Đề án Thúc đẩy xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam sang thị trường Mỹ

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 3

Chương I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU ĐỒ GỖ VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ 4

1.1. Tầm quan trọng xuất khẩu đồ gỗ ở Việt Nam 4

1.1.1 Khái niệm và các hình thức xuất khẩu hàng hóa 4

1.1.1.1 Khái niệm 4

1.1.1.2 Các hình thức xuất khẩu hàng hóa. 4

1.1.2 Sự cần thiết xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam 6

1.1.3. Vai trò của xuất khẩu đồ gỗ ở Việt Nam 7

1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đễn xuất khẩu đồ gỗ ở Việt Nam 8

1.2.1 Các nhân tố thuộc môi trường trong nước 8

1.2.1.1 Nguồn nguyên liệu đầu vào phụ thuộc vào nhập khẩu 8

1.2.1.2 Vấn đề tài chính 10

1.2.1.3 Lực lượng lao động của ngành công nghiệp đồ gỗ 11

1.2.1.4 Công nghệ chế biến gỗ còn lạc hậu 12

1.2.2. Các nhân tố ngoài nước 13

1.3. Thị trường đồ gỗ Mỹ 15

1.3.1 Tổng quan về thị trường Mỹ 15

1.3.1.1 Mỹ là thị trường lớn nhất toàn cầu. 15

1.3.1.2 Tiêu chuẩn đối với hàng hóa nhập khẩu vào Mỹ 17

1.3.2. Thị trường đồ gỗ Mỹ 18

1.3.2.1 Đặc điểm thị trường đồ gỗ Mỹ 18

1.3.2.2 Nhu cầu và thị hiếu sản phẩm đồ gỗ Mỹ 19

1.3.2.3. Những nhà cung cấp của thị trường đồ gỗ Mỹ. 20

1.3.2.4 Những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam vào thị trường Mỹ. 20

1.4. Kinh nghiệm thúc đẩy xuất khẩu đồ gỗ của một số nước vào thị trường Mỹ 23

1.4.1 Trung quốc 23

1.4.2. Malaysia 23

Chương II : THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU ĐỒ GỖ VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ 25

2.1. Tổng quan về xuất khẩu đồ gỗ trong giai đoạn hiện nay. 25

2.1.1 Ngành công nghiệp đồ gỗ trong giai đoạn hiện nay. 25

2.1.1.1 Quy mô của ngành đồ gỗ 25

2.1.1.2 Chất lượng, mẫu mã, giá cả. 26

2.1.1.3 Các lỗ lực thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm 27

2.1.2 Thực trạng xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam 29

2.2 Phân tích thực trạng xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam sang thị trường Mỹ. 33

2.2.1 Kim ngạch xuất khẩu. 33

2.2.2 Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu. 36

2.3 Chính sách hỗ trợ xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam 37

2.4 Đánh giá về thực trạng xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam sang

thị trường 39

2.4.1 Những kết quả 39

2.4.2 Những hạn chế và nguyên nhân. 41

Chương III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU ĐỒ GỖ VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ 44

3.1 Dự báo về thị trường đồ gỗ Mỹ 44

3.1.1 Số lượng 44

3.1.2 Xu hướng, thị hiếu và kiểu cách mẫu mã . 45

3.2. Mục tiêu và phương hướng phát triển xuất khẩu đồ gỗ

trong giai đoạn 2005-2010 và 2010-2020 46

3.2.1 Mục tiêu chung 46

3.2.2 Mục tiêu và định hướng phát triển xuất khẩu trong

giai đoạn 2005-2010 và 2010- 2020 47

3.3. Biện pháp thức đẩy xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam sang

thị trường Mỹ 48

3.3.1. Từ phía nhà nước 48

3.3.2. Từ phía doanh nghiệp 51

KẾT LUẬN 57

TÀI LIỆU THAM KHẢO: 58

 

 

