Đề án Nâng cao năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu Việt Nam

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU 1

PHẦN I: LÝ LUẬN XUẤT KHẨU VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH HÀNG XUẤT KHẨU 3

I. Các lý thuyết thương mại quốc tế 3

1. Các học thuyết thương mại quốc tế 3

2. Việt Nam trong phân công lao động quốc tế 3

II. Tầm quan trọng của việc thúc đẩy xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân 4

1. Khái niệm về xuất khẩu (Export) 4

2. Vị trí của xuất khẩu 5

3. Vai trò của xuất khẩu 5

4. Nhiệm vụ của xuất khẩu 7

III. Những cơ sở đảm bảo cho việc xuất khẩu 8

IV. Phân tích những tác động thuận lợi, khó khăn và cơ hội, thách thức đối với xuất khẩu Việt Nam 9

1. Thuận lợi và khó khăn 9

1.1 Tác động thuận lợi 9

1.2 Tác động không thuận lợi 10

2. Những cơ hội và thách thức 11

2.1 Thời cơ 11

2.2 Thách thức 12

V. Năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu và những nhân tố ảnh hưởng 12

1. Năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu 12

2. Những nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu 14

PHẦN II: TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH HÀNG XUẤT KHẨU VIỆT NAM 17

I. Tổng quan tình hình hoạt động xuất khẩu 17

1. Tình hình kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 1990-2002 17

2. Tình hình xuất khẩu trong tương quan tăng trưởng kinh tế của Việt Nam 18

3. Đánh giá tình hình xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 1991-2002 21

3.1 Xuất khẩu 21

3.2 Thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam 22

b. Thị trường khu vực Tây Bắc Âu 23

c. Thị trường các nước Nga, SNG, Đông Âu ÂÂ 23

d. Thị trường khu vực Bắc Mỹ 24

e. Thị trường khu vực Châu Mỹ La tinh 24

f. Thị trường Tây Nam Á - Phi 24

g. Thị trường Châu Phi 24

l. Thị trường Trung cận Đông 25

II. Những thành tựu đạt được và những yếu kém cần khắc phục 30

1. Thành tựu đạt được trong thời gian vừa qua 30

2. Những vẫn đề tồn tại của hoạt động xuất khẩu 31

3. Nguyên nhân của thành công và tồn tại trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá 33

III. Phân tích năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam 33

1. Sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu Việt Nam 33

2. Thực trạng năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam 35

3. Cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam 40

PHẦN III: GIẢI PHÁP NĂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH HÀNG XUẤT KHẨU VIỆT NAM 42

I. Tầm vĩ mô về quản lý nhà nước 42

II. Tầm vi mô về quản trị doanh nghiệp 44

1. Giải pháp ứng dụng thương mại điện tử vào hoạt động xuất khẩu hàng hoá 44

2. Giải pháp xây dựng chiến lược xuất khẩu tại các doanh nghiệp 47

3. Cải tiến công nghệ 49

4. Nâng cao chất lượng sản phẩm 49

KẾT LUẬN 51

 

 

