và phân bổ lao động giữa các ngành. Dự báo nguồn nhân lực đến năm 2020 Chỉ tiêu 2000 2005 2010 2020 Dân số (người) 82.000.000 89.000.000 95.037.000 106.530.000 Nguồn lao động xã hội (người) 44.000.000 47.161.800 51.750.000 70.000.000 Lao động đang làm việc 37.000.000 39.151.100 41.303.800 47.000.000 Lao động qua đào tạo kỹ thuật nghiệp vụ(người) 9.600.000 22% 14.148.540 30% 20.700.000 40% 42.000.000 60% Cơ cấu lao động Đại học/Cao đẳng-Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề 1-2-5,0 1-2-6,5 1-2,5-9 1-3-12 Đai học và cao đẳng 1.200.000 1.489.320 1.656.000 2.625.000 Trung học chuyên ngiệp 2.400.000 2.978.580 4.140.000 7.875.000 Công nhân kỹ thuật 6.000.000 9.680.580 14.904.000 31.500.000 Công nhân kỹ thuật (có bằng) 1.800.000 30% 3.380.203 35% 4.961.600 40% 15.750.000 50% Vấn đề đặt ra là trong quá trình phát triển đất nước,phát triển nguồn nhân lực phải bám sát những yêu cầu phát triển đất nước. Điều này đòi hỏi cần phải cải thiện môi trường kinh tế xã hội,nâng cao chất lượng sống của con người,tiến hành hàng loạt giải pháp thích ứng, đồng bộ,hướng vào việc khai thác,sử dụng và phát triển có hiệu quả nguồn nhân lực. 2.2.Thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực. 2.2.1.Tuyển dụng Hiện nay,nước ta vẫn chưa thật có các giải pháp tuyển dụng nhân viên hợp lý và đặc biệt nhất là khu vực nhà nước.Còn phổ biến hiện tượng sinh viên,học sinh được đào tạo ra làm việc trái nghề của mình cho thấy được rằng việc tuyển mộ chưa hợp lý,tạo ra việc lãng phí tiền của cũng như không đáp ứng được yêu cầu công việc một cách tốt nhất.Ở nước ta chỉ khoảng 70% số người có trình độ đại học,cao đẳng và trung học chuyên nghiệp làm việc đúng ngành nghề đào tạo.Chẳng hạn,trong số học sinh tốt nghiệp các nghành nông,lâm,ngư nghiệp ở các trường trung học chuyên nghiệp chỉ trên 40% làm việc đúng ngành nghề,còn trong số sinh viên tốt nghiệp đại học ở các khoa này thì chỉ khoảng 20% đúng ngành đào tạo.Trong số lao động chuyển ngành nghề so với ngành nghề được đào tạo,chỉ có 42,5% được đào tạo lại,số còn lại 57,5% làm trái nghề,coi như chưa đào tạo.Ở khu vực hành chính sự nghiệp và bộ máy sản xuất kinh doanh khu vực nhà nước hiện có khoảng 30% cán bộ,nhân viên không đủ trình độ chuyên môn hay làm không đúng nghề,họ làm việc chủ yếu bằng kinh nghiệm...Tình hình này làm cho chất lượng lao động càng hạn chế.Do đó cần đưa ra được các giải pháp nhằm giảm thiểu tình trạng này,sắp xếp đúng người đúng việc thỏa mãn nhu cầu con người cho xã hội. 2.2.2.Đào tạo Theo số liệu điều tra xã hội học của Tổng liên đoàn lao động,trong tổng số 5.303 công nhân thì có tới 4,13% công nhân ở trình độ tiểu học(cấp I cũ),34,54% công nhân ở trình độ trung học cơ sở( cấp II cũ),43,37% công nhân ở trình độ trung học phổ thông(cấp III cũ),13,29% công nhân có trình độ trung cấp,và số có trình độ đại học và trên đại học chiếm một tỷ lệ thấp là 4,34% và 0,08%. Qua số liệu nghiên cứu trên có thể đưa ra một số nhận xét chung: Trình độ học vấn của công nhân còn thấp,hiện vẫn còn khoảng 20% chưa phổ cập cấp II và 53% chưa phổ cập cấp III,đây là một yêu cầu cấp bách đặt ra cho xã hội,đặc biệt là các nhà hoạt động chính sách. Công nhân không biết ngoại ngữ chiếm tỷ lệ rất cao,khoảng từ 86%(Tiếng Anh) đến 98% các thứ tiếng khác. Số công nhân có bậc thợ cao từ bậc 5 trở lên còn ít hơn nhiều so với số công nhân bậc thợ thấp(từ bậc 1 đến bậc3);tỷ lệ này là 25.10% so với 31,25%.