doc58 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4164 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thúc đẩy xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam sang thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ột của Việt Nam và cũng là thị trường Việt Nam xuất siêu lớn nhất. Năm 2007, Việt Nam xuất siêu vào Hoa Kỳ 8 tỷ USD, trong khi cả nước nhập siêu 12,4 tỷ USD.  Các nhân tố khác Dự luật nông nghiệp Farm Bill được quốc hội Hoa Kỳ thông qua áp dụng sẽ có khả năng ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ năm 2009 trong hoạt động xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ khi thắt chặt hơn việc quản lý nguồn gốc của sản phẩm. Ngoài ra Hoa Kỳ cũng đòi hỏi các nhà xuất khẩu phải có chứng nhận FSC, một tiêu chuẩn khắt khe và không dễ áp dụng đối với thực trạng trồng rừng tại Việt Nam. Trong năm 2009, việc đáp ứng tất cả các yêu cầu và tiêu chuẩn mới do Hoa Kỳ đưa ra đối với gỗ và sản phẩm sẽ gây cản trở lớn cho hoạt động xuất khẩu.      Sự chênh lệch về cung và cầu ngoại tệ sẽ trong nước sẽ gây áp lực làm tăng giá đồng USD khoảng 3-6% so với VND. Đây sẽ là yếu tố chính trong số ít những yếu tố có tác động tích cực, là động lực khuyến khích tăng xuất khẩu nông lâm thủy sản nói chung và ngành hàng gỗ nói riêng của Việt Nam sang Hoa Kỳ. Tuy nhiên, tác động này không đủ lớn để làm tăng xuất khẩu gỗ lên do có nhiều yếu tố khác tác động mạnh hơn theo chiều hướng tiêu cực. Nhìn chung năm 2009, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang Hoa Kỳ sẽ giảm mạnh và chỉ có thể phục hồi khi nền kinh tế Hoa Kỳ đã có dấu hiệu vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ.      Tại Hoa Kỳ,đạo luật Lacey vừa được ban hành,bát đầu có hiệu lực vào cuối năm nay,căn cứ theo đó,hành động lấy gỗ,khai thác sở hữu,vận chuyển hoặc xuất khẩu vi phạm quy định của bất kỳ quốc gia nào cũng được xem là vi phạm ở Hoa Kỳ.Nguyên liệu gỗ Việt Nam chủ yếu nhập từ Thái Lan,Myanmar…thường không rõ ràng về nguồn cung cấp,nhiều khả năng có thể bị chính phủ nước này tịch thu hàng,phạt tiền hay thậm chí bỏ tù theo luật mới sửa đổi của Hoa Kỳ.   Hơn nữa một loạt các nước xuất khẩu vào Mỹ đang có dấu hiệu giảm sút thị phần. Trung Quốc và Canada thì đang chịu mức thuế chống phá giá nên một số mặt hàng khó cạnh tranh về giá với sản phẩm từ Việt Nam. Ngay cả Mehico cũng giảm. Indonesia, nước đứng thứ 8 trong các quốc gia xuất khẩu đồ gỗ vào Mỹ với 2% thị phần, cũng chuyển hướng sang thị trường khác do chất lượng khó cạnh tranh với các nước “chiếu trên”.Hoa Kỳ đang có xu hướng chuyển đối tác hợp tác làm ăn nguyên nhân chủ yếu có thể do Trung Quốc đang trở thành đối thủ chiến lược của Hoa Kỳ. Thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ với Trung Quốc đã lên tới mức kỷ lục (200 tỉ USD trong năm qua). 1.4. Kinh nghiệm thúc đẩy xuất khẩu đồ gỗ của một số nước vào thị trường Mỹ 1.4.1 Trung quốc Số liệu gần đây nhất của Cơ quan Thống kê Liên hiệp quốc (Comtrade) cho thấy, Trung Quốc (tính cả Hồng Kông và Ma cao) đã vượt qua Italia để trở thành thị trường xuất khẩu đồ gỗ lớn nhất thế giới trong năm 2005.Với sự trợ giúp của chính phủ, việc đầu tư vào các công xưởng và vận tải đã góp phần dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của ngành chế tạo các sản phẩm gỗ có giá trị cao, đặc biệt là đồ gỗ. Trong thập kỷ qua, kim ngạch xuất khẩu gồ gỗ của Trung Quốc ước đạt mức tăng trưởng bình quân 34%/năm. Trung Quốc đã trở thành nước cung ứng đồ gỗ lớn nhất cho thị trường Mỹ.Lợi thế đối với ngành gỗ Trung Quốc là chi phí nhân công rẻ có thể bù đắp cho sự gia tăng chi phí nguyên liệu, năng lượng và vận tải.Tuy nhiên, nguyên liệu cho ngành gỗ xuất khẩu của Trung Quốc chủ yếu là do nhập khẩu,không có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng,không đáp ứng được yêu cầu chất