Đề án Nguồn vốn và các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp Việt Nam

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN 2

1.1. Khái niệm về vốn 2

1.2. Phân loại vốn 2

1.3. Vai trò của nguồn vốn đối với doanh nghiệp 3

1.3.1. Vốn là điều kiện tiên quyết để thành lập doanh nghiệp. 3

1.3.2. Vốn là cơ sở cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 4

1.3.3. Vốn là cơ sở cho việc phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh 4

1.4 Các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp 5

1.4.1. Vốn góp ban đầu 6

1.4.2. Huy động vốn từ lợi nhuận không chia 6

1.4.3. Huy động vốn từ phát hành cổ phiếu 8

1.4.4. Huy động vốn bằng tín dụng Ngân hàng 11

1.4.5. Huy động vốn bằng tín dụng thương mại 14

1.4.6. Huy động vốn bằng phát hành trái phiếu 16

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ NGUỒN VỐN VÀ PHƯƠNG THỨC HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY 19

2.1. Thực trạng về nguồn vốn và phương thức huy động vốn của các doanh nghiệp Việt Nam 19

2.1.1. Thực trạng vốn chủ sở hữu và huy động vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp 19

2.1.2. Thực trạng vốn nợ và huy động nợ 21

2.1.3. Đánh giá những kết quả đạt được 26

2.1.4 Những hạn chế và nguyên nhân 27

2.2. Một số kiến nghị và giải pháp cho hoạt động huy động vốn của các doanh nghiệp. 30

2.2.1. Một số kiến nghị 30

2.2.2. Giải pháp cho các doanh nghiệp trong huy động nguồn vốn 31

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 33

 