Đáng chú ý là tỷ lệ công nhân không nghề,lao động phổ thông còn lớn:24,63%.Ở độ tuổi từ 35 trở xuống,số thợ bậc cao càng ít,chỉ chiếm khoảng 12% Đối với các ngành nghề khác nhau,các lĩnh vực có vị trí địa lý và cơ cấu kinh tế-xã hội khác nhau có cơ cấu công nhân có trình độ văn hóa,nghề nghiệp cũng khác nhau.Song dù ở đâu thì trình độ văn hóa và nghề nghiệp của họ cũng còn thấp chưa đáp ứng được so với yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước. Qua đấy thấy được rằng việc đào tạo đội ngũ công nhân chưa sâu,công tác giáo dục chưa thành nếp sống chung của toàn xã hội.Chỉ khi xã hội hóa được giáo dục thì mới có thể nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhanh và mạnh mẽ phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội. 2.2.3.Đãi ngộ Hiện nay các chính sách của Nhà nước nhằm thu hút nguồn nhân lực đưa lao động đã qua đào tạo về phục vụ các khu vực nông thôn,miền núi đã có nhiều hiệu quả việc mở rộng cửa ,trải thảm đỏ cho sinh viên ra trường có điều kiện công tác ngay ở khu vực nông thôn đã khuyến khích khá lớn lượng sinh viên mới ra trường tham gia.Với các chính sách hữu hiệu để thu hút lao động đã qua đào tạo đến làm việc ở các vùng nông thôn miền núi.Trong những năm qua nhà nước ta đã có những chính sách nhằm khuyến khích sinh viên mới ra trường đến công tác và lập nghiệp ở các vùng nông thôn:như được hưởng 100% lương trong thời gian tập sự,tăng các loại phụ cấp để thu nhập của họ gấp hai lần lương cơ bản,tăng thời gian nghỉ phép lên gấp đôi và một số cơ chế ưu đãi khác. Nhà nước còn đưa ra các chính sách thu hút nguôn lao động trí thức nước ngoài ,Việt kiều về tham gia kinh doanh tại Việt Nam với các ưu đãi,các cơ chế thông thoáng tạo điều kiện làm ăn kinh doanh và đóng góp chất xám cho xã hội,Hiện nay theo ước tính có khoảng 400.000 người Việt Nam có trình độ đại học trở lên sinh sống ở nước ngoài(chiếm 15% trên tổng số trên 2,5 triệu Việt kiều)trong số đó nhiều người là giáo sư,tiến sĩ,chuyên gia giỏi,giữ những vị trí quan trọng trong khoa học và công nghệ các nước.Do đó cần có chính sách đãi ngộ hợp lý đáp ứng được các yêu cầu thuận tiện cho công dân Việt Nam ở nước ngoài có thể về nước làm ăn,sinh sống đây cũng là nguồn lực quan trọng cho phát triển đất nước. 2.2.4.Đánh giá Tốc độ tăng nguồn lao động còn ở mức cao, đến năm 2000 bình quân mỗi năm tăng nguồn lao động khoảng 2,95%. Thời kỳ 2001 đến 2010, số lao động cần giải quyết việc làm mới vào khoảng 11-12 triệu người, hầu hết là lao động trẻ, trong khi nguồn lực đầu tư cả trong nước và quốc tế cho phát triển sản xuất tất hạn chế. Theo tính toán, sau năm 2000 trên tổng thể nước ta vẫn dư thừa lao động. Mặt khác, tỷ lệ thất nghiệp thành thị hiện nay còn rất lớn và đang có xu hướng tăng lên. năm 1999 tỷ lệ đó là 6,85%, tăng thêm 0,84% so với