lượng và vệ sinh an toàn của hàng hóa nên khi Mỹ có những quy định chặt chẽ hơn,thì doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ của Mỹ đã gặp không ít khó khăn. Bài học rút ra đối vỡi việt Nam là phải biết tận dụng nguồn nguyên liệu,nhân công giá rẻ và cung ứng đa dạng hơn các chủng loại,quy cách sản phẩm.Ngoài ra các doanh nghiệp Việt Nam phải nắm thật kỹ những yêu cầu và quy định về xuất khẩu vào Mỹ để tránh bị kiện hay bị phạt. 1.4.2. Malaysia Malaysia hiện là nước xuất khẩu đồ gỗ lớn nhất châu Á với tổng kim ngạch từ đầu năm đến nay khoảng 2 tỉ USD. Tuy nhiên, sản phẩm gỗ của Malaysia chủ yếu làm từ gỗ cao su, trong khi theo tham tán thương mại Mỹ tại Kuala Lumpur, thị trường Mỹ và châu Âu cần những sản phẩm chất lượng cao hơn và làm từ gỗ cứng. Năm 2006, Malaysia chiếm 11% tỷ trọng gỗ nhập khẩu của Mỹ. John Chan, giám đốc phụ trách khu vực Đông Nam Á và Trung Quốc của AHEC cho rằng, do Việt Nam đang nhanh chóng trở thành đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Malaysia tại khu vực ASEAN (Hiệp hội Các nước Đông Nam Á), Malaysia cần phải cải thiện chất lượng các sản phẩm đồ gỗ xuất khẩu. Theo ông John Chan, Việt Nam đã vượt qua Malaysia trở thành nước nhập khẩu gỗ cứng hàng đầu của Mỹ tại ASEAN với kim ngạch ước đạt 50 triệu USD năm 2006, cao hơn so với mức bình quân 32 triệu USD/năm trong 3 năm qua của Malaysia. Mặc dù đồ gỗ Malaysia đứng đầu khu vực với kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 7 tỷ Ringgit (1,97 tỷ USD) năm 2006, đồ gỗ Việt Nam cũng đang nhanh chóng tiến gần tới mức này. Theo Jonathan Gressel, Đại sứ Mỹ tại Kuala Lumpur, Malaysia cần phải tìm được chỗ đứng thích hợp tại thị trường Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) qua việc cải thiện chất lượng sản phẩm, có định hướng rõ ràng về nguồn cung gỗ cứng từ nước ngoài và ngành đồ gỗ không nên chỉ dựa vào nguồn nguyên liệu gỗ cao su. Ông Chan cũng cho rằng, giá trị các sản phẩm đồ gỗ của Malaysia sẽ tăng lên nếu Malaysia biết kết hợp nguồn nguyên liệu gỗ cao su với nhiều chủng loại gỗ cứng khá Chương II : THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU ĐỒ GỖ VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ 2.1. Tổng quan về xuất khẩu đồ gỗ trong giai đoạn hiện nay. 2.1.1 Ngành công nghiệp đồ gỗ trong giai đoạn hiện nay. 2.1.1.1 Quy mô của ngành đồ gỗ 10 năm qua, Việt Nam đã có khá nhiều cụm công nghiệp chế biến gỗ quy mô tương đối lớn ở Bình Dương, Đồng Nai, TP. Hồ Chí Minh, Quảng Nam... với 2.526 doanh nghiệp năm 2007 , trong đó chủ yếu là các DN dân doanh (1.961 DN), thu hút khoảng 170.000 lao động. Chủ tịch Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam cho biết, công nghiệp chế biến gỗ của Việt Nam đã thu hút mạnh mẽ dòng vốn đầu tư từ các nước vào Việt Nam. Hiện nay cả nước có 410 dự án đầu tư nước ngoài vào ngành chế biến gỗ, trong đó có hơn 300 dự án đã thực hiện với vốn đầu tư hơn 1 tỷ USD. Chỉ tính trong năm 2006, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong chế biến gỗ đã đóng góp hơn 50% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ 1,93 tỷ USD. Bình Dương, nơi đóng góp gần 40% kim ngạch xuất khẩu gỗ cả nước, có tới 369 doanh nghiệp chế biến gỗ; trong đó có 194 doanh nghiệp nước ngoài với vốn đầu tư hơn 700 triệu USD.Các doanh nghiệp trong nước cũng tăng cường quy mô sản suất với những tên tuổi được nhiều nhà nhập khẩu nước ngoài biết tới như Khải Vy, Trường Thành, Tiến Đạt, Đại Thành, Tiến Triển. Công ty TNHH Khải Vy từ 2 nhà máy ở TPHCM và Bình Định đã đầu tư nâng lên 4 nhà máy, sử dụng 4.800 công nhân, xuất khẩu mỗi tháng hơn 500 container đồ gỗ và đang đàm phán mua thêm một nhà máy trị giá 25 triệu USD. Trong danh sách 10 doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ hàng đầu Việt Nam hiện nay có nhiều doanh nghiệp 100% vốn trong