doc55 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2606 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Nâng cao năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sản xuất mới, tạo thêm việc làm cho người lao động và đóng góp trực tiếp vào ngân sách nhà nước và GDP. - Tạo cho Việt Nam có nguồn thu ngoại tệ để trả nợ nước ngoài - Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh đã tạo khả năng thanh toán hàng nhập khẩu thiết bị vật tư, nguyên liệu, hàng tiêu dùng thiết yếu để tạo dựng cơ sở vật chất trong nước, đặc biệt là phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu ra nước ngoài. Thứ hai, cơ cấu hàng xuất khẩu có chuyển dịch tích cực, tỷ trọng hàng chế biến sâu và nhóm hàng công nghiệp tăng lên, số lượng mặt hàng xuất khẩu chủ lực tăng nhanh. Theo báo cáo của Vụ Kế hoạch thống kê, Bộ Thương mại, tháng 3 năm 2001, cơ cấu hàng xuất khẩu chuyển dịch như sau: - Hàng nguyên liệu thô năm 1991 chiếm trên 92% tổng kim ngạch xuất khẩu, đến nay chỉ còn khoảng hơn 60%. Hàng chế biến và chế biến sâu năm 1991 chiếm 8%, đến năm 2000 đã nên tới khoảng 40% so với tổng kim ngạch xuất khẩu. - Cơ cấu nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản năm 1991 chiếm tỷ trọng 53% tổng kim ngạch, đến năm 2000 xuống còn khoảng 28.7%. Nhóm hàng công nghiệp, thủ công nghiệp năm 1991 chiếm 47% thì năm 2000 đã tăng nên 71.3%. - Việt Nam đã hình thành một số mặt hàng chủ lực dành cho xuất khẩu, từ 4 mặt hàng đạt kim ngạch 100 triệu USD là dầu thô, thuỷ sản, gạo, dệt may (năm 1991) thì tới năm 2000, số mặt hàng chủ lực tăng lên 12 trong đó có 7 mặt hàng mới là cà phê, cao su, điều, giày dép, than đá, hàng điện tử, hàng thủ công mỹ nghệ. - Vài năm gần đây, xuất khẩu Việt Nam đã nổi lên một số mặt hàng có mức tăng trưởng cao: giày dép, dệt may, điện tử, nhân điều, chè, gạo…. Một số hàng xuất khẩu chủ lực có khả năng gây tác động nhất định tới thị trường khu vực và thế giới như xuất khẩu gạo đứng thứ 2 sau Thái Lan, nhân hạt điều đứng thứ 2 sau ấn Độ, cà phê đứng thứ 2 sau Braxin. Thứ ba, chất lượng hàng xuất khẩu nâng lên đáng kể. Chất lượng hàng xuất khẩu Việt Nam đối với các mặt hàng chủ lực đã đạt sức cạnh tranh trên thương trường thế giới. Các nhà sản xuất hướng vào xuất khẩu trong nước đã chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, các mặt hàng như xi măng, thép, xe đạp, quạt điện… có chất lượng không kém gì sản phẩm ngoại nhập. Thứ tư, tình hình xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhanh hơn các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước. Thứ năm, cơ cấu thị trường xuất khẩu chuyển dịch theo hướng đa phương hoá thị trường, mở rộng phạm vi quan hệ: thị trường Châu Âu và Mỹ tăng dần, thị trường Châu Á giảm dần. 3.2 Thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam a. Thị trường khu vực Châu Á, Thái Bình Dương Trong giai đoạn 1996-2000, xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này đạt khoảng 32.3 tỷ USD (chiếm khoảng gần 60% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam), trong đó các nước ASEAN đạt 11.7 tỷ USD (chiếm gần 23.3% tổng kim ngạch xuất khẩu). Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 1999 bị ảnh hưởng nhiều do hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế nặng nề của các nước bạn hàng, do kim ngạch xuất khẩu giảm rõ rệt hơn như với Inđônêxia, Thái Lan, Hàn Quốc. Các nước trong khu vực Châu Á nhất là trong khu vực Đông Nam Á, với việc cấu trúc lại nền kinh tế để vượt qua khủng hoảng đang trở thành đối thủ cạnh tranh mạnh hơn trướ c thời kỳ khủng hoảng đối với Việt Nam. Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đang đứng trước sự cạnh tranh gay gắt với các hàng hoá cùng loại trong khu vực, nhất là về chất lượng và giá thành, mặc dù sức mua của các nước trong khu vực đang phục hồi nhanh chóng. Các mặt hàng chính chưa có gì thay đổi so với trước. Tuy nhiên, một số mặt hàng mới được đưa vào xuất khẩu với giá trị lớn như linh kiện điện tử, linh kiện máy tính xuất khẩu cho các nước Đông Nam á, một số nông sản thực phẩm, hàng tiêu dùng xuất khẩu sang thị trường như Trung Quốc, Lào, Campuchia. Kim ngạch xuất khẩu tập trung vào các thị trường chủ yếu theo thứ tự: Nhật, Singapore, Trung Quốc, Autralia, Đài Loan, Philippine, Hàn Quốc, và Thái Lan. Hiện nay, Việt Nam đang đứng trước một sức ép rất lớn, đó là Trung Quốc, một thị trường cạnh tranh mạnh của Việt Nam, đặc biệt là sau khi trung quốc tham gia tổ chức thương mại thế giới (WTO). Các mặt hàng của Trung Quốc có sức cạnh tranh về giá rất mạnh đã chiếm mất rất nhiều lợi thế của Việt Nam trên thương trường, đây thực sự là một nguy cơ mà các doanh nghiệp Việt Nam cần đặc biệt quan tâm. b. Thị trường khu vực Tây Bắc Âu Thị trường EU chiếm tỷ lệ quan trọng trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Hiện nay, quan hệ Việt Nam – EU tiếp tục phát triển thuận lợi, EU đã ghi nhận đề nghị của Việt Nam tăng 50% hạn ngạch kể từ năm 1999, đã ký tắt tiến tới ký chính thức Biên bản ghi nhớ chống gian lận trong buôn bán giầy dép (áp dụng từ 1/1/2000) tránh được việc EU định ngạch nhập khẩu giầy dép của Việt Nam. Các mặt hàng xuất khẩu tiêu biểu của Việt Nam vào EU như: dệt may, giày dép, sành sứ, điện gia dụng…. c. Thị trường các nước Nga, SNG, Đông Âu ÂÂ Các thị trường này trước đây là thị trường truyền thống của Việt Nam. Với Nga, kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này đạt khoảng 596 triệu USD trong giai đoạn 1996-2000. Do tình hình của nước Nga còn nhiều biến động về chính trị, kinh tế, xã hội… nên sự phát triển buôn bán vẫn còn nhiều hạn chế. Hai nước còn sử dụng hình thức đổi hàng để trao đổi buôn bán với lý do thiếu hụt ngoại tệ trong thời gian trước. Các nước thuộc khối SNG cũng đang gặp khó khăn về kinh tế, quá trình chuyển đổi kinh tế vẫn chưa ổn định. Đối với những nước này Việt Nam áp dụng cơ chế hàng đổi hàng nhưng kim ngạch buôn bán hai chiều vẫn thấp. Đông Âu là thị trường quen thuộc với Việt Nam. Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này gồm: gạo, cà phê, quế, gia vị, giày dép, hàng may mặc, cao su, thực phẩm chế biến, đồ gỗ, thủ công mỹ nghệ…. Hàng Việt Nam nhận được nhiều ưu đãi từ các nước này ngay từ sau khi chuyển đổi. d. Thị trường khu vực Bắc Mỹ Việt Nam có buôn bán với Canada và Hoa Kỳ. Kim ngạch xuất khẩu vào Canada tương đối lớn. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu vào Canada gồm: giày dép, sản phẩm dệt may, hải sản chế biến, rau quả chế biến, cao su và sản phẩm từ cao su…. Về chính sách phi thuế, Canada áp dụng quota đối với 70 loại mặt hàng ghi trong biểu thuế (chủ yếu với sản phẩm dệt may). Những hạn chế về số lượng này sẽ dần được xoá bỏ theo bốn giai đoạn, cùng với việc này là quota sẽ tăng dần lên, song họ chỉ áp dụng với các nước có tham gia là thành viên WTO. Với Hoa Kỳ, khi mới bình thường hoá quan hệ thì kim ngạch xuất khẩu vào Hoa Kỳ còn thấp, hàng hoá chưa nhận được nhiều ưu đãi, còn bị đánh thuế cao gây ra giảm tính cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ so với các sản phẩm của các nước khác. Tuy nhiên, sau khi ký Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, quan hệ thương mại hai nước đã được mở ra rộng rãi, hàng hoá của ta xuất khẩu vào Hoa Kỳ nhận được nhiều ưu đãi, kim ngạch xuất khẩu tăng lên mạnh mẽ nâng cao kim ngạch xuất khẩu chung của Việt Nam. e. Thị trường khu vực châu Mỹ La tinh Đây là thị trường tương