Đề án Thị trường chứng khoán Việt Nam và giải pháp thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán

Mục lục

 

Lời nói đầu 4

Nội dung đề tài 6

Phần 1: Lý thuyết chung về chứng khoán và thị trường chứng khoán 6

I. Chứng khoán 6

1. Khái niệm 6

2. Một số loại chứng khoán cơ bản 6

2.1 Cổ phiếu 6

2.2 Trái phiếu 7

2.3 Các chứng chỉ có nguồn gốc chứng khoán 8

II. Thị trường chứng khoán 9

1. Khái niệm 9

2. Chức năng 9

2.1 Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế 9

2.2 Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng 10

2.3 Tạo tính thanh khoản cho các loại chứng khoán 10

2.4 Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp 11

2.5 Tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô 11

3. Các chủ thể tham gia thị trường 11

3.1 Nhà phát hành 11

3.2 Nhà đầu tư 12

3.3 Các công tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán 12

3.4 Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán 13

4. Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán 15

4.1 Nguyên tắc công khai 15

4.2 Nguyên tắc đấu giá 15

4.3 Nguyên tắc trung gian 16

5. Cấu trúc và phân loại cơ bản của thị trường chứng khoán 16

5.1 Căn cứ vào sự luân chuyển nguồn vốn 16

5.2 Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường 17

5.3 Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường 18

Phần 2: Thị trường chứng khoán Việt Nam 18

I. Khái quát chung về thị trường chứng khoán Việt Nam 18

1. Sự cần thiết phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam 18

2. Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian qua 19

II. Thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam 21

1. Thuận lợi 22

2. Khó khăn 22

III. Một số nhận định của các nhà đầu tư về thị trường chứng khoán Việt Nam 24

IV. Một số giải pháp và ý kiến cá nhân để thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam 26

1. Cổ phần hoá doanh nghiệp 26

1.1 Giải pháp cho các DN còn gặp khó khăn về tài chính và quản lý 26

1.2 Giải pháp cho vấn đề lao động dôi dư trong DN sau khi tiến hành CPH 29

1.3 Giải pháp cho những tồn tại trong vốn để xác định giá trị doanh nghiệp 30

2. Đẩy mạnh phát triển thị trường trái phiếu 32

2.1 Cải cách quy trình đấu thầu trái phiếu 32

2.2 Xây dựng một thị trường trái phiếu chính phủ (TPCP) chuyên biệt 33

3. Tăng cường vai trò của cơ quan quản lý chứng khoán 34

4. Hoàn thiện hệ thống pháp luật 34

5. Các tổ chức trung gian 35

Kết luận 36

Bảng chữ viết tắt 37

Danh mục tài liệu tham khảo 38

 