nước, đã chứng tỏ sự vươn lên của các doanh nghiệp chế biến gỗ trong nước vốn lâu nay thường bị xem là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nói đến công nghiệp đồ gỗ thì không thể không nhắc đến các làng nghề truyền thống của Việt Nam.Hiện nay cả nước có khoảng 342 làng nghề gỗ mỹ nghệ, trong đó có những làng nghề lớn như Vân Hà (Hà Nội), Hữu Bằng, Dư Dụ, Vạn Điểm, Chuyên Mỹ, Nhị Khê (Hà Tây), Bích Chu (Vĩnh Phúc), Đồng Kỵ (Bắc Ninh), Đông Giao (Hải Dương), Đồng Minh (Hải Phòng), La Xuyên (Nam Định), Kim Bồng (Quảng Nam).v.v. Không chỉ được đánh giá cao về chất lượng, các sản phẩm gỗ mỹ nghệ của Việt Nam còn phong phú về mẫu mã, chủng loại, phục vụ cho mọi nhu cầu đa dạng của cuộc sống từ đồ trang trí nội thất như bàn, ghế, tủ, đèn... đến các loại tượng, đồ trang sức, đồ dùng nhà bếp. Sản phẩm gỗ mỹ nghệ của Việt Nam đã có mặt ở thị trường hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, góp phần mang lại kim ngạch xuất khẩu hàng trăm triệu USD/năm. Nhìn chung quy mô của các xí nghiệp sản xuất đồ gỗ xuất khẩu là các xí nghiệp vừa và nhỏ, sản xuất kết hợp giữa thủ công và cơ khí. Các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng đồ gỗ công nghiệp thường có sự đầu tư mới về các trang thiết bị và công nghệ tiên tiến phục vụ sản xuất, trong khi đó đại bộ phận các doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ có hệ thống thiết bị khá lạc hậu, không đáp ứng được yêu cầu của các đơn hàng lớn hay các thị trường yêu cầu chất lượng cao. 2.1.1.2 Chất lượng, mẫu mã, giá cả. Đa số sản phẩm gỗ của Việt Nam là sản phẩm có chất lượng trung bình,hướng tới nhóm sản phẩm bình dân giá thấp. Tuy nhiên theo nhiều doanh nghiệp xuất khẩu gỗ tính toán, do chi phí đầu vào quá cao đã đẩy giá hàng đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam cao hơn các nước khác (thậm chí, một số mặt hàng còn có giá cao hơn hàng sản xuất tại Mỹ) nên khó cạnh tranh để giành đơn hàng. Giá các sản phẩm của Việt Nam cao hơn của Trung Quốc khoảng 20%,do đó sản phẩm gỗ Việt Nam đang gặp khó khăn trong cạnh tranh về giá với đối thủ của lớn nhất là Trung Quốc. Bên cạnh những mặt hàng giá thấp,đồ gỗ Việt Nam cũng đã quam tâm phát triển đến mặt hàng có giá trị cao hơn. Ông Trần Quốc Mạnh, Tổng Giám đốc Công ty Sadaco cho biết, việc sản xuất đồ gỗ của VN hiện nay đã bắt đầu đi theo hướng sản xuất những mặt hàng có giá trị cao. Nếu những năm trước, một bộ bàn ghế có giá trị từ 500 - 600 USD thì hiện nay VN đã sản xuất những bộ bàn ghế có giá từ 1.100 - 1.800 USD Sản phẩm gỗ Việt Nam có xu hướng nhấn mạnh đến tính dân tộc hoặc văn hóa của sản phẩm, tuy nhiên cần xem xét những đặc tính này trong việc xuất khẩu vì nõ có thể có giá trị đối với dân tộc hoặc nền văn hóa này song lại chẳng có ý nghĩa gì đối với một dân tộc hoặc một nền văn hóa khác Thực tế điểm yếu chung của các doanh nghiệp chế biến, kinh doanh đồ gỗ cũng như các làng nghề Việt Nam là sự nghèo nàn về kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm. Nghĩa là sự sáng tạo của các DN không theo kịp với những thay đổi nhanh chóng về thị hiếu tiêu dùng. Hiện tại, 90% mẫu mã hàng dựa trên mẫu đặt hàng từ người mua.Tuy nhiên sản phẩm đồ gỗ Việt Nam ở các làng nghề chủ yếu là do tinh chế, tận dụng được trình độ lành nghế của lao động, đặc biệt là các nghệ nhân được đánh giá là tỷ mỉ, sâu sắc và phong cách nghiêng về châu Âu( ảnh hưởng từ Pháp) . 