doc34 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 12306 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Nguồn vốn và các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tín hiệu tiêu cực mà nguyên nhân chính là sự bất đối xứng về thông tin, do doanh nghiệp không thể cung cấp hết thông tin ra ngoài thị trường hoặc do cạnh tranh. + Ngoài ra nhà đầu tư còn có thể suy đoán rằng công ty phát hành thêm cổ phiếu vì thị trường ở thời điểm đó cao hơn so với giá trị thật sự của công ty. 1.4.4. Huy động vốn bằng tín dụng Ngân hàng 4 Khái niệm: Tín dụng Ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát triển của các công ty, các doanh nghiệp đều gứn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng thương mại cung cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn tín dụng. Theo hiệp hội ngân hàng Việt Nam(VNBA) có 40% tổng nhu cầu của các doanh nghiệp được tài trợ bởi tín dụng Ngân hàng, 80% lượng vốn cung ứng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ là từ kênh Ngân hàng. Các doanh nghiệp sử dụng vốn vay Ngân hàng để đầu tư vào tài sản cố định, bổ sung thêm vốn lưu động và phục vụ các dự án. 4 Các hình thức tín dụng Ngân hàng: Doanh nghiệp vay để đầu tư vào TSCĐ và phục vụ dự án: có thể vay Ngân hàng theo hình thức như cầm cố, thế chấp tài sản, thông qua bên thứ 3 để bảo lãnh cho mình hoặc vay dưới hình thức trả góp… + Đối với những doanh nghiệp lớn, Doanh nghiệp có thể sử dụng uy tín của mình với Ngân hàng (Thanh toán nợ đúng hẹn, khách hàng thân) để vay tín chấp… + Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khi mà tài sản để thế chấp cầm cố chỉ có thể vay của Ngân hàng một lượng vốn nhỏ không đủ vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh thì có thể nhờ uy tín của bên thứ 3 bảo lãnh, tham gia vào qũy bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ… Doanh nghiệp vay để bổ sung vốn lưu động: có thể vay Ngân hàng dưới hình thức như vay thấu chi, vay trực tiếp từng lần, cầm cố thế chấp tài sản, tín chấp (DN lớn), bảo lãnh… 4 Đặc điểm của tín dụng Ngân hàng: a) Điều kiện vay vốn: Doanh nghiệp muốn vay vốn Ngân hàng cần phải có một số điều kiện sau: + Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp + Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. + Có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi, có hiệu quả và phù hợp với quy định của pháp luật. b) Thủ tục vay vốn: Để được vay vốn ngân hàng, doanh nghiệp phải có bộ hồ sơ vay vốn gồm: + Giấy đề nghị vay vốn. + Giấy phép kinh doanh. + Dự án, phương án sản suất kinh doanh, kế hoạch trả nợ. + Hồ sơ tài sản thế chấp cầm cố. + Hồ sơ tài liệu khác theo yêu cầu của NH. c) Lãi suất vay: Khi doanh nghiệp vay vốn NH, doanh nghiệp phải trả một mức lãi suất phụ thuộc vào kì hạn của khoản vay (Lãi suất của các khoản vay có kì hạn càng cao thì càng cao), phụ thuộc vào doanh nghiệp có phải là đối tượng ưu đai không,… - Lãi suất doanh nghiệp phải trả thường là lãi suất cố định. Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp sẽ phải trả cho Ngân hàng lãi định kì (thường là lãi định kì) ngay cả khi doanh nghiệp làm ăn không có lãi. d) Thời hạn vay: Doanh nghiệp có thể vay Ngân hàng dưới hình thức ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. e) Quy mô nguồn vốn vay: Doanh nghiệp huy động vốn Ngân hàng với quy mô phụ thuộc vào mục đích sử dụng vốn. Tuy nhiên quy mô này có thể bị hạn chế do quy định hạn mức tín dụng của Ngân hàng cho doanh nghiệp , do kì hạn của nguồn vốn, do giá trị của TS thế chấp, do tính hiệu quả và khả thi của dự án… Trong trường hợp này doanh nghiệp có thể xin sự đồng tài trợ của nhiều Ngân hàng cho mình. f) Quản lý và giám sát: doanh nghiệp vay vốn Ngân hàng chịu sự giám