năm 1997; đặc biệt là Hà Nội, tỷ lệ đó là 9,09% so tổng lực lượng lao động. Trong nông thôn, tình trạng thiếu việc làm rất nghiêm trọng và cũng đong có xu hướng tăng lên. tỷ lệ sử dụng thời gian lao động trong nộng thôn của lưc lượng lao động trong độ tuổi, năm 1998 là 71,13%, so với 1997 giảm 2,01% (1997 là 731,14%). Trong khi đó lại thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật cao. Nhiều lĩnh vực như: lắp ráp ô tô, đóng tàu, dầu khí.v.v phải thuê lao động nước ngoài. đó là một mâu thuẫn gay gắt hiện nay. Với chủ trương tiếp tục công cuộc đổi mới, tập trung phát triển các ngành, các lĩnh vực, các sản phẩm có lợi thế. Nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, nước ta phải đối mặt với một thách tức lớn về chất lượng nguồn nhân lực. Tỷ lệ lao động qua đào tạo rất thấp (nảm 1998 tỷ lệ này là 17n,8%). Chưa có chính sách phân luồng trong giáo dục và đào tạo, cơ cấu đào tạo bất hợp lý, tỷ lệ giữa đại học, cao đẳng, trung học và công nhân kỹ là 1-1,6-3, 6. Trong khi các nước khác là 1-4-10; giáo dục, đào tạo nặng về bằng cấp, thi cử, xu hướng thương mại hoá trong đào tạo khá phổ biến; đào tạo không gắn với sản xuất và thị trường sức lao động (không gắn với sử dụng); lao động trong nông nghiệp nông thôn hầu như không được đào tạo. Có thể nói, điểm yếu cơ bản nhất của giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực của nước ta thời gian qua là chưa tạo ra được một đội ngũ lao động có năng lực và có tính năng động xã hội cao, đáp ứng yêu cầu của sản xuất, của thị trường sức lao động. Nguồn nhân lực Việt Nam hơn bao giờ hết cần được đào tạo để phát triển nội lực với giá trị mới và vượt qua được những thách thức mới của thị trường lao động trong nền kinh tế tri thưc tương lai. CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC 3.1.Phương hướng và những quan điểm chỉ đạo. -Phương hướng chung. Biến đổi cơ cấu nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội.Về cơ cấu lao động,cần khắc phục tình trạng bất hợp lý trong cơ cấu lao động giữa các ngành,các khu vực sản xuất trong thời gian qua,từng bước chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng lao đồn cho sản xuất công nghiệp,giảm lao động nông nghiệp, Đại hội Đảng lần thứ IX nêu lên mục tiêu:tăng lao động cho công nghiệp,xây dựng và dịch vụ lên 50% vào năm 2010,giảm lao động nông,lâm,ngư nghiệp cả về số tuyệt đối và tỷ trọng từ 61,3%(năm 2000) xuống còn 50%(năm 2010).Bên cạnh đó cần nhanh chóng khắc phục tình trạng thừa thầy thiếu thợ như hiện nay theo hướng gắn việc hình thành các khu công nghiệp,các khu công nghệ cao với các trường dạy nghề.Phát triển nhanh và phân bổ hợp lý các trường dạy nghề trên cả nước,mở rộng các loại hình đào tạo nghề đa dạng,linh hoạt năng động.Phấn đấu đạt số học sinh công nhân kĩ thuật tăng 11-12%/năm trong giai đoạn 2000-2005. Nâng cao toàn diện chất lượng nguồn nhân lực. Về tầm vóc,thể lực:Phấn đấu đến năm 2010,giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng xuống còn khoảng 20% và tăng tuổi thọ trung bình lên

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc75378.DOC
Tài liệu liên quan