2.1.1.3 Các lỗ lực thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm Sự phát triển mạnh của ngành đồ gỗ trong những năm gần đây một phần nhờ những điều kiện thuận lợi khách quan nhưng chủ yếu phải ghi nhận sự nỗ lực mở rộng sản xuất, phát triển sản phẩm, chủ động tìm kiếm thị trường của các doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ cũng như sự hỗ trợ, liên kết của các Hiệp hội đồ gỗ và các chương trình xúc tiến xuất khẩu đồ gỗ do Nhà nước hỗ trợ. Năm 2004 là năm khởi đầu cho các hoạt động xúc tiến xuất khẩu đồ gỗ mang tính hệ thống, liên tục và khá chuyên nghiệp và được đưa vào chương trình Xúc tiến Thương mại quốc gia. Các hội chợ triển lãm, hội thảo, tập huấn khảo sát thị trường chuyên ngành đỗ gỗ được tổ chức liên tiếp. Đáng chú ý là Cục Xúc tiến thương mại phối hợp với Sở Công Thương TP. Hồ Chí Minh tổ chức Hội chợ quốc tế đồ gỗ và thủ công mỹ nghệ thành phố Hồ Chí Minh (Hochiminh City Expo) đã thu hút được sự quan tâm của khách quốc tế đối với ngành đồ gỗ Việt Nam. Năm 2008, Hội chợ này được tổ chức với quy mô 824 gian hàng của 319 doanh nghiệp trong và ngoài nước, và đã thu hút số lượng khách tham quan đáng kể, trên 22.500 lượt khách trong nước và khoảng 7.500 khách nước ngoài , trong đó có khoảng 800 nhà nhập khẩu đồ gỗ và thủ công mỹ nghệ đến từ 26 quốc gia như: Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nhật, Đài Loan, Hàn Quốc, Ấn Độ, Hồng Kông, Thái Lan, Singapore, Úc, Nga… đã trực tiếp hoặc gián tiếp đàm phán, ký kết 125 hợp đồng tại Hội chợ có trị giá trên 25,6 triệu USD. Bên cạnh đó, Cục Xúc tiến thương mại cũng phối hợp với Hiệp hội đồ gỗ thành phố HCM tổ chức đoàn doanh nghiệp tham gia và khảo sát thị trường đồ gỗ tại Hội chợ High Point (New York) 2004-2005 và Hội chợ Las Vegas Market 2006- 2008 nhằm quảng bá sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường Mỹ cũng như khách thăm quan quốc tế. Tại các kỳ hội chợ này, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã thu được những đơn hàng có giá trị cao cũng như học hỏi được mẫu mã, tìm hiểu thị hiếu, nhu cầu đồ gỗ của thị trường. Hiện nay, việc Cục Xúc tiến thương mại phối hợp với Sở Công Thương TP HCM tổ chức Hội chợ quốc tế đồ gỗ và thủ công mỹ nghệ Thành phố Hồ Chí Minh; phối hợp với Hiệp hội đồ gỗ Thành phố HCM tổ chức đoàn doanh nghiệp tham gia hội chợ chuyên ngành đồ gỗ tại Mỹ đã trở thành hoạt động xúc tiến thương mại quốc gia thường niên do Cục XTTM làm đơn vị chủ trì. Ngoài ra, Hiệp hội đồ gỗ Việt Nam cũng đã tổ chức các đoàn khảo sát thị trường đồ gỗ, tham gia hội chợ chuyên ngành đồ gỗ ở nước ngoài, các lớp tập huấn nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu đồ gỗ. Bên cạnh việc tổ chức các sự kiện, hoạt động quảng bá cho đồ gỗ Việt Nam cũng đã bước đầu được thực hiện mang tính chuyên nghiệp và bài bản hơn với sự hỗ trợ kinh phí từ chương trình xúc tiến thương mại quốc gia. Từ năm 2004 đến nay, ngành gỗ Việt Nam được quảng bá thường xuyên trên tạp chí Furniture Today - tạp chí về chuyên ngành đồ gỗ lớn của Mỹ với số lượng xuất bản là 20,000. Sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, giới chuyên môn quốc tế đối với ngành gỗ Việt Nam ngày một tăng. 2.1.2 Thực trạng xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam Kim ngạch xuất khẩu của đồ gỗ Việt Nam kể từ năm 2000 trở lại đây luôn có mức tăng trưởng cao,nhìn chung có thể chia làm 2 giai đoạn: từ trước năm 2004,và giai đoạn từ năm 2004 trở lại đây.Biểu đồ sau cho thấy kim ngạch xuất khẩu của hai giai đoạn của xuất khẩu đồ gỗ. Đvt: triệu USD Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam giai đoạn 2000– 2004 Sau khi nhà nước chủ trương mở của nền kinh tế, xuất nhập khẩu vào nước ta nói chung đều tăng trưởng cao.Đối với ngành đồ gỗ,kể từ 2000 có những mức tăng rất cao. Năm 2004 là năm đánh dấu thành công lớn của ngành chế biến gỗ Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu đạt gần 1,1 tỷ USD, tăng 86% so với năm 2003.