sát của Ngân hàng trên 2 phương diện: + Doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn có đúng với mục đích ghi trong hợp đồng vay vốn hay không? + Doanh nghiệp trả gốc và lãi có đúng hạn không? g) Rủi ro - Áp lực thanh toán: Định kì, doanh nghiệp phải trả lãi cho ngân hàng ngay cả khi doanh nghiệp làm ăn không có lãi, nếu không doanh nghiệp sẽ phải chịu lãi suất phạt của NH. Đến hạn trả gốc, nếu doanh nghiệp mất khả năng chi trả thì tài sản bảo đảm của doanh nghiệp bị phát mãi hoặc bên thứ ba đứng ra bảo lãnh cho doanh nghiệp khi vay sẽ phảI chịu trách nhiệm trả hộ cho doanh nghiệp . Điều này gây ra ảnh hưởng rất xấu về uy tín của doanh nghiệp với NH. h) Tiết kiệm thuế: Lãi vay được tính là chi phí của doanh nghiệp, làm giảm lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp do đó doanh nghiệp tiết kiệm được một khoản thuế TNDN. 4Ưu và nhược điểm của tín dụng Ngân hàng: Ưu điểm: Sử dụng vốn vay Ngân hàng đem lại cho doanh nghiệp nhiều thuận lợi. Doanh nghiệp có thể huy động được khối lượng vốn lớn trong ngắn hạn hoặc dài hạn, do vậy đáp ứng nhu cầu về vốn của doanh nghiệp cho các mục tiêu khác nhau. Thêm vào đó, lãi vay ngân hàng được xem là chi phí của doanh nghệp, do đó khi sử dụn vốn vay ngân hàng doanh nghiệp được giảm một phần thuế thu nhập doanh nghiệp. Ngoài ra, so với các nguồn vốn khác thì chi phí cho việc sử dụng tín dụng ngân hàng được coi là rẻ nhất. Nhược điểm: Để vay được vốn ngân hàng, các doanh nghiệp phải có bản báo cáo kế hoạch sử dụng vốn cụ thể để ngân hàng thẩm định cũng như cần tài sản để bảo đảm cho khoản vay đó. Ngoài ra doanh nghiệp phải tuân thủ các quy định do ngân hàng đề ra trong việc sử dụng vốn vay. Kết quả là doanh nghiệp giảm sự chủ động trong việc vay và sử dụng vốn vay vì còn phụ thuộc vào đánh giá của ngân hàng cũng như những quy định của tổ chức tín dụng đề ra Bên cạnh đó thì thủ tục phức tạp và mất thời gian có thể làm cho doanh nghiệp mất đi cơ hội kinh doanh do không có vốn một cách kịp thời. Các doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn trong việc huy động vốn doanh nghiệp do những nguyên nhân sau đây: - Do bản thân các doanh nghiệp: Doanh nghiệp nhà nước làm ăn kinh doanh không hiệu quả. Trước năm 2000, doanh nghiệp nhà nước là khách hàng vay chính của ngân hàng. Nhưng hiện nay, do tình hình phổ biến của các doanh nghiệp nhà nước là vốn chủ sở hữu thấp, tài sản hầu như không có, tài chính không lành mạnh, sản xuất kinh doanh không hiệu quả, tỷ lệ nợ xấu cao... Do đó, trong hai năm gần đây, đối với nhiều doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng tập trung vào thu nợ mà không cho vay hoặc giảm dần mức tín dụng. Các công ty cổ phần thì gặp nhiều khó khăn trong thủ tục pháp lý. Các doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần thì các hồ sơ pháp lý của tì sản nhất là bất động sản chưa đầy đủ nên không được chấp nhận dùng làm tài sản thế chấp hoặc rất khó khăn cho ngân hàng trong vấn đề đinh giá. Đối với các doanh nghiệp tư nhân, việc cung cấp thông tin cho ngân hàng cong nhiều hạn chế. Hầu hết các ngân hàng đều coi doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp tư nhân là nhóm khách hàng quan trọng. Tuy nhiên các doanh nghiệp này gặp không ít khó khăn khi vay vốn ngân hàng, mà nguyên nhân chủ yếu là do vốn thực của doanh nghiệp luôn thấp hơn vốn đăng kí. Thậm chí ngân hàng luôn “ngán ngẩm” trước tình trạng thiếu minh bạch trong hồ sơ sổ sách, quan hệ tài sản giữa chủ doanh nghiệp và doanh nghiệp cũng như sự thiếu chuyên nghiệp trong xây dựng dự án. 1.4.5. Huy động vốn bằng tín dụng thương mại 4 Khái niệm và phân loại Tín dụng thương mại hay còn gọi là tín dụng của người cung cấp. Nguồn vốn này được hình thành tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Nguồn vốn tín dụng thương mại có ảnh hưởng hết sức to lớn không chỉ với các doanh nghiệp mà cả đối với toàn bộ nền kinh tế. Trong một số công ty, nguồn vốn tín dụng thương mại dưới dạng các khoản phải trả có thể chiếm tới 20% tổng nguồn vốn, thậm chí có thể chiếm tới 40% tổng nguồn vốn. Có 3 loại tín dụng thương mại: - Tín dụng thương mại cấp cho nhà nhập khẩu (tín dụng xuất khẩu) là tín dụng do người xuất khẩu cấp cho người nhập khẩu để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa. Tín dụng xuất khẩu được cấp dưới hình thức chấp nhận hối phiếu và mở tài khoản. - Tín dụng thương mại cấp cho người xuất khẩu (tín dụng nhập khẩu): là loại tín dụng do người nhập khẩu cấp cho người xuất khẩu để nhập hàng thuận lợi. Hình thức tồn tại của loại tín dụng này là tiền ứng trước để nhập hàng. - Tín dụng nhà môi giới cấp cho người xuất khẩu và nhập khẩu: các ngân hàng thương nghiệp cỡ lớn thường không cấp tín dụng trực tiếp cho các nhà xuất nhập khẩu mà thông qua nhà môi giới, loại hình này sử dụng rộng rãi ở các nước Anh, Đức, Bỉ và Hà Lan. 4 Đặc điểm Nguồn vốn tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh, mặt khác nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Các điều kiện ràng buộc cụ thể có thể được ấn định khi hai bên ký hợp đồng mua bán hay hợp đồng kinh tế nói chung. Tuy nhiên, cần nhận thấy tính chất rủi ro của quan hệ tín dụng thương mại khi quy mô tài trợ vượt quá giới hạn an toàn. Chi phí của việc sử dụng các nguồn vốn tín dụng thể hiện qua lãi suất của khoản vay, đó là chi phí lãi vay, sẽ được tính vào giá thành sản phẩm hay dịch vụ. Khi mua bán hàng hóa trả chậm chi phí này có thể “ẩn” dưới hình thức thay đổi mức giá, tùy thuộc vào quan hệ và thỏa thuận cụ thể giữa các bên. Trong xu hướng hiện nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới, các hình thức tín dụng ngày đa dạng và linh hoạt hơn, với tính chất cạnh trang hơn, do đó các doanh nghiệp cũng có nhiều cơ hội để lựa chọn nguồn vốn tài trợ cho hoạt động của doanh nghiệp. 4 Ưu điểm và nhược điểm của tín dụng thương mại Ưu điểm: Tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh Giúp doanh nghiệp mở rộng quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền Chủ động khi huy động vốn chủ về thời gian, số lượng, nhà cung ứng Huy động nhanh chóng dễ dàng Không phải chịu sự giám sát của Ngân hàng Ngoài ra, đối với doanh nghiệp làm chủ nợ có thể vay ngân hàng thông qua hình thức chiết khấu thương phiếu, bán hoặc cầm cố thương phiếu. Nhược điểm: Hạn chế về quy mô tín dụng: hạn chế về số lượng mua chịu, khả năng của nhà cung ứng Hạn chế về đối tượng vay mượn Hạn chế về không gian vay mượn Hạn chế về thời gian vay mượn do chu kì sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khác nhau Phụ thuộc vào quan hệ sản xuất kinh doanh trên thị trường Có thể gặp rủi ro khi buộc phải thay đổi nhà cung ứng và phụ thuộc nhiều vào sự đúng hạn, uy tín của nhà cung ứng. Dễ gặp rủi ro dây truyền 1.4.6. Huy động vốn bằng phát hành trái phiếu 4 Khái niệm: Trái phiếu là một chứng nhận nghĩa vụ nợ của người phát hành phải trả cho người sở hữu trái phiếu đối với một khoản tiền cụ thể (mệnh giá của trái phiếu), trong một thời gian xác định và với một lợi tức quy định. Người phát hành có thể là doanh nghiệp (trái phiếu trong trường hợp này được gọi là trái phiếu doanh nghiệp), một tổ chức chính quyền như Kho bạc nhà nước (trong trường hợp này gọi là trái phiếu kho bạc), chính quyền (trong trường hợp này gọi là công trái hoặc trái phiếu chính phủ). Người mua trái phiếu, hay trái chủ, có thể là cá nhân hoặc doanh nghiệp hoặc chính phủ. Tên của trái chủ có thể được ghi trên trái phiếu (trường hợp này gọi là trái phiếu ghi danh) hoặc không được ghi (trái phiếu vô danh). 