đối mới so với Việt Nam, những thị trường này rất quan tâm và giành ưu ái với thị trường Châu Á trong đó có Việt Nam. f. Thị trường Tây Nam Á - Phi Đây là khu vực thị trường đang được Việt Nam tập trung quan tâm đáng kể trong những năm tới. g. Thị trường Châu Phi Quan hệ hữu nghị giữa các nước Châu Phi và Việt Nam đang được duy trì và có chiều hướng được cải thiện hơn kể từ sau Hội nghị thượng đỉnh các quốc gia có sử dụng tiếng Pháp tổ chức tại Hà Nội tháng 11/1997. Quan hệ hợp tác trong lĩnh vực y tế, giáo dục, nông nghiệp đã có những bước phát triển đáng khích lệ. Mô hình hợp tác Việt Nam - Tổ chức quốc tế – Châu Phi đang được áp dụng hiệu quả. Các nước Châu Phi đánh giá cao khả năng của Việt Nam trong lĩnh vực này. Trong khi đó, quan hệ kinh tế – thương mại chưa phát triển được mặt dù ta có xuất khẩu nhiều mặt hàng sang đó như: chè, gạo, đồ điện tử, hàng may mặc, giầy dép, hàng gia dụng, máy móc nông nghiệp nhỏ… mà Châu Phi đang cần. l. Thị trường Trung cận Đông Đây là thị trường ta cần phải cạnh tranh. Tiềm năng kinh tế của các nước này dựa chủ yếu vào dầu hoả và có ngành công nghiệp phát triển, nhất là khai thác và chế biến dầu lửa với bạn hàng chủ yếu của họ là Mỹ, và các nước EU, Nhật, Trung Quốc. Hàng của Việt Nam ở đây đã được các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu trực tiếp cho các doanh nghiệp nước sở tại. Công tác thâm nhập thị trường được xúc tiến khá tích cực: tham gia hội trợ quốc tế tổ chức tại Trung Đông, ký kết các đại lý bán hàng. Khu vực này còn có một số nước thực hiện tự do hoá thương mại, như Koweit chẳng hạn có mức thuế nhập khẩu cao nhất là 4%, Dubai tập trung nhiều thương nhân hoạt động môi giới đưa hàng hoá đi khắp Châu Phi, Châu Âu. Số liệu dưới đây sẽ cho thấy rõ hơn về các thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Bảng 2: Cơ cấu số nước có quan hệ buôn bán theo châu lục và thị phần buôn bán hai chiều (2001) Châu Âu Châu á Châu Phi Châu Mỹ Châu Đại Dương Cơ cấu nước có quan hệ buôn bán 20.8% 22.2% 25.9% 21.2% 9.9% Thị phần buôn bán hai chiều 18.2% 68.7% 0.7% 6.2% 4.8% Nguồn: Kỷ yếu xuất nhập khẩu 2002 Đồ thị 3&4: Cơ cấu và thị phần buôn bán theo các châu lục Qua 2 biểu đồ trên cho thấy, ở Châu Phi có nhiều nước quan hệ buôn bán với Việt Nam nhất (25.9%) thế nhưng thị phần buôn bán 2 chiều lại chiếm tỷ lệ nhỏ nhất, chứng tỏ đây là một thị trường có tiềm năng rất lớn nhưng chúng Việt Nam chưa khai thác được hết, trong thời gian tới cần đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại nhằm đạt kim ngạch xuất khẩu cao ở thị trường này; Châu Á-một thị trường truyền thống với tỷ trọng số nước đặt quan hệ buôn bán với Việt Nam đứng thứ 2 nhưng lại là khu vực có thị phần buôn bán lớn nhất (68.7%), thị trường này cần phải được duy trì bởi đây vẫn là thị trường chủ lực trong khi vẫn chưa tìm được thị trường nào mạnh hơn, đồng thời đây cũng là khu vực cạnh tranh khốc liệt của hàng hoá Việt Nam, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á khi Việt nam đã tham gia vào khu vực mậu dịch tự do AFTA; Đối với khu vực Châu Âu và Châu Mỹ có số nước quan hệ buôn bán cũng ngang nhau, đây là những thị trường đã phát triển được một thời gian nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của nó, và đây cũng là những thị trường đòi hỏi rất cao về chất lượng sản phẩm, không những vậy còn rất nhiều các quy định chặt chẽ về luật lệ thương mại, tiêu chuẩn về môi trường và lao động, và cả những hàng rào thuế quan và phi thuế quan rất phổ biến; Châu Đại Dương, một thị trường nhỏ hơn, nhưng không phải là thị trường bị lãng quên, với số nước quan hệ buôn bán ít nhất trong các châu lục nhưng lại có thị phần buôn bán hai bên cao hơn Châu Phi-châu