Đưa đồ gỗ trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Kể từ năm 2004, tốc độ tăng trưởng của đồ gỗ xuất khẩu tiếp tục tăng nhanh và đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu đồ gỗ đứng thứ hai trong khu vực Đông Nam Á. Năm 2005 xuất khẩu đồ gỗ tiếp tục tăng tốc, đạt gần 1,6 tỷ USD và chính thức đứng vào tốp 5 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất của cả nước (sau dầu khí, giầy dép, dệt may, thuỷ sản).Tính đến tháng 6 năm 2008 kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của cả nước đạt khoảng 1,36 tỷ USD, tăng 20,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam mới chỉ thực hiện được 45,6% kế hoạch năm. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam trong tháng 12/2008 đạt 269,4 triệu USD, tăng 17,1% so với tháng 11 và tăng 3,1% so với cùng kỳy năm 2007. Trong năm 2008, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam đạt 2,8 tỷ USD, tăng 16,6% so với cùng kỳ năm ngoái và chỉ đạt được 93,3% kế hoạch năm. Về thị trường, tính từ năm 2006 đến nay Mỹ, EU và Nhật Bản là ba thị trường xuất khẩu lớn nhất, chiếm khoảng 77,92% kim ngạch xuất khẩu gỗ của Việt Nam, trong đó Mỹ chiếm 38,36%, EU chiếm 26,23%, Nhật Bản chiếm 13,33% Nguồn: Thống kê của Tổng cục hải quan, thống kê của bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2008 trên www.agroviet.gov.vn Biểu đồ cơ cấu kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam sang các quốc gia từ năm 2006 - tháng 8/2008 Hiện nay các sản phẩm xuất khẩu của nước ta bao gồm các nhóm hàng sau: Nhóm thứ nhất: Nhóm sản phẩm đồ mộc ngoài trời bao gồm các loại bàn ghế, vườn, ghế băng, che nắng, ghế xích đu… làm hoàn toàn từ gỗ hoặc kết hợp với các vậtliệu khác như sắt, nhôm, nhựa. Đây là nhóm hàng chủ lực xuất khẩu hiện nay của nước ta hiện nay chiếm tỷ lệ đến 90%. Nhóm thứ hai: Nhóm sản phẩm đồ mộc trong nhà bao gồm các loại bàn ghế, giường tủ, giá kê sách, đồ chơi, ván sàn… làm hoàn toàn từ gỗ hay gỗ kết hợp với các vật liệu khác như da, vải… Trong những năm gần đây nhóm hàng này đã có sự tăng trưởng về xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Nhóm thứ ba: Nhóm đồ mỹ nghệ chủ yếu từ gỗ rừng tự nhiên bao gồm bàn, ghế, tủ… áp dụng các công nghệ chạm, khắc, khảm. Kim ngạch xuất khẩu hàng năm đạt 30 triệu USD Nhóm thứ tư: Sản phẩm dăm gỗ sản xuất từ gỗ rừng trồng mọc nhanh như các loại gỗ keo tai tượng, keo lai, keo lá tràm, gỗ bạch đàn…. Kim ngạch xuất khẩu dăm gỗ năm 2005 đạt 150 triệu USD, trong đó: Thị trường Nhật bản 55.7%, Hàn Quốc 5.6%, Đài Loan 3.7% và Trung Quốc 35%. Nguồn: Nguyễn Chí Tân, tình hình xuất nhập khẩu gỗ tháng 6/2008 Theo Vụ Châu Âu, Bộ Công thương Về doanh nghiệp, trong 2008 có khoảng 973 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu sản phẩm gỗ, tăng 21% so cùng kỳ năm 2007. Những công ty dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu lại là các công ty có vốn đầu tư nước ngoài như Cty TNHH Great Veca Việt Nam ; Cty TNHH Shing MarkVina. 2.2 Phân tích thực trạng xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam sang thị trường Mỹ. 2.2.1 Kim ngạch xuất khẩu. Đối với đồ gỗ xuất khẩu Việt Nam, Mỹ là thị trường lớn, tốc độ tăng trưởng nhanh, đặc biệt từ sau thời điểm Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực (ngày 10/12/2001) Theo một con số thống kê, năm 2001 Việt Nam chỉ mới xuất khẩu vào Hoa Kỳ một lượng rất nhỏ đồ gỗ, 16,1 triệu USD, chiếm 0,06% tỷ trọng nhập khẩu đồ gỗ của nước này. Sang năm 2002, con số này nhảy vọt, đạt 44,7 triệu USD, tăng 178% so với 2001 và vượt qua cả tốc độ tăng trưởng của tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Hoa Kỳ 1,84 lần, đạt tỷ trọng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ của cả nước. Những năm tiếp theo đó, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam sang Hoa Kỳ tuy vẫn giữ ở mức độ khá cao, song đã có nhiều dấu hiệu thiếu ổn định. Ví dụ, năm 2003 đạt 116 triệu USD, tăng 160% và đây là mức tăng cao nhất trong số 25 nước xuất khẩu đồ gỗ hàng đầu sang Mỹ, tăng gần gấp 6 lần tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ (98%) và chiếm 20% thị