Đề án Thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 1989 đến nay và giải pháp khắc phục

 

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU 2

Phần I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT 4

1.1. Khái niệm và phân loại lạm phát: 4

1.1.1. Các khái niệm: 4

1.1.2. Phân loại lạm phát:. 4

1.2. Nguyên nhân lạm phát: 7

1.2.1. Lạm phát theo thuyết tiền tệ: 7

1.2.2. Lạm phát theo thuyết Keynes (Lạm phát cầu kéo) 8

1.2.3. Lạm phát theo thuyết chi phí đẩy: 8

1.2.4. Lạm phát dự kiến: 9

1.2.4. Các nguyên nhân khác: 10

1.3. Những tác động của lạm phát: 11

1.3.1. Đối với lĩnh vực sản xuất: 11

1.3.2. Đối với lĩnh vực lưu thông: 11

1.3.3. Đối với lĩnh vực tiền tệ tín dụng: 11

1.3.4. Đối với chính sách kinh tế tài chính Nhà nước: 12

Phần II: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2007 ĐẾN NAY 13

2.1. Thực trạng: 13

2.2. Lịch sử của lạm phát: 22

2.3. Đặc trưng lạm phát ở Việt Nam: 23

2.4. Những nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát ở Việt Nam: 24

Phần III: CÁC BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM 26

3.1. Các quan điểm và cách khắc phục lạm phát: 26

3.2. Giải pháp chống lạm phát ở nước ta: 26

KẾT LUẬN 33

 

 