docx33 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2308 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thị trường chứng khoán Việt Nam và giải pháp thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
qua các chủ sở hữu quỹ hay huy động trên thị trường thông qua phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư. Trên cơ sở số vốn đó và với phân tích của các chuyên gia chứng khoán quỹ đầu tư chứng khoán với lô lớn 3.3.3 Các trung gian tài chính Các trung gian tài chính khác cũng có thể trở thành các tổ chức kinh doanh chứng khoán khi nó mua chứng khoán nhằm mục đích đầu tư sinh lời. Chẳng hạn như các ngân hàng mua chứng khoán nhằm mục đích sinh lời, hơn nữa chứng khoán còn nhằm mục đích tạo tính thanh khoản cho các tàI sản của ngan hàng hay các công ty bảo hiẻm cũng vậy 3.4 Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán 3.4.1 Cơ quan quản lý nhà nước Cơ quan quản lý nhà nước được thành lập để quản lý hoạt động của thị trường chứng khoán có vai trò quan trọng nhất. Cơ quan này được thành lập với những tên gọi khác nhau, như tại Anh có uỷ ban đầu tư chứng khoán (SBI – securicties investment board ) hay tại Mỹ có uỷ ban chứng khoán và giao dịch chứng khoán ( SEC – securities and exchange commisson ). ở Việt Nam thì uỷ ban chứng khoán nhà nước được thành lập theo nghị định 75 của chính phủ ngày 28/11/96. 3.4.2 Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK) Sở giao dịch chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động mua bán chứng khoán. Sở giao dịch được tổ chức thành 3 hình thức Thứ nhất: SGDCK được tổ chức dưới hình thức “câu lạc bộ mini” hay được tổ chức theo chế độ hội viên. Đây là hình thức tổ chức SGDCK có tính chất tự phát. Trong hình thức này, các hội viên của SGDCK tự tổ chức và tự quản lý SGDCK theo pháp luật không có sự can thiệp của nhà nước. Các thành viên của SGDCK bầu ra hội đồng quản trị để quản lý và hội đồng quản trị bầu ra ban điều hành. Thứ hai: SGDCK được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần có cổ đông là công ty chứng khoán thành viên. SGDCK tổ chức dưới hình thức này hoạt động theo luật công ty cổ phần và chịu sự giám sát của một cơ quan chuyên môn về chứng khoán và thị trường chứng chứng khoán do chính phủ lập ra. Thứ ba: SGDCK được tổ chức dưới dạng một công ty cổ phần nhưng có sự tham gia quản lý và điều hành của Nhà nước. Cơ cấu tổ chức, điều hành và quản lý cũng giống như hình thức công ty cổ phần nhưng trong thành phần hội đồng quản trị có một số thành viên do Uỷ ban chứng khoán quốc gia đưa vào, giám đốc điều hành SGDCK do ủy ban chứng khoán bổ nhiệm. Thành viên của SGDCK có thể là cá nhân hoặc các công ty chứng khoán (còn gọi là công ty môi giới chứng khoán). Để trở thành thành viên của một SGDCK, công ty phải được cơ quan có thẩm quyền của nhà nước cấp giấy phép hoạt động, phải có số vốn tối thiểu theo quy định và có những chuyên gia kinh tế, pháp lý đã được đào tạo về phân tích và kinh doanh chứng khoán, ngoài ra công ty còn phải thoả mãn yêu cầu của từng sở giao dịch riêng biệt. Một công ty chứng khoán có thể là thành viên của hai hay nhiều SGDCK, nhưng khi đã là thành viên của SGDCK (thị trường chứng khoán tập trung) thì không được là thành viên của thị trường phi tập trung (thị trường OTC) và ngược lại. 3.4.3 Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán hoạt động với mục đích bảo vệ lợi ích cho các công ty thành viên nói riêng và cho toàn ngành chứng khoán nói chung. Hiệp hội này có một số các chức năng chính sau: - Khuyến khích hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng khoán. - Ban hành và thực hiện các quy tắc tự điều hành trên cơ sở các quy định pháp luật về chứng khoán. - Điều tra và giải quyết tranh chấp giữa các thành viên. - Tiêu chuẩn hoá các nguyên tắc và thông lệ trong ngành chứng khoán. 