lục có số nước quan hệ buôn bán lớn nhất. Trong xu thế hội nhập hiện nay, các nước đều có xu hướng gia nhập vào các khối kinh tế, để có thể phát triển xuất khẩu đến từng nước thì cần thiết phải tham gia và đặt quan hệ với các khối kinh tế này, sau đây là phân cơ cấu xuất khẩu theo các khối kinh tế. Bảng 3: Cơ cấu xuất khẩu theo các khối kinh tế 1999 2000 2001 Giá trị Tỷ lệ Giá trị Tỷ lệ Giá trị Tỷ lệ ASEAN 2516 21.8% 2619 18.1% 2553 17.0% APEC 7486 64.9% 10097 69.7% 10084 67.1% EU 2515 21.8% 2845 19.6% 3002 20.0% OPEC 713 6.2% 643 4.4% 757 5.0% Nguồn: Kỷ yếu xuất khẩu 2002 Qua biểu đồ nhận thấy, trong khối APEC, với sự tham gia của nhiều quốc gia từ các châu lục khác nhau đã tạo cho APEC sự đa dạng hoá các nền kinh tế tham gia khối kinh tế này, đây là một điều kiện thuận lợi để thúc đẩy quan hệ thương mại giữa các quốc gia nói chung và đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam nói riêng. Mặc dù vậy, Việt Nam lại phải quan tâm nhiều đến các quốc gia thuộc khối ASEAN vì đây là khối sẽ có nhiều quốc gia cạnh tranh với Việt Nam nhất, sự tham gia của Việt Nam vào khối kinh tế này mở ra nhiều điều kiện thuận lợi và cơ hội phát triển xuất khẩu tuy vậy cũng hàm chứa nhiều nguy cơ đang thách thức chúng ta. Trong khi đó, EU luôn là thị trường cần vươn tới đáp ứng các yêu cầu của thị trường này. OPEC với điển hình của nền kinh tế có xuất khẩu dầu mỏ, hợp tác với các nước trong khối sẽ có nhiều cơ hội học hỏi để phát triển ngành dầu khí của Việt Nam. Đồ thị 5&6: Cơ cấu và giá trị xuất khẩu của Việt Nam theo khối kinh tế Bảng 4: 10 nước nhập khẩu hàng lớn nhất từ Việt Nam Năm Nhật Trung Quốc Mỹ Singapore Ôxtrâylia Đài Loan Đức Anh Pháp Hàn Quốc 1999 1786 746 504 876 815 682 654 421 355 320 2000 2576 1536 733 886 1272 757 730 479 380 353 2001 2510 1417 1065 1044 1042 806 722 512 467 406 Nguồn: Kỷ yếu xuất nhập khẩu 2002 Xét theo từng quốc gia cho thấy, Nhật Bản-một nước có lượng vốn đầu tư nói chung và vốn ODA nói riêng lớn nhất vào Việt Nam cũng đang là quốc gia dẫn đầu về giá trị hàng nhập khẩu từ Việt Nam (đạt 1786 triệu USD năm 1999, tăng nên 2576 triệu USD, năm 2001 có giảm xuống còn 2510 triệu USD do nền kinh tế của Nhật vào thời kỳ suy thoái). Đứng sau Nhật là quốc gia đông dân nhất thế giới-Trung Quốc, đây quả là một thị trường rộng lớn và đầy hấp dẫn, với chất lượng sản phẩm không quá khắt khe và phù hợp với giá cả của Việt Nam đông thời có cùng tương đồng yếu tố văn hoá, đây là những điều kiện hết sức thuận lợi cho Việt Nam xuất khẩu vào thị trường này. Quan hệ thương mại Việt-Mỹ vừa được mở rộng thì đã biểu hiện đầy những trở ngại, tuy vậy kết quả xuất khẩu năm 2001 đã cho thấy kết quả đáng mừng với giá trị xuất khẩu là 1065 triệu USD. Tiếp theo là các thị trường Singapore, Ôxtrâylia, ĐàI Loan, Đức, Anh, Pháp, Hàn Quốc. Đồ thị 7: 10 nước nhập khẩu hàng lớn nhất từ Việt Nam 3.3 Cơ cấu giá trị xuất khẩu theo kế hoạch nhà nước: Bảng 5: Giá trị và cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam theo kế hoạch nhà nước Nhóm hàng 1999 2000 2001 trị giá Tỷ trọng % trị giá Tỷ trọng % trị giá Tỷ trọng % Hàng CN nặng và khoáng sản 3069 31.3 5382 37.2 5247 34.9 Hàng công nghiệp nhẹ và TTCN 4243 36.7 4903 33.9 5368 35.7 Hàng nông sản và NSCB 2545 22.1 2563 17.7 2421 16.1 Hàng lâm sản 169 1.5 155 1.1 176 1.2 Hàng thuỷ sản 973 8.4 1478 10.2 1816 12.1 Nguồn: Đồ thị 8: Giá trị xuất khẩu theo kế hoạch nhà nước Giá trị xuất khẩu hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp đạt giá trị cao nhất (5368 triệu USD, 35.7% vào năm 2001), tiếp đến là hàng công nghiệp nặng và khoáng sản chiếm 34.9%, đạt 5247 triệu USD năm 2001, đứng thứ 3 là hàng nông sản và nông sản chế biến, hàng thuỷ sản