phần đồ gỗ của Việt Nam. Đến năm 2004, con số này là 388 triệu USD, tăng 235% và là mức tăng kỷ lục do năm đầu Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực. Trong số 3 thị trường nhập khẩu đồ gỗ chủ yếu của Việt Nam là Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU, kể từ năm 2005, Hoa Kỳ đã vươn lên vị trí cao nhất, chiếm 44%, trong cơ cấu thị trường của đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam. Nguồn: Thống kê của Tổng cục hải quan, thống kê của bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2008 trên www.agroviet.gov.vn Biểu đồ kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam sang các quốc gia từ năm 2006 - tháng 8/2008. Theo số liệu thống kê, năm 2008, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt 1,11 tỉ USD, tăng 18,87% so với năm 2007. Hiện tại, Hoa Kỳ vẫn là thị trường chủ lực cho hoạt động xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam. Hơn 70% tỷ trọng kim ngạch XK sản phẩm gỗ vào Mỹ là đồ nội thất, ngoài ra còn có đồ gỗ dùng trong xây dựng, trang trí và gỗ xẻ, gỗ tấm. Năm 2008, xuất khẩu đồ gỗ nội thất sang Hoa Kỳ tiếp tục là mặt hàng đứng đầu trong các mặt hàng Nông Lâm Thủy sản xuất sang thị trường này. Với kim ngạch xuất khẩu đạt 960,2 triệu USD, tăng khoảng 22,06% so với năm 2007. Tuy nhiên ngoài đồ gỗ nội thất ra, xuất khẩu nhiều sản phẩm gỗ khác đang có xu thế giảm (gỗ cây giảm 88,63%, hòm gỗ, hộp kệ gỗ giảm 33,62%, các sản phẩm gỗ khác giảm 43,37%) Kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ nội thất sang Hoa kỳ các tháng năm 2008 Đơn vị: Triệu USD Tháng 1 89,51 Tháng 2 37,49 Tháng 3 75,75 Tháng 4 79,82 Tháng 5 83,00 Tháng 6 81,01 Tháng 7 88,59 Tháng 8 87,31 Tháng 9 86,18 Tháng 10 91,07 Tháng 11 76,67 Tháng 12 82,25 Tuy vẫn là thị trường chủ lực xong trong khoảng 3 năm gần đây xuất khẩu đồ gỗ vào Mỹ có xu hướng giảm về tốc độ tăng trưởng. Dự báo, ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang thị trường Hoa Kỳ năm 2009 có nhiều khả năng sẽ giảm mạnh (khoảng 22,19% so với năm 2008). M Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang Hoa Kỳ giai đoạn 2006-2008 và dự báo 2009 Đơn vị: % 2006 28,13% 2007 27,18% 2008 18,8% 2009 (Dự báo) -22,19% 2.2.2 Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu. Các mặt hàng xuất khẩu chính vào Mỹ là đồ nội thất dùng trong phòng ngủ, đồ nội thất dùng trong phòng khách và phòng ăn, ghế khung gỗ, đồ nội thất dùng trong văn phòng... Hơn 70% tỷ trọng kim ngạch XK sản phẩm gỗ vào Mỹ là đồ nội thất, ngoài ra còn có đồ gỗ dùng trong xây dựng, trang trí và gỗ xẻ, gỗ tấm.Trong đó cơ cấu xuất khẩu năm 2008 là đồ nội thất dùng trong phòng ngủ, chiếm đến 55% tỷ trọng, đồ nội thất phòng khách, phòng ăn, chiếm 24%; đồ nội thất văn phòng, chiếm khoảng 10%... Tuy nhiên các mặt hàng này đang có xu hướng bị giảm dần.Dự báo, ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang thị trường Hoa Kỳ năm 2009 có nhiều khả năng sẽ giảm mạnh (khoảng 22,19% so với năm 2008). Mặt hàng đồ gỗ nội thất vẫn sẽ tiếp tục là mặt hàng đứng đầu về xuất khẩu nhưng kim ngạch sẽ giảm xuống còn khoảng 752 triệu USD (giảm 22,2%). Các mặt hàng gỗ khác (gỗ ván chưa lắp ghép, gỗ cây, hộp kệ gỗ...) kim ngạch xuất khẩu cũng sẽ giảm trung bình khoảng 21%. Kim ngạch xuất khẩu một số sản phẩm gỗ sang Hoa Kỳ năm 2008 Đơn vị: nghìn USD Đồ nội thất trong ngành Y 383 Sản phẩm bằng gỗ khác 3.928 Đồ ăn và đồ bếp bằng gỗ 1.997 Đồ gỗ dùng trong xây dựng 3.851 Các loại thùng gỗ 680 Hòm, hộp, kệ, giá gỗ 1.628 Gô dán, gỗ dán ván lạng 3.822 Ván sợi bằng gỗ 286 Tà vẹt, thanh ngang bằng gỗ 434 Một thực trạng nữa là các doanh nghiệp chủ yếu vẫn bán hàng qua khâu trung gian (chiếm 90% lượng sản phẩm và việc nhận làm gia công theo mẫu mã thiết kế, hợp đồng đặt hàng của nước ngoài ngày càng nhiều đã biến các doanh nghiệp của chúng ta