3.4.4 Các tổ chức ký gửi và lưu kí chứng khoán Tổ chức ký gửi và thanh toán chứng khoán là các tổ chức nhận lưu giữ các chứng khoán và tiến hành nghiệp vụ thanh toán bù trừ. 3.4.5 Các công ty dịch vụ máy tính chứng khoán Các công ty này cung cấp mạng máy tính và điều hành, sửa chữa mạng máy tính cho các sở giao dịch, các công ty chứng khoán…. 3.4.6 Các tổ chức tài trợ chứng khoán 3.4.7 Các tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm Các tổ chức này là các công ty chuyên đưa ra các đánh giá về tình hình và triển vọng của các công ty khác dưới dạng các hệ số tín nhiệm. Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán 4.1 Nguyên tắc công khai Theo nguyên tắc này tất cả các hoạt động của thị trường chứng khoan, các văn bản pháp luật, các tài liệu về các công ty niêm yết , báo cáo kết quả kinh doanh dưới hình thức bản cáo bạch của công ty này đều phải được công bố rộng rãi công khai không có sự che giấu thông tin. 4.2 Nguyên tắc đấu giá Khi phát hành hay bán một số lượng lô lớn cổ phiếu thì phải thực hiện đấu giá trên thị trường 4.3 Nguyên tắc trung gian Hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường đều được thực hiện thông qua các trung gian Cấu trúc và phân loại cơ bản của thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau, mỗi tiêu thức có một sự phân chia khác nhau. 5.1 Căn cứ vào sự luân chuyển nguồn vốn Thị trường chứng khoán được phân làm hai loại 5.1.1 Thị trường cấp 1: là thị trường tài chính trong đó diễn ra các hoạt động mua bán chứng khoán đang phát hành hay chứng khoán mới phát hành lần đầu. Các loại hàng hoá như cổ phiếu, trái phiếu của công ty và của chính phủ khi mới phát hành đều được đem bán ở thị trường này. Việc mua bán chứng khoán trên thị trường cấp 1 thường được tiến hành thông qua các trung gian đó là ngân hàng. Ngân hàng này thường được xem như là ngân hàng đầu tư hay ngân hàng bảo hiểm cho việc phát hành thông qua việc bảo đảm giá cố định của chứng khoán trong qua trình phát hành 5.1.2 Thị trường cấp 2: là thị trường mua bán các chứng khoán đã phát hành. Khi một cá nhân mua chứng khoán ở thị trường cấp 2 thì cá nhân, người vừa bán nó nhận được tiền bán chứng khoán nhưng công ty phát hành chứng khoán lần đầu tiên không thu được tiền nữa. Một công ty mua được vốn chỉ khi chứng khoán đó được bán lần đầu trên thị trường cấp 1. Việc mua bán ở thị trường cấp 2 thường được thực hiện thông qua các công ty môi giới Thị trường cấp 2 thực hiện 2 chức năng sau Thứ nhất nó tạo điều kiện để bán chứng khoán nhằm thu tiền mặt tức là nó đảm bảo cho những chứng khoán này có tính lỏng thêm. Tính lỏng thêm của những chứng khoán làm chúng được ưa chuộng hơn và như thế là dễ dàng hơn cho công ty phát hành bán chúng ở thị trường cấp 1 Thứ hai thị trường cấp 2 xác định giá của chứng khoán mà công ty phát hành bán ở thị trường cấp 1. Những hãng mua các chứng khoán ở thị trường cấp một sẽ chỉ thanh toán cho công ty phát hành với giá mà họ cho rằng thị trường cấp 2 sẽ chấp nhận nó 5.2 Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường Thị trường cũng được chia làm 2 loại, đây cũng có thể coi là cách phân loại của thị trường cấp 2 5.2.1 Thị trường tập trung ( sở giao dịch chứng khoán ) Là nơi mà người mua và bán (hoặc các đại lý môI giới của họ) gặp nhau tại một vị trí trung tâm để tiến hành mua bán. Ví dụ như thị trường giao dịch chứng khoán Mỹ và NewYork là nơI giành cho cổ phiếu và phòng thương mại Chicago giành cho hàng hoá là ví dụ về giao dịch có tổ chức. Như trên trình bày thì sở giao dịch chứng khoán hiện nay có 3 hình thức tổ chức 5.2.2 Thị trường phi tập