4 Phân loại trái phiếu: Trái phiếu có lãi suất cố định: là loại trái phiếu mà doanh nghiệp phải trả một mức lãi suất cố định được quy định ngay từ thời điểm phát hành. Trái phiếu có lãi suất thả nổi: là loại trái phiếu mà doanh nghiệp phải trả mức lãi suất thả nổi theo thị trường hoặc điều chỉnh của doanh nghiệp. Trái phiếu có thể thu hôì: là loại trái phiếu mà doanh nghiệp được phép thu hồi sớm hơn thời hạn. Trái phiếu có thể chuyển đổi: là loại trái phiếu cho phép các trái chủ được quyền mua thêm một số lượng cổ phiếu thường ở mức giá xác định và trong khoảng thời gian xác định Trái phiếu có tài sản đảm bảo: là loại trái phiếu được đảm bảo bằng những tài sản của doanh nghiệp hoặc bằng tài sản của bên thứ 3. như nhà xưởng, bất động sản, máy móc thiết bị. Trái phiếu không có tài sản đảm bảo: là loại trái phiếu không được đảm bảo cho việc thanh toán gốc và lãi trái phiếu bằng một tài sản cụ thể. 4 Đặc điểm của việc huy động vốn bằng phát hành trái phiếu: - Điều kiện, thủ tục phát hành. Tùy từng quốc gia, vùng lãnh thổ mà điều kiện và thủ tục phát hành trái phiếu là khác nhau. + Điều kiện phát hành: Ở Việt Nam, điều kiện phát hành trái phiếu được quy định trong Điều 8 nghị định 144/2003/NĐ-CP + Thủ tục phát hành: Doanh nghiệp lập hồ sơ đăng ký phát hành trái phiếu (được quy định chi tiết trong Điều 10 nghị định 144/2003/NĐ-CP) và nộp cho Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước. - Quy mô phát hành: Doanh nghiệp chỉ được phát hành một lượng trái phiếu nhất định dưói sự cho phép của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. - Thời hạn và lãi suất: Lãi suất trái phiếu thường thấp hơn lãi suất cho vay của ngân hàng và lợi tức cổ phiếu thường. - Quản lý và giám sát: Doanh nghiệp không phải chịu sự quản lý hay giám sát từ các trái chủ. Doanh nghiệp chỉ phải chịu sự giám sát của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. - Trái chủ không có quyền tham gia vào các quyết định và biểu quyết những vấn đế quan trọng của doanh nghiệp. - Áp lực thanh toán: Doanh nghiệp phải chịu áp lực thanh toán tiền lãi trái phiếu hàng năm và trả nợ gốc khi đáo hạn. - Phương thức thanh toán: Doanh nghiệp có thể thanh toán lãi theo phương thức trả lãi trước hoặc trả lãi sau. - Tiết kiệm thuế: Lãi trái phiếu được hạch toán vào chi phí hoạt động tài chính (TK 635) để xác định lợi nhuận trước thuế do đó doanh nghiệp tiết kiệm được một khoản thuế thu nhập doanh nghiệp. - Ngoài ra, nếu doanh nghiệp có trái phiếu được niêm yết lần đầu tại Trung tâm giao dịch chứng khoán sẽ được giảm 50% số thuế TNDN phải nộp trong 2 năm kể từ khi thực hiện việc niêm yết. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ NGUỒN VỐN VÀ PHƯƠNG THỨC HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Thực trạng về nguồn vốn và phương thức huy động vốn của các doanh nghiệp Việt Nam 2.1.1. Thực trạng vốn chủ sở hữu và huy động vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp ] Thực trạng vốn góp ban đầu Vốn nhà nước tại các doanh nghiệp Nhà nước thường phân tán, dàn trải, quy mô nhỏ và hiệu quả kinh tế thấp. Cơ chế quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp còn chưa đồng bộ, chưa phù hợp với nền kinh tế thị trường. Nhà nước chi cho các doanh nghiệp Nhà nước từ 60 -70% vốn nhưng hiệu quả thu về chỉ đạt 20 – 30% Theo số liệu từ các phòng đăng kí kinh doanh cho thấy, số lượng và số vốn doanh nghiệp tư nhân ngày càng giảm trong khi các loại hình doanh nghiệp khác tăng lên. Loại hình công ty TNHH 2 thành viên vẫn đứng đầu về số lượng và số vốn đăng kí, nhưng tốc độ tăng không nhiều như các loại hình khác. Trong số các loại hình doanh nghiệp còn lại, công