đứng thứ 4, và cuối cùng là hàng lâm sản. Đồ thị 9: Cơ cấu giá trị xuất khẩu theo kế hoạch nhà nước Bảng 6: Tỷ trọng mặt hàng xuất khẩu chủ yếu (%) Năm Than đá Hạt điều Cao su Cà phê Linh kiện đtử Hàng thuỷ sản Gạo Giầy dép Dầu thô Hàng dệt may Hàng khác 2001 0.8 1.0 1.1 2.6 4.7 12.1 4.2 10.6 13.1 20.8 29.1 2002 1.0 1.3 1.7 2.0 3.0 12.5 4.5 11.5 17.0 20.2 15.5 Nguồn: Đồ thị 10: Tỷ trọng hàng xuất khẩu chủ yếu năm 2002 Tính về mặt hàng, với thế mạnh của mình, ngành dệt may đã thể hiện sự vượt trội trong đóng góp vào hoạt động xuất khẩu (20.2%). Khai thác dầu thô đã nhường vị trí dẫn đầu cho dệt may từ mấy năm trước, ngành này đã từng chiếm tỷ trọng cao nhất về giá trị hàng xuất khẩu của Việt Nam trong nhiều năm, hiện nay dầu thô chiếm khoảng 17% giá trị hàng xuất khẩu. Sản phẩm giầy dép của chúng ta đã chiếm được cảm tình của người tiêu dùng trên thế giới, hiện đang chiếm tỷ trọng khá cao trong các mặt hàng xuất khẩu và tạm đứng thứ 3 (11.5%). Hàng thuỷ sản có khả năng sẽ phát triển mạnh và chiếm tỷ trọng lớn hưon trong tương lai, nhưng hiện nay vẫn xếp sau hàng giầy dép. Gạo là hàng xuất khẩu truyền thống đang chiếm 4.5%. Mặt hàng xuất khẩu điện tử có thể coi là non trẻ như linh kiện điện tử cũng đã đóng góp một phần không nhỏ (3.0%). Còn lại các sản phẩm khác như than, cà phê, hạt điều.... II. Những thành tựu đạt được và những yếu kém cần khắc phục 1. Thành tựu đạt được trong thời gian vừa qua - Xuất khẩu đã đạt được mục tiêu đề ra và đóng góp một phần đáng kể vào việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 1991-2000 tiếp đến là bước đầu thực hiện tốt chiến lược xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2005. Hoạt động xuất khẩu chính là yếu tố phát huy nội lực rất quan trọng, tạo thêm vốn đầu tư công nghệ, tăng thêm việc làm, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. - Đã thực hiện nhiệm vụ cải tiến cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô, tạo một số mặt hàng có khối lượng lớn và thị trường tương đối ổn định. - Đã vượt qua được những khủng hoảng thị trường vào đầu những năm 90 do Liên Xô tan rã, chế độ XHCN ở Đông Âu bị xoá bỏ (thị trường trước đây chiếm trên 60% kim ngạch xuất - nhập khẩu của nước ta) và đẩy lùi được chính sách bao vây, cấm vận nước ta; về cơ bản thực hiện được chủ trương đa dạng hoá thị trường và đa dạng hoá các quan hệ kinh tế, tích cực thâm nhập, tạo chỗ đứng ở các thị trường mới, phát triển các quan hệ mới. Việc đa dạng hoá thị trường thể hiện ở đặc điểm, hiện nay Việt Nam đã có quan hệ thương mại với trên 100 nước và vùng lãnh thổ, ký hiệp định thương mại với trên 70 quốc gia. Trong năm năm 1991-1995, khu vực Châu Á chiếm tới 77% kim ngạch xuất-nhập khẩu thì nay chỉ còn 57-58%, thị trường Châu Âu hiện nay chiếm khoảng 26-27%, Bắc Mỹ (6%) và Châu Đại Dương (7%), tỷ trọng các thị trường trung gian như Hồng Kông hay Singapore đã giảm dần. Hơn nữa, nước ta đã và đang tham gia vào hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới qua việc chủ trương gia nhập các tổ chức và hiệp hội kinh tế quốc tế khác khi cần thiết và có điều kiện, Việt Nam gia nhập ASEAN vào năm 1995, ASEM vào năm 1996, APEC năm 1998, và là quan sát viên của WTO vào năm 1995. Sau năm 1993, nước ta đã khai thông quan hệ tín dụng với các tổ chức IMF, WB, và ADB (mặc dù là thành viên của các tổ chức này sau khi giải phóng miền nam). - Xuất khẩu của Việt Nam đã được đổi mới một cách cơ bản về cơ chế xuất-nhập khẩu theo hướng xoá bỏ chế độ độc quyền ngoại thương; ngày càng mở rộng quyền kinh doanh xuất khẩu cho các ngành sản xuất, địa phương, các thành phần kinh tế, trong đó có cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, giảm thiểu và dần xoá