trung ( thị trường OTC - over the counter market) Thị trường phi tập trung hay thị trường trao tay trong đó các nhà buôn bán tại các địa đIểm khác nhau có một danh mục chứng khoán và đứng ra sẵn sàng mua và bán chứng khoán theo kiểu mua bán thẳng cho bất kỳ ai đến cới họ, có ý định chấp nhận giác của họ. Do những nhà buôn bán thẳng có tiếp xúc với nhau qua mạng máy tính và biết giá của nhau nên thị trường kiểu này có tính cạnh tranh cao và không khác nhiều so với thị trường ở trung tâm giao dịch nói trên 5.3 Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường 5.3.1 Thị trường trái phiếu Thị trường trái phiếu là thị trường giao dịch và mua bá các trái phiếu đã được phát hành, các trái phiếu này bao gồm tráI phiếu công ty, trái phiếu đô thị và trái phiếu chính phủ 5.3.2 Thị trường cổ phiếu Thị trường cổ phiếu là thị trường giao dịch và mua bán các loại cổ phiếu, bao gồm cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi 5.3.3 Thị trường các công cụ phái sinh Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đI bán lại các chứng từ tài chính khác như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn… Phần 2: Thị trường chứng khoán Việt Nam Khái quát chung về thị trường chứng khoán Việt Nam Sự cần thiết phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam Do chúng ta xuất phát điểm từ 1 nước nghèo nhưng kể từ sau đổi mới 1986 nền kinh tế đã có nhưng bước chuyển biến rất nhanh do đó nhu cầu vốn đầu tư tẳng cao. Trong khi đó, quá trình CNH, HĐH lại đòi hỏi ngay một khối lượng khổng lồ vốn dài hạn: trong năm năm 1991-1995, để có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 2,8% năm cần 18,6 tỉ USD; thời kì 1996-2000, để đạt được tốc độ tăng trưởng 9 - 9,5% năm thì dự tính vốn đầu tư đã tăng hơn 2,2 lần, khoảng 40 - 45 tỉ USD; với quy mô như vậy ước tính đến năm 2020 vốn đầu tư là 500 - 600 tỉ USD. Do đó việc phát triển thị trường chứng khoán là 1 trong những giải pháp huy động vốn cho các mục tiêu phát triển kinh tế xã hôi đồng thời giúp nhân dân có thể mở rộng danh mục đầu tư. Ngoài ra sự hình thành thị trường chứng khoán còn có các lý do sau Sự hình thành của thị trường chứng khoán là một kênh huy động vốn cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất kinh doanh trong đIều kiện nên kinh tế Việt Nam đang ngày cang phát triển và mở rộng hội nhập như hiện nay Dưới góc độ vĩ mô thì sự hình thành thị trường chứng khoán tạo ra một thị trường tài chính hoàn thiện hơn với chúng ta đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động cuả thị trường tàI chính Một thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả là cơ sở giúp hoạch định các chính sách kinh doanh trong tường lai, đưa ra các dự báo chính xác đồng thời giúp nhà nước quản lý vĩ mô với đầu tư thông qua các chính sách với thị trường chứng khoán. Bởi trong một nền kinh tế thị trường chứng khoán là thị trường phát triển bậc cao nhất Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian qua Thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn khá nhỏ khi so sánh với vá tiêu chuẩn của Đông Nam á Bảng thị trường chứng khoán nhỏ 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Tài khoản giao dịch cá nhân Tài khoản giao dịch tổ chức Chứng khoán được niêm yết Tập trung vốn trên thị trường 2870 38 5 8703 71 10 13398 122 20 15569 166 26 2.3 21402 193 26 3.8 24000 250 30 5.9 Khối lượng mua bán 3641 19028 35798 28024 72894 82300 Nguồn: UBCKNN. Đơn vị tiền tệ tính bằng nghìn tỷ Với 2 trung tâm giao dịch chính thức ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh hoạt động như các đơn vị kinh doanh trực thuộc uỷ ban chứng khoán nhà nước (UBCKNN). Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu hoạt động tháng 7 năm 2000 với chỉ 2 công ty yết danh. Đến giữa năm 2005 công ty này chỉ có 30 công ty và 249 trái phiếu phát hành cùng với 1 quĩ đóng được yêt danh trên thị trường vào cuối năm 2005. Tổng lượng vốn trên thị trường 5900 tỷ với chứng khoán yết danh và 33700 tỷ tráI phiếu phát hành và 300 tỷ với quỹ đầu tư. Trung tâm giao dịch ở Hà Nội được thành lập thang 3 năm 2005. các công ty có thể được yết danh trên thị trường giao dịch chứng khoán Hà Nội nếu có ít nhất 5 tỷ đồng vốn pháp định và 50 cổ đông và làm ăn có lãi trong năm trước. Hoạt động của thị trường thứ cấp đối với các trái phiếu yết danh vẫn chưa bắt đầu ở Hà Nội nhưng đã chớm bắt đầu ở thành phố Hồ Chí Minh. Tính đến đầu năm 2006 giá trị giao dịch hàng ngày của trung tâm giao dịch thành phố Hồ Chí Minh vào khoảng 3.9 tỷ đồng cổ phiếu và 78.4 tỷ đồng trái phiếu Tính đến đầu năm 2006 trong số 30 công ty yết danh tại trung tâm giao dịch thành phố Hồ Chí Minh thì có đến 29 doanh nghiệp nhà nước thực hiện bán cổ phiếu ra ngoài thị trường trong kế hoạch cổ phần hoá trước khi chính thức yết danh. Rất ít công ty sử dụng thị trường chứng khoán làm cơ sở tăng vốn thông qua bán cổ phiếu ban đầu ra ngoàI thị trường. NgoàI ra, phần lớn các trung gian môI giới trên thị trường có quan hệ chặt chẽ với các tổ chức tàI chính nhà nước. Hiện tại thị trường có 13 công ty chứng khoán, 1 công ty quản lý ngân quỹ, 3 ngân hàng lưu kí chứng khoán và 1 ngân hàng thanh toán. Trong số 13 công ty chứng khoán thì có đến 7 công ty thuộc sở hữu của các ngân hàng thường mại. Trong khi đó một thị trường chứng khoán không chính thức (OTC) được phát triển mạnh mẽ hơn nhiều. Hiện tại thì giá trị của nó ứoc tính gấp 4 đến 5 lần giá trị của 2 trung tâm giao dịch chính thức. Thị trường OTC này được thực sự hình thành như một sản phẩm phụ của quá trình cổ phần hoá ngay cả trước khi trung tâm giao dich thành phố Hồ Chí Minh thành lập. Theo một ước tính có khoảng 30 ngân hàng cổ phần và 100 công ty cổ phần có cổ phiếu được giao dịch trên thị trường OTC Có hai nhóm trung gian hoạt động trên thị trường phi chính thức này. Loại thứ nhất chiếm 60 đến 80 môi giới chứng khoán độc lập, không có giấy phép. Một số buôn bán chứng khoán làm nghề phụ nhưng nghề chính là làm việc cho các tổ chức tài chính kể cả các công ty môi giới chính thức. Nhóm thứ hai gồm những nhà môi giới được cấp giáy phép môi giới ở bất kì một thị trường nào kể cả ơ trung tâm giao dịch chính thức và thị trường OTC. Hiện tại chính phủ đang nỗ lực thúc đẩy hoạt động của thị trường chứng khoán chính thức. Tháng 8/2005 chính phủ đã chỉ thị các doanh nghiệp nhà nứơc được cổ phần hoá nhanh chóng yết danh tại 2 trung tâm giao dịch chứng khoán. Ngoài ra thị chính phủ cũng đã cam kết hỗ trợ thành lập và phát triển các quỹ đầu tư trong nước và nước ngoài. Tháng 9/2005 nhóm các tổ chức và cá nhân nước ngoàI có thể giữ tới 49% tổng số cổ phần của một công ty so với 30% như trước đây.Mặc dù đây là những bước tiến đáng khích lệ trong thời gian gần đây nhưng để hiểu tại sao thị trường OTC lại phát đạt trong khi thị trường chính thức lại suy yếu hơn cần xem xét trên 3 khía cạnh chủ yếu sau: Phạm vi và tính chất của các công ty có chứng khoán được giao dịch, mức độ công khai thông tin về tình hình hoạt động của các công ty này, các nguyên tắc chỉ đạo với trung gian thị trường. (Theo báo cáo phát triển Việt Nam 2006) Thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam Thuận lợi Có thể nói thuận lợi đầu tiên và cũng là một ưu điểm ở Việt Nam đó là có một nền chính trị ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty phát triển ổn định. Hơn nữa nền kinh tế nước ta đang trong thời gian cất cánh, tức là một nền kinh tế đang trên đà phát triển