ty TNHH 1 thành viên là loại hình có số lượng doanh nghiệp và số vốn đăng kí tăng nhiều nhất. ] Thực trạng huy động vốn bằng lợi nhuận giữ lại Việc giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư trong doanh nghiệp hiện nay chưa được quan tâm đúng mức, do đó nguồn tài trợ từ lợi nhuận không chia để lại còn khá khiêm tốn. Chính sách chia cổ tức trong các doanh nghiệp cổ phần còn nhiều bất cập. Do nhiều doanh nghiệp cổ phần Việt Nam có xuất xứ từ doanh nghiệp nhà nước, yếu kém và có nguy cơ phá sản, đáng lẽ phải đẩy mạnh tích lũy vốn thì hầu hết lại đem lợi nhuận thu được để trả cổ tức cao cho các cổ đông nhằm đánh bóng hình ảnh doanh nghiệp. Hầu hết các công ty cổ phần ở Việt Nam vẫn chỉ áp dụng phương thức chi trả cổ tức bằng tiền mặt, làm hạn chế khả năng tích tụ vốn của doanh nghiệp. Hiện nay bộ tài chính chưa có văn bản nào quy định cụ thể việc thực hiện chính sách cổ tức của mỗi công ty. Chính sách trong công ty cổ phần khác với doanh nghiệp nhà nước bởi vì quyền sở hữu là thuộc về các cổ đông, do vậy mà nhà nước cũng không thể hướng dẫn và quy định cụ thể như các doanh nghiệp nhà nước. Do vậy nhà nước có quy định cũng chỉ là khung pháp lý mang tính chất định hường mà thôi, còn cụ thể chính sách chia cổ tức là tùy thuộc và được ghi vào điều lệ mỗi công ty. Ngoài ra, chính sách chia cổ tức tại nhiều doanh nghiệp còn bị chi phối bởi quyền lợi cục bộ của một nhóm cổ đông, hoặc việc thực hiện thiếu nghiêm túc, thiếu sự giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước dễ dẫn đến vi phạm pháp luật. ] Thực trạng huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu Cách đây vài năm, việc phát hành cổ phiếu để huy động vốn chưa phải là ưu tiên hàng đầu của các doanh nghiệp khi có nhu cầu huy động vốn, đặc biệt là vốn trung và dài hạn, do các doanh nghiệp chưa thực sự có uy tín trên thị trường, chưa thu hút được đông đảo các nhà đầu tư. Tuy nhiên, hiện nay huy động vốn từ phát hành cổ phiếu mới là biện pháp được các doanh nghiệp thực sự quan tâm. Rất nhiều doanh nghiệp nhà nước trong tiến trình cổ phần hóa đã phát hành thêm cổ phiếu mới để thu hút vốn đầu từ từ bên ngoài. Các doanh nghiệp cổ phần khác cũng coi đây là một nguồn vốn vô cùng to lớn. Một số doanh nghiệp đã tăng được vốn chủ sở hữu lên đáng kể khi sử dụng biện pháp phát hành thêm cổ phiếu này. Vào thời điểm cuồi năm 2007, đầu 2008 hàng loạt công ty niêm yết công bố kế hoạch phát hành thêm để chia cổ tức, thưởng cho nhà đầu tư hoặc nhằm huy động vốn. Trước khi chào sàn vào ngày 15/11, Tập đoàn Hòa Phát (HPG) đã công bố kế hoạch chia thưởng cho cổ đông theo tỷ lệ 10:4. Hiện có 132 triệu cổ phiếu HPG niêm yết và sau đợt thưởng này, sẽ có thêm 52,8 triệu cổ phiếu HPG nữa lên sàn. Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn (SSI) vào cuối 2007, tổng cộng chỉ sau đợt một phát hành thêm đã có thêm khoảng 56,4 triệu cổ phiếu SSI được đưa vào lưu hành, nâng tổng khối lượng cổ phiếu của công ty này trên thị trường chứng khoán là hơn 136 triệu cổ phiếu. Công ty cổ phần Hóa An (DHA) cũng phát hành thêm 3,4 triệu cổ phiếu, nâng tổng số cổ phiếu DHA trên thị trường lên khoảng 10 triệu cổ phiếu. Bên cạnh đó hàng loạt ngân hàng, công ty cổ phần trên thị trường OTC cũng đang phát hành thêm cổ phiếu. Hàng loạt cuộc IPO cũng đã liên tục diễn ra tại Sở Giao dịch chứng khoán TP HCM và Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội. Năm 2008, cùng với những biến động xấu của nền kinh tế toàn cầu, chúng ta đã chứng kiến một giai đoạn thất thu của hoạt động phát hành huy động vốn. Biến động kinh tế vĩ mô cùng thế giới khiến tổng vốn huy động qua thị trường chỉ đạt 20.000 tỷ đồng, giảm hơn 50% so với năm 2007. Số cổ phần bán được năm 2008 không