bỏ hạn ngạch, giấy phép từng chuyến, từ đó góp phần hạn chế cơ chế xin – cho, các cơ chế chính sách mới góp phần khuyến khích xuất khẩu nhận được sự quan tâm càng lớn; các công cụ tiền tệ vĩ mô như lãi xuất tín dụng, tỷ giá được sử dụng nhuần nhuyễn hơn để khuyến khích xuất khẩu và định hướng nhập khẩu. Hành lang pháp lý từng bước được hoàn thiện, đặc biệt là lần đầu tiên thông qua luật thương mại, chế độ tối huệ quốc, mã số hàng hoá, giảm dần các hàng rào thuế quan và phi thuế quan, tiến tới chế độ đãi ngộ quốc gia. 2. Những vẫn đề tồn tại của hoạt động xuất khẩu - Quy mô xuất khẩu của Việt Nam còn quá thấp so với các nước trong khu vực, xét về cả tổng kim ngạch lẫn kim ngạch tính theo đầu người mà năm 1999 mới đạt khoảng 150 USD. Sự tăng trưởng còn chưa thực sự ổn định và bền vững. - Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam còn lạc hậu. Tỷ trọng hàng xuất khẩu thô và sơ chế còn cao so với các nước trong khu vực. Trong số sản phẩm công nghiệp chế tạo dành cho xuất khẩu, hàng gia công vẫn chiếm tỷ trọng lớn, sản phẩm hàm lượng có tính chất công nghệ và trí tuệ cao dành cho xuất khẩu còn ít. Xuất khẩu dịch vụ còn thấp so với tiềm lực của nước ta, khả năng cạnh tranh của phần lớn hàng hoá xuất khẩu thấp do giá thành sản xuất cao, chất lượng thấp, mẫu mã bao bì không phù hợp với đòi hỏi của thị trường nhập khẩu. Việt Nam còn bị rơi vào tình trạng nhập những máy móc công nghệ lỗi thời từ nước ngoài nên chưa đáp ứng được việc khắc phục tình trạng lạc hậu trong sản xuất một số ngành. - Việc chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu nói chung, trong từng lĩnh vực, ngành hàng nói riêng chưa bám sát tín hiệu của thị trường thế giới, do đó nhiều sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được (tình hình sản xuất chế biến tiêu, cà phê trong vài năm gần đây). Năng suất, chất lượng, giá thành nhiều sản phẩm không đủ cạnh tranh, trong khi đó quy mô đầu tư vào khâu nâng cao khả năng cạnh tranh của các mặt hàng xuất khẩu chưa thoả đáng; việc đầu tư trực tiếp cho các khâu tiêu thụ sản phẩm như hoạt động xúc tiến thương mại, lập các trung tâm thương mại, kho ngoại quan ở nước ngoài hầu như chưa có. Nhiều hình thức kinh doanh phổ cập trên thế giới như tái sản xuất, chuyển khẩu đều chưa phát triển. - Sự hiểu biết về thị trường bên ngoài còn bị hạn chế. Nhà nước (các cơ quan quản lý trong nước lẫn các cơ quan đại diện ở nước ngoài) chưa cung cấp thông tin đầy đủ cho các doanh nghiệp, ngược lại nhiều doanh nghiệp ỷ lại trông chờ vào nguồn thông tin của nhà nước. Đối với nhiều thị trường khó tính trến thế giới, hàng hoá của chúng ta muốn xuất khẩu được sang thị trường đó đều phải qua một thị trường trung gian. - Với việc hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới còn không ít lúng túng, cho tới nay chưa hình thành được chiến lược tổng thể, chưa có lộ trình giảm thuế và hàng rào phi thuế quan dài hạn, các doanh nghiệp còn trông chờ vào sự bảo hộ của nhà nước, chưa giám sát vào việc chuẩn bị tham gia quá trình này. - Bộ máy quản lý về thương mại tuy đã có nhiều cố gắng để theo sát tình hình thực tiễn nhưng nhìn chung vẫn khá thụ động và trì trệ. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương, giữa các định chế quản lý đã có những chuyển biến tích cực nhưng vẫn chưa tốt, có khi còn triệt tiêu lẫn nhau, chưa tạo sức mạnh tổng hợp, cán bộ quản lý còn thiếu và yếu. - Hơn nữa, từ thực tế hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp, những tồn tại sau sẽ là những vẫn đề bức xúc mà các nhà hoạch định chiến lược cần quan tâm: + Các doanh nghiệp chưa khai thác hết khả năng sản xuất của mình. + Mặc dù Chính phủ đã cho hình thành các trung tâm chuyên thu thập, nghiên cứu và cung cấp thông tin về thị trường nước ngoài cho các doanh nghiệp hướng về xuất khẩu ở Việt Nam, xong rất ít doanh nghiệp nhận được thông tin về chiến lược ngoại thương hay các kết quả nghiên cứu thị trường từ các trung tâm này. Theo điều tra, chỉ có 38,2% các doanh nghiệp nhận được thông tin từ đó. Và nội dung các thông tin đánh giá từ các doanh nghiệp là nghèo nàn, giá trị thấp, không cập nhật thường xuyên và thường lạc hậu so với biến động của thị trường. + Đối với phía Hải quan, các nhân viên thường gây phiền hà cho các nhà thực hiện xuất khẩu, buộc các doanh nghiệp phải tốn thêm chi phí ngoài khoản quy định của nhà nước. 3. Nguyên nhân của thành công và tồn tại trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá Nguyên nhân dẫn tới thành tựu của xuất khẩu là nhờ những lý do liên quan tới chính sách thương mại trong giai đoạn này. Lý do đầu tiên là, nhờ vào đường lối đổi mới và những thành tựu đạt được nhờ công cuộc đổi mới làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, cơ cấu sản xuất chuyển dịch dần, từ đó thúc đẩy cơ cấu xuất nhập khẩu. Thứ hai, nhờ vào chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực đã góp phần đẩy lùi chính sách bao vây cấm vận nước ta, mở rộng thị trường xuất khẩu. Cũng nhờ vậy mà đầu tư nước ngoài vào nước ta trong thời gian hơn 10 năm đổi mới tăng nhanh. Nguyên nhân cuối cùng nhờ vào việc hoạch định chính sách nhằm vào xuất khẩu được coi là nhiệm vụ quan trọng kèm theo các cơ chế chính sách ngày càng phù hợp, thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành sản xuất, các địa phương, các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên, vì bị ảnh hưởng của chính sách đóng cửa, nền kinh tế lạc hậu và trình độ lạc hậu lâu dài đã để lại những hậu quả không tốt cho mọi ngành kinh tế đất nước, đặc biệt là ngành xuất khẩu. Thứ nhất, trình độ phát triển nước ta còn thấp, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu nước ta còn phụ thuộc vào cơ cấu nền kinh tế nói chung lạc hậu, từ năm 1997 lại còn ảnh hưởng liên tục các cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực. Vì thế tình hình xuất khẩu bị biến động theo cả về thị trường, khối lượng hàng hoá luân chuyển và tình hình tài chính. Thứ hai, nước ta rơi vào tình trạng quan liêu bao cấp lại bị bao vây cô lập khá lâu, nên khi chuyển sang cơ chế thị trường trong khi xu thế toàn cầu hoá kinh tế thị trường phát triển nhanh chóng đã đưa Việt Nam tới chỗ không thể tránh khỏi những lúng túng. Đội ngũ cán bộ liên quan đến hoạt động xuất khẩu nhìn chung chưa năng động, thiếu kinh nghiệm và kỹ năng. Thứ ba, Việt Nam còn lúng túng trong việc tạo ra cơ chế quản lý nhằm thực hiện phương châm hướng mạnh ra xuất khẩu và hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, hội nhập còn chưa sâu nên tạo ra môi trường và cơ sở pháp lý cho hoạt động xuất khẩu còn hạn chế. III. Phân tích năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam 1. Sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu Việt Nam Nhìn chung, trong những năm đầu đổi mới kinh tế, Chính phủ Việt Nam bằng những công cụ hữu hiệu của mình đã góp phần tạo sức mạnh cho hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế. Song do tình trạng lạc hậu lâu dài, ảnh hưởng của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp nên giai đoạn này hàng hoá của Việt Nam chưa thực sự có chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Bởi sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam vẫn mang nặng tính chất thô và chưa qua chế biến (chiếm 60%). Tuy nhiên chúng ta vẫn có ba mặt hàng là gạo, cà phê, và điều đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC2357.doc
Tài liệu liên quan