với tốc độ tăng trưởng thực tế trong những năm gần đây bình quân là hơn 8% tạo những đIều kiện vĩ mô cho thị trường chứng khoán phát triển và việc phát triển thị trường chứng khoán cũng là một yêu cầu cần thiết với sự phát triển của nền kinh tế nước ta. Thuận lợi thứ hai với chúng ta đó là chính sách cổ phần hoá các doanh nghiệp của nhà nước. Sau một thời gian dàI nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động không thật sư hiệu quả và để đáp ứng yêu cầu nền kinh tế thị trường thì nhà nước đã thực hiện chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp trong đó thực hiện trước tiên với các doanh nghiệp nhà nước là thuận lợi cho sự phát triển của thị trường chứng khoán Thuận lợi thứ ba với sự phát triển của thị trường chứng khoán là mội trường đầu tư của Việt Nam ngày càng cải thiện và chúng ta đã thu hút được một lượng lớn đầu tư nước ngoài trong thời gian qua cùng với chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của chính phủ thì sự phát triển của thị trường chứng khoán là cần thiết đồng thời với việc đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoàI thông qua thị trường chứng khoán sẽ làm thị trường chứng khoán phát triển nhanh và lành mạnh. Thứ tư nữa là quá trình phát triển kinh tế nước ta trong thời gian qua đã hình thành nên một hệ thống các ngân hàng thường mại, các tổ chức tín dụng, quỹ đầu tư . Đây là các tác nhân quan trọng cho sự phát triển của thị trường chứng khóan. Và đặc biệt với việc gia nhâp WTO ngày 9/11 vừa qua thì thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ có nhiều thuận lợi để phát triển. Khó khăn Bên cạnh những thuận lợi thì khó khăn với sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam còn rất nhiều. Khó khăn trước tiên và cũng là khó khăn của hầu hết các nước đang phát triển khi mới phát trỉên thị trường chứng khoán đó là thu nhập của đại bộ phận dân chúng còn thấp, chênh lệch giữa tiết kiệm và thu nhập cao. Chính do thu nhập thấp mà đại bộ phận dân chúng sau khi đã chi tiêu thì số dư còn lại từ thu nhập là không đáng kể nên việc đầu tư vào chứng khoán của người dân là rât ít. Cũng vì phần dư của thu nhập sau khi chi tiêu còn ít mà hơn nữa đầu tư vào chứng khoán còn có nhiều rủi ro, cộng với kiến thức của người dân về chứng khoán chưa nhiều nên phần lớn tiền của họ gửi vào tiết kiệm. Điều này sẽ làm giảm sự phát triển của thị trường chứng khoán Khó khăn thứ hai đối với thị trường chứng khoán đó là không có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. Một số văn bản pháp quy, các luật có liên quan, chi phối hoạt động hoặc có ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán đã ban hành nhưng trong phần nội dung còn nhiều bất cập, mâu thuẫn với hệ thống pháp lý về thị trường chứng khoán. Luật về thị trường chứng khoán vẫn còn trong dự thảo Khó khăn thứ ba cho sự phát triển của thị trường chứng khoán là mới thành lập được khoảng 7 năm, đây là một quãng thời gian tương đối dài nhưng những nhà đầu tư tham gia trên thị trường chứng khoán còn nhiều người chưa có đầy đủ kiến thức về chứng khoán, do đó mà dẫn đến một quá trình đầu tư theo phong trào. Điều đó dẫn đến việc thị trường không thật sự phản ánh đúng chất lượng của mỗi loại cổ phiếu và trái phiếu Có thể nói thị trường chứng khoán Việt Nam còn nhiều nhiều khó khăn bên cạnh những thuận lợi khách quan. Do đó chúng ta cần chuẩn bị và tạo ra mọi đIều kiện để thị trường chứng khoán cỏ thể phát triển lành mạnh đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước Một số nhận định của các nhà đầu tư về thị trường chứng khoán Việt Nam Hầu hết các nhà đầu tư nhận định rằng thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay qua ít hàng hoá và bị khống chế bởi sự quản lý hành chính của nhà nước, nên chăng giảm nhẹ những chỉ tiêu và điều kiện để được niêm yết trên thị trường chứng khoán, có như vậy thị mới tạo ra được nhiều hàng hoá cho thị trường, từ đó tạo điều kiện tốt nhất cho nhà đầu tư lựa chọn hàng hoá tốt nhất cho mình và phân tán rủi ro Nhận định thứ hai khá phổ biến đó là tiến trình xây dựng các sở giao dịch ở các địa phương còn quá chậm. Hiện nay mới chỉ có trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, do vậy làm hạn chế những nhà đầu tư ở các địa phương khác muốn tham khảo các tàI liệu, bản cáo bạch và mua cổ phiếu của các công ty hiện đang niêm yết và trong tương lai sẽ niêm yết trên sàn. Tuy nhiên các nhà đầu tư cũng nhận định rằng việc phát triển thị trường chứng khoán ở hai trung tâm giao dịch trên là hợp lí và cũng phù hợp với sự phát triển của nền kinh tê. Trung tâm giao dịch đầu tiên được thành lập trong thành phố Hồ Chí Minh nơi có nền kinh tế phát triển năng động nhất Việt Nam, đây sẽ là nơI thích hợp cho sự phát triển thử nghiệm với thị trường chứng khoán vì thị trường tàI chính ở đây khá phát triển. Sau đấy là tới trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội được thành lập và năm ngoài. Đó cũng là bước đi quan trọng và hợp lí cho sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam vì đây là trung tâm kinh tế thứ hai của đất nước. Có chằng là khoảng thời gian để thành lập trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội cách qua xa thời gian thành lập trung tâm giao dịch thành phố Hồ Chí Minh, có cần một khoảng thời gian thử nghiệm dài như vậy để thành lập một trung tâm giao dịch thứ hai không? Một vấn đề thứ ba trên thị trường chứng khoán đó là các thông tin trên thị trường đã thật sự phản ánh đúng tình hình phát triển của thị trường chưa. Đầu năm 2006 chỉ số VN index đã lên một mức rất cao hơn 500 điểm, thị trường rất sôi động nhưng tại sao lại như vậy? Phải chăng các công ty đang trên đà phát triển? Nhưng tại sao chỉ ngay sau đó khoảng 2 tháng chỉ số lại tụt rất nhanh, điều này cho thấy sự phát triển của thị trường không lành mạnh. theo các nhà đầu tư thì tình trạng sôi động cuả thị trường là ảo, chỉ số VN index trong thời gian đó không phản ánh đúng sự phát triển của thị trường. Sự sôi động đó là do cầu về chứng khoán vượt quá cung làm giá các chứng khoán tăng cao nên dẫn đến chỉ số VN index tăng rất nhanh. Điều này rất có thể làm cho thị trường chứng khoán sụp đổ. Một nhân định khác về phía các nhà đầu tư là họ đầu tư nhiều lúc là theo phong trào, không có sự phân tích về chứng khoán do đó cũng dẫn đến tình trạng giá của một loại chứng khoán nào đó lên cao mà không phản ánh đúng tình trạng kinh doanh của công ty phát hành Hay tình trạng các quan chức tài chính còn can thiệp qua sâu và thị trường. Lấy một trường hợp ví dụ như sau khi ông phó chủ tịch ủy ban chứng khoán nhà nước tuyên bố kể từ nay thị họ sẽ không can thiệp biện pháp hành chính vào thị trường chứng khoán nữa nhưng ngay sau đó chính phủ phát hành công trái giáo dục kèm theo văn bản quyết định :” cấm mọi tổ chức, cá nhân mua lại công trái giáo dục này dưới 90% mệnh giá sau 1 năm, 100% sau 2 năm do ông bộ trưởng tài chính ký”. Giá cả trên thị trường chứng khoán là “thuận mua vừa bán” chứ đâu phải “cấm” hay “không cấm” Có thể thấy theo nhận định của các nhà đầu tư về thị trường chứng khoán thì thị trường chứng khoán Việt Nam còn nhiều khuyết tật cần khắc phục bên cạnh những thành công đã đạt được. Do đó cần có những biện pháp cần thiết từ phía chính phủ và các bên tham gia thị trường chứng khoán cho sự phát triển của thị trường để thật sự đây là một kênh huy động vốn hiệu quả cho các doanh nghiệp nói chung và nền kinh tế nói riêng. Một số giải pháp và ý kiến