quá 60% trong tổng 28 doanh nghiệp bán đấu giá qua Sở giao dịch chứng khoán TP HCM. Cá biệt có những đợt phải tổ chức đến 3 lần nhưng số đăng ký chỉ được 20 nhà đầu tư. Các đợt IPO cũng trở nên buồn tẻ khi vắng bóng tổ chức nước ngoài, các quỹ đầu tư trong và ngoài nước. IPO Vietinbank được xem là đợt bán cổ phần lần đầu ra công chúng thành công nhất trong năm nay khi bán hết số cổ phần đấu giá. Năm 2008, lần đầu tiên trong lịch sử 8 năm trên thị trường chứng khoán xảy ra trường hợp cổ phiếu bị treo giò, hạn chế giao dịch và đứng trước nguy cơ loại khỏi sàn niêm yết. Hiện tượng Bông Bạch Tuyết như giọt nước tràn ly sau bao ngày lỗ thật, lời giả. Mức lỗ tổng cộng trong năm 2006, 2007 gần 15 tỷ đồng. Cứu cánh đưa Bông Bạch Tuyết thoát khỏi bờ vực phá sản là phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ lại bị chính nội bộ công ty phản đối - Dệt may Gia Định (chiếm 30% cổ phần). Viễn cảnh Bạch Bạch Tuyết mù mịt khi thua tiếp 9,3 tỷ đồng 9 tháng đầu năm 2008 và gần như nắm chắc khả năng bị hủy niêm yết. 2.1.2. Thực trạng vốn nợ và huy động nợ ] Thực trạng huy động vốn bằng tín dụng Ngân hàng Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, tín dụng ngân hàng là một hình thức huy động vốn chủ yếu. Tín dụng ngân hàng có một vai trò cực kỳ quan trọng, với vị trí trung gian tài chính của nền kinh tế, thông qua các nguồn lực xã hội được phân bổ sử dụng một cách hợp lý và có hiệu quả. Thông qua việc cung ứng nguồn vốn, tín dụng ngân hàng có tác động rất lớn tới quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Đặc biệt đang lúc chúng ta đẩy nhanh quá trình sắp xếp lại và cổ phần hoá các DNNN thì vai trò của hoạt động tín dụng ngân hàng lại càng quan trọng hơn, nhất là trong bối cảnh hiện tại khu mà vốn của ngân hàng thương mại chiếm tỷ trọng lớn trong tài sản của DNNN, có trường hợp vốn tín dụng ngân hàng chiếm tới 80% tài sản của doanh nghiệp. Trong những năm gần đây, cùng với việc đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, nhiều doanh nghiệp cổ phần sản xuất kinh doanh có hiệu quả, tình hình tài chính lành mạnh, do đó các NHTM ngày càng mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp cổ phần. Theo báo cáo của 5 NHTM Nhà nước, tăng trưởng cho vay đối với doanh nghiệp cổ phần (bao gồm doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa và doanh nghiệp cổ phần khác) trong những năm gần đây ở mức cao, đặc biệt là từ năm 2003 do quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước được đẩy mạnh. Dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp cổ phần liên tục tăng cả về số tuyệt đối và tỷ trọng trong tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế (12/2004 dư nợ 25.212 tỷ đồng, chiếm 5,47% tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế, 12/2005, con số này là 44.086 tỷ đồng và 7.93%). Tính đến 31/5/2006 dự nợ cho vay đối với doanh nghiệp cổ phần khoảng 51.603, chiếm 8,8% tổng dư nợ của toàn hệ thống đối với nền kinh tế. Về cơ cấu loại hình doanh nghiệp, dư nợ cho vay doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá luôn chiếm trên 70% tổng dư nợ cho vay doanh nghiệp cổ phần (năm 2004 là 75,89%, năm 2005 là 73,3%, tháng 5 năm 2006 khoảng 73,98%). Dư nợ cho vay 5 tháng đầu năm 2006 đối với các doanh nghiệp cổ phần tăng 17,05% so với dư nợ cuối tháng 12/2005, cao hơn mức tăng trưởng tín dụng chung của nền kinh tế (4,94%); trong đó tốc độ tăng trưởng cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá khoảng 18,13% và doanh nghiệp cổ phần khác khoảng 14,1%. Về tình hình sử dụng vốn và khả năng trả nợ. Tính đến tháng 5/2006, nợ xấu của doanh nghiệp cổ phần khoảng 2.742 tỷ đồng, chiếm 14,72% tổng nợ xấu của hệ thống ngân hàng, trong đó chủ yếu là nợ xấu của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá, khoảng 2.484 tỷ đồng, chiếm 90,6% tổng nợ xấu của các doanh nghiệp cổ phần. Tỷ lệ nợ xấu của doanh nghiệp cổ phần khoảng 5,31% trên tổng dư nợ vay của doanh nghiệp cổ phần, cao hơn tỷ lệ nợ xấu chung (3,2%); trong đó, doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá có tỷ lệ nợ xấu là 6,51%, doanh nghiệp cổ phần khác là 1,92% trên tổng dư nợ vay. Tình hình nợ xấu của các doanh nghiệp cổ phần có chiều hướng gia tăng trong những năm gần đây (tỷ lệ nợ xấu năm 2003: 1,77%, năm 2004: 2,13%, năm 2005: 7,72%, tháng 5 năm 2006: 6,51. Tuy nhiên, cũng có nhiều doanh nghiệp cổ phần sử dụng vốn vay hiệu quả, đúng mục đích, bảo đảm kinh doanh hiệu quả, quan hệ tín dụng sòng phẳng, tạo uy tín tốt đối với các NHTM; qua đó các NHTM tăng sự tin tưởng đối với doanh nghiệp cổ phần, tạo lập được các khách hàng truyền thống và có chính sách khuyến khích, ưu đãi liên quan đến quan hệ tín dụng. Tăng trưởng tín dụng của một số NH nửa sau 2008 đang chững lại trong khi mức lãi suất huy động vẫn chưa thể giảm ngay, do hiệu ứng của chính sách thắt chặt tiền tệ. Chẳng hạn Eximbank giảmlãi suất cho vay đối với doanh nghiệp xuất khẩu chiết khấu bộ chứng từ bằng USD lãi suất cho vay giảm từ 8,4%/năm xuống còn 6,6%/năm. Doanh nghiệp nhập khẩu vay USD có kỳ hạn 6 tháng trở xuống lãi suất cũng giảm còn 6,6%/năm. ACB nâng hạn mức tài trợ vốn cho các nhà nhập khẩu lên 50 triệu USD, thay vì 20 triệu USD. ACB cũng quyết định giảmlãi suất tài trợ doanh nghiệp sau khi xuất khẩu bằng VND xuống còn từ 7,3%-8,5%/năm và lãi suất tài trợ trước khi xuất khẩu còn từ 9% -10%/năm. Nhìn chung phía Ngân hàng đã và đang từng bước gia tăng hạn mức vốn hỗ trợ khách hàng và rộng cửa cho vay, nhưng có sự kiểm soát chặt hơn so với trước để hạn chế rủi ro. Tuy nhiên, với lãi suất đầu ra được hầu hết các ngân hàng áp dụng ở mức phổ biến hiện nay 20 - 21%/năm (tương đương khoảng 1,7 - 1,75%/tháng) là bài toán khiến nhiều khách hàng phải tính toán kỹ trước khi quyết định vay vốn Ngân hàng sản xuất, kinh doanh cũng như sử dụng vào các mục đích khác. ] Thực trạng huy động vốn bằng tín dụng thương mại Để thanh toán hay đòi tiền lẫn nhau, các doanh nghiệp thường sử dụng các công cụ như hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ hay sec… những loại giấy tờ này nếu còn giá trị, đều có thể chuyển nhượng lại. Lâu nay, các doanh nghiệp và ngân hàng đều đã sử dụng hối phiếu trong thanh toán xuất nhập khẩu và vay nợ nước ngoài. Tất cả các giao dịch này đều thực hiện theo thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, trong thanh toán nội địa, các doanh nghiệp chưa sử dụng thương phiếu như là công cụ thanh toán phổ biến. Ngân hàng thương mại cũng chưa đủ điều kiện để cấp tín dụng cho doanh nghiệp dưới các hình thức chiết khấu thương phiếu hoặc cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu. Trong khi đó, mua bán chịu giữa các doanh nghiệp, bán hàng gối đầu giữa nhà sản xuất và đại lý, giữa các tiểu thương ở chợ đầu mối là nhu cầu thực tế Ở Việt Nam hiện nay theo thống kê có tới 80,5% số doanh nghiệp huy động vốn từ các nguồn mua bán chịu, sử dụng vốn của đối tác. Tuy nhiên, những giao dịch đó chỉ được ghi lại một cách đơn giản trên sổ nợ của người bán; ngay cả khi mua bán trả chậm, các bên cũng chỉ lập văn bản thỏa thuận với nội dung đơn giản về thời gian và số tiền trả chậm. Vì vậy, các khoản nợ đã không được xác nhận về mặt pháp lý và khó chứng minh khi nảy sinh tranh chấp; dẫn đến nguy cơ nợ nần dây dưa, thậm chí mất trắng tiền tỷ của các tiểu thương ở chợ đầu mối... Mặc dù quan hệ tín dụng thương mại mua bán c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22024.doc
Tài liệu liên quan