thành người làm thuê cho thương hiệu nước ngoài. Tất cả những điều này đang làm ảnh hưởng đến thương hiệu gỗ Việt Nam trên thị trường thế giới. 2.3 Chính sách hỗ trợ xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam Với chủ trương tạo mọi điều kiện để phát triển ngành công ngiệp chế biến gỗ xuất khẩu,chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp quy liên quan đến rất nhiều lĩnh vực như phát triển vùng nguyên liệu, giao đất giao rừng,khai thác,chế biến,lưu thông gỗ…như: Quyết định số 65/1998/QĐ-TTg ngày 24/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc xuất khẩu sản phẩm gỗ, lâm sản và nhập khẩu nguyên liệu gỗ, lâm sản và Thông tư số 01/1998/TT/BNN-PTLN ngày 10/1/1998 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn hướng dẫn Quyết định số 1124/1997/QĐ-TTg ngaỳ 25/12/1997 về việc xuất khẩu sản phẩm gỗ, lâm sản và nhập khẩu gỗ nguyên liệu. Quyết định số 02/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 2/1/2003 của Bộ thương mại về chính sách thưởng xuất khẩu. Năm 2004 ban hành chỉ thị số 19 về một số giải pháp phát triển ngành chế biến gỗ và xuất khẩu sản phẩm gỗ. Theo đó, Bộ Thương mại và Hiệp hội Gỗ & lâm sản Việt Nam hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm thị trường nhập khẩu, tạo điều kiện nhập khẩu thuận lợi nhất là gỗ rừng tự nhiên cho sản xuất sản phẩm gỗ. Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 147/2007/QĐ-TTg ngày 10 tháng 9 năm 2007, quyết định một số chính sách phát triển rừng sản xuất giai đoạn 2007-2015 nhằm khuyến khích các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế đầu tư trồng rừng và chế biến lâm sản theo quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng và phát triển rừng sản xuất phải gắn với công nghiệp chế biến và tiêu thụ sản phẩm lâm sản để tạo được nghề rừng ổn định và phát triển bền vững. Về nhập khẩu, trừ gỗ nhập khẩu từ Campuchia phải có giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu của Bộ Thương mại hai nước, các doanh nghiệp được nhập khẩu theo nhu cầu, không phải xin giấy phép của các cơ quan quản lý và được hưởng mức thuế suất nhập khẩu thấp nhất hiện hành (0%) từ 1/12/2008. Tuy nhiên do năm 2008, Chính phủ tập trung nỗ lực kìm chế lạm phát và giảm nhập siêu nên xuất khẩu đồ gồ cũng giảm đi. Với đầu ra của sản phẩm sản xuất luôn không thay đổi, trong khi đầu vào (chi phí) là những con số biến đổi theo chiều hướng tăng. Lợi nhuận của sản phẩm gỗ xuất khẩu tối đa cũng chỉ được 10%, trong khi các yếu tố đầu vào tác động đến giá thành từ 18% - 20% là một gánh nặng đối với doanh nghiệp. Nhà nước đã có những chính sách ưu tiên sau khi Việt nam gia nhập WTO, ngành chế biến gỗ xuất khẩu được giảm thuế nhập khẩu gỗ nguyên liệu cũng như giảm thuế xuất khẩu sản phẩm hàng hóa vào thị trường các nước. Nhà nước ta đã có định hướng chiến lược phát triển Lâm nghiệp Việt nam đến năm 2020 về việc phát triển vùng nguyên liệu gỗ phục vụ cho ngành công nghiệp chế biến gỗ. Hội chợ đồ gỗ EXPO 2008 sẽ diễn ra từ ngày 8 đến 12-10, là sự kiện xúc tiến thương mại lớn nhất được tổ chức hàng năm tại TPHCM, hiện đã có khá nhiều nhà nhập khẩu đồ gỗ của Mỹ đăng ký qua mạng của nhà tổ chức là Sở Công Thương TPHCM để đến tham quan hội chợ dịp này.  Bên cạnh đó, Cục Xúc tiến thương mại cũng phối hợp với Hiệp hội đồ gỗ thành phố HCM tổ chức đoàn doanh nghiệp tham gia và khảo sát thị trường đồ gỗ tại Hội chợ  High Point (New York) 2004-2005 và  Hội chợ  Las Vegas Market 2006- 2008 nhằm quảng bá sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường Mỹ cũng như khách thăm quan quốc tế. Tại các kỳ hội chợ này, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã thu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThúc đẩy xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam sang thị trường Mỹ.DOC
Tài liệu liên quan