cá nhân để thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam Cổ phần hoá doanh nghiệp Cổ phần hoá doanh nghiệp là một biện pháp quan trọng để tăng tính tự chủ của doanh nghiệp đồng thời đây là đIều kiện để phát triển thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán cuả Việt Nam đang trong thời gian phát triển, hàng hoá trên thị trường không nhiều, chưa đáp ứng yêu cầu đầu tư của nhà đầu tư. Với việc cổ phần hoá doanh nghiệp sẽ tạo ra nhiều doanh nghiệp cổ phần và các doanh nghiệp này se niêm yết trên thị trường chứng khoán. Điều này sẽ làm cho hàng hoá trên thị trường chứng khoán đa dạng hơn và hấp dẫn nhà đầu tư hơn. Như vậy nó sẽ tạo điều kiện phát triển thị trường chứng khoán để đây là một kênh huy động vốn hiệu quả và tăng tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp vì giờ đây các doanh nghiệp đã tự chủ trong sản xuất kinh doanh nên mục tiêu cao nhất của doanh nghiệp là lợi nhuận, tối đa hoá giá trị tàI sản của chủ doanh nghiệp là mục tiêu của mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Điều đó sẽ tạo điều kiện để thị trường chứng khoán phát triển lành mạnh, là một thi trường tài chính phát triển cao nhất của nền kinh tế. Và thực tế thì cổ phần hoá đã được nhà nước ta thực hiện từ năm 1992 với một số doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, kinh doanh có lãi và tự nguyện cổ phần hoá để thực hiện thí điểm. Và trong năm 2004 nhà nước ta đã đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước để có thể đáp ứng các điều kiện của một nền kinh tế thị trường.Trong thời gian gần đây khi mà chúng ta đã gia nhập WTO thì cổ phần hoá lại càng là một yêu cầu cần thiết để phát triển doanh nghiệp noi chung cũng như thị trường chứng khoán nói riêng. Cụ thể một số biện pháp cổ phần hoá 1.1 Giải pháp cho các DN còn gặp khó khăn về tài chính và quản lý Theo tin từ ban CPH DNNN thì nhà nước đã có chủ trương phân loại DNNN thành 4 nhóm. - Nhóm DN làm ăn có hiệu quả. - Nhóm DN có khó khăn về tài chính. - Nhóm DN có khó khăn về quản lý, giá thành sản xuất lên cao. - Nhóm DN thua lỗ kéo dài (từ 3 năm trở nên). Ba nhóm đầu thuộc diện CPH, còn nhóm thua lỗ kéo dài, Nhà nước sẽ áp dụng các biện pháp sáp nhập với các đơn vị khác rồi CPH, đấu thầu cho thuê, bán cho cán bộ công nhân viên chức trong và ngoaì DN, thực hiện biện pháp khoán hoặc cho phá sản. Những biện pháp nói trên có áp dụng cho nhóm 4 theo tôi là hợp lý. Tuy nhiên, nhiều biện pháp trong số đó như khoán kinh doanh, cho thuê vẫn còn nhiều mới mẻ. Do đó cơ sở pháp lý cho chúng vẫn chưa hoàn thiện. Song nếu các biện pháp khoán kinh doanh cho thuê mà thành công thì đây sẽ được coi là những giải pháp quá độ có nhiều tác dụng thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả SXKD của các DNNN để tiến tới CPH. Còn đối với các DNNN gặp khó khăn về tài chính thì việc thành lập quỹ hỗ trợ CPH sẽ là một giải pháp quan trọng. Nhiệm vụ và vai trò của quỹ CPH không chỉ giới hạn ở việc hỗ trợ cho các DN gặp khó khăn về tài chính. Tuy nhiên hỗ trợ tài chính cho các DN vẫn là một trong những chức năng chính của quỹ này. Nguồn vốn của quỹ có thể hình thành từ 3 nguồn chính. - Tiền thu từ việc bán cổ phiếu thuộc vốn nhà nước tại DN. - Vốn trợ cấp từ NSNN. - Vốn tài trợ lần đầu của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước (chủ yếu là vốn vay ưu đãi). Ngoài ra còn có thể là những khoản thu từ việc thanh lí tài sản trong DNNN khi tiến hành CPH. Hoạt động hỗ trợ của quỹ có thể được thực hiện dưới một số hình thức sau: - Kế thừa hoặc mua lạ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxThị trường chứng khoán Việt Nam và giải pháp thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán.docx
Tài liệu liên quan