doc33 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2082 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 1989 đến nay và giải pháp khắc phục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hát và tăng trưởng kinh tế thì Việt Nam đang chịu tác động từ chính thành công quá lớn và quá nhanh chóng của mình. Cái giá phải trả cho tốc độ tăng trưởng cao là mất ổn định kinh tế vĩ mô ít nhất là trong dài hạn. Điều này được thấy rõ nhất thông qua lạm phát và tình hình kinh tế nước ta năm 2008. - Năm 2008 đã đi vào lịch sử kinh tế Việt Nam như một năm đầy biến động và sóng gió trên tất cả các thị trường. Từ thị trường trong nước đến thị trường nước ngoài, từ thị trường hàng hóa dịch vụ thông thường, cao cấp đến thị trường tài chính và thị trường bất động sản. Nhìn lại chặn đường một năm giúp ta rut ra nhiều bài học quí giá cho những chặng đường phát triển tiếp theo. Tình hình lạm phát ở giai đoạn nay sẽ được thể hiện cụ thể hơn thông qua các số liệu dưới đây: - Lạm phát, sau hai năm liên tục ở vào mức cao (9,5% năm 2004 và 8,4% năm 2005) tưởng chừng như đã có dấu hiệu suy giảm khi chỉ còn 6,6% trong năm 2006. Tuy nhiên, áp lực tăng giá lại bùng phát ngay từ đầu năm 2007. Trong 6 tháng đầu năm, chỉ số giá tiêu dùng đã tăng 5,2%. Nếu so với tháng 6 năm 2006, thì chỉ số giá tiêu dùng tăng 7,8%.  - Theo thống kê sơ bộ của tổng cục thống kê, tính đến cuối tháng 10/2007, mức tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đã lên đến hơn 9,3% so với cùng kì năm trước và khoảng 8,12% so với đầu năm.Bảng dưới đây sẽ cho chúng ta thấy rõ diễn biến tưng giá trong thời gian vừa qua. Bảng 2.1: Tình hình tăng giá đến cuối tháng 10/2007  Stt Các nhóm hàng và dịch vụ Quyền số  (%) Tháng 10/07  so với 8/06 Đóng góp của mỗi nhóm Tổng chi dùng 100.00 109.34 100.00 01 Hàng ăn và dịch vụ ăn uống 42.85 113.94 63.92 011 Trong đó: 1. Lương thực 9.86 115.98 16.86 012 2. Thực phẩm 25.20 114.19 38.26 02 Đồ uống và thuốc lá 4.56 105.75 2.81 03 May mặc, mũ nón, giầy dép 7.21 105.82 4.49 04 Nhà ở, điện, nước, chất đốt  và VLXD 9.99 111.72 12.53 05 Thiết bị và đồ dùng gia đình 8.62 105.90 5.44 06 Thuốc và dịch vụ y tế 5.42 106.46 3.75 07 Giao thông, bưu chính viễn thông 9.04 102.33 2.25 08 Giáo dục 5.41 102.02 1.17 09 Văn hóa, giải trí và du lịch 3.59 102.05 0.79 10 Hàng hóa và dịch vụ khác 3.31 108.08 2.86 (Nguồn: mức tăng giá từ Thời báo Kinh tế Việt Nam, ngày 29/10/2007) - Từ bảng này, chúng ta thấy mức tăng CPI bắt nguồn chủ yếu từ việc gia tăng giá lương thực và thực phẩm. Đây là nguyên nhân giải thích tới hơn 60% trong tổng mức tăng CPI. Kế đó là sự gia tăng của nhóm nhà ở, điện nước và vật liệu xây dựng, đóng góp 12%. Các nhóm mặt hàng khác có mức tăng trung bình khoảng 5-6%, và do tỷ trọng trong tổng tiêu dùng nhỏ (dưới 10%) nên mức đóng góp của mỗi nhóm chỉ khoảng trên dưới 3%. Nhưng nhìn chung, mặt bằng giá của tất cả các mặt hàng đều tăng khoảng 5%, ngoài hai nhóm đề cập đầu tiên là tăng hơn 10%. Điều này cho thấy có một sự tăng giá chung trên toàn bộ các mặt hàng, chứ không đơn thuần là xuất hiện cục bộ ở một hai mặt hàng rồi lan tỏa ra các mặt hàng khác. Vì thế theo quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đây là vấn đề có nhiều dấu hiệu của nguyên nhân tiền tệ đằng sau hiện tượng lạm phát hiện nay. Xem xét tình hình lạm phát của năm 2007 ta thấy con số 12 là con số được lặp lại nhiều lần khi nói đến lạm phát trong những ngày cuối năm 2007. Theo ước tính mới nhất của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Việt Nam vào tháng 12/2007 đã tăng 12,6% so với tháng 12/2006. Đây là mức tăng giá tiêu dùng cao nhất trong vòng 12 năm qua. Đúng là giá lương thực – thực phẩm và giá dầu thế giới đã tăng cao trong năm 2007 do hai nhóm hàng hóa này đều là những sản phẩm ngoại thương chủ đạo của Việt Nam và đồng thời chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu CPI, đây chắc chắn là một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát cao ở Việt Nam trong suốt năm nay. Nhưng nếu xem 2 nguyên nhân trên là chính thì các nước trong khu vực như Thái Lan hay Trung Quốc cũng phải chịu sức ép tương tự như nước ta, trong khi đo năm 2007 tỷ lệ lạm phát ở nước ta lên đên hai con số thì Trung Quốc chỉ là 6,5% và Thái Lan là 2,9%. Điều này có thể được lí giải như sau: - Chi phí sản xuất tăng cao: Trước bối cảnh lạm phát toàn cầu gia tăng đã tác động làm giá hầu hết các nhóm hàng nhập khẩu của Việt Nam gia tăng mạnh mẽ như xăng dầu, sắt thép, phân bón, thuốc trừ sâu - là những nguyên nhiên vật liệu đầu vào chính của sản xuất. Mặc dù Chính phủ đã cố gắng kiểm soát giá xăng dầu, nhưng từ đầu năm 2007 đến hết Quý I/08 giá xăng dầu đã phải điều chỉnh tăng 4 lần, tính chung giá xăng dầu đã tăng tới 38%, giá thép tăng 91%, giá điện tăng 7,6%; giá than tăng 30%; giá xi măng tăng 15%; giá phân bón tăng 58%. Điều này đã tác động làm chi phí sản xuất tăng cao. - Giá lương thực, thực phẩm tăng cao: biến đổi khí hậu toàn cầu trên thế giới không những tác động đến nhiều quốc gia mà Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Chỉ trong tháng 10/2007, miền Trung phải hứng chịu 5 cơn bão liên tiếp, trong khi đó dịch bệnh trong chăn nuôi, trồng trọt như cúm gia cầm, lợn tai xanh, lở mồm long móng ở lợn, vàng lùn ở lúa cùng với rét đậm, rét hại khiến cho nguồn cung lương thực - thực phẩm bị sụt giảm. - Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ liên tục mở rộng từ 2001-2006 nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đó là nguyên nhân rất quan trong gây sức ép rất lớn làm gia tăng lạm phát trong thời gian qua. - Luồng vốn nước ngoài vào Việt Nam gia tăng mạnh: bắt đầu từ cuối năm 2006 khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), cùng với những cải cách về cơ chế chính sách và môi trường đầu tư đã tạo điều kiện cho các luồng vốn nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng mạnh. Năm 2007 luồng vốn FDI tăng 20,3 tỷ USD vốn đăng ký, cao hơn nhiều so với mức 10,2 tỷ USD của năm 2006, đặc biệt là luồng vốn đầu tư gián tiếp gia tăng mạnh mẽ khoảng trên 6 tỷ, gấp 5 lần con số của năm 2006 mà chủ yếu đổ vào thị trường chứng khoán, trái phiếu đặc biệt là đổ vào IPO các doanh nghiệp nhà nước lớn. Đứng trước bối cảnh này, NHNN đã phải cung ứng một lượng lớn tiền VND để mua ngoại tệ vào nhằm mục tiêu ổn định và phá giá nhẹ tỷ giá để hỗ trợ xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và điều này làm cho tổng phương tiện thanh toán tăng cao, tác động làm lạm phát gia tăng. Bảng 2.2: Chỉ số CPI 10 tháng đầu năm 2008 STT Các chỉ tiêu CPI trong T10 % Tăng T10/T9 CPI 10 tháng I CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG -0.19 21.64 1 I. Hàng ăn và dịch vụ ăn uống -0.42 32.12 Trong đó:  Lương thực -1.91 51.41                  Thực phẩm 0.01 24.44                 Ăn uống ngoài gia đình 0.47 31.37 2 Đồ uống và thuốc lá 0.67 11.34 3 May mặc, mũ nón, giầy dép 0.70 10.82 4 Nhà ở và vật liệu xây dựng -1.08 16.76 5 Thiết bị và đồ dùng gia đình 0.73 11.26 6 Dược phẩm, y tế 0.58 8.75 7 Phương tiện đi lại, bưu điện -0.94 19.56  Trong đó: Bưu chính viễn thông -0.18 -9.61 8 Giáo dục 0.69 6.56 9 Văn hoá, thể thao, giải trí 0.38 9.30 10 Đồ dùng và dịch vụ khác 0.85 11.69 II CHỈ SỐ GIÁ VÀNG 3.21 12.53 III CHỈ SỐ GIÁ ĐÔ LA MỸ -0.05 2.95 (Nguồn: www.viipip.com) Biểu đồ 2.1: Chỉ số giá tiêu dùng 10 tháng đầu năm 2008 (Nguồn: www. viipip.com) - Nữa đầu năm 2008, lạm phát liên tục leo thang và vượt qua mọi quy luật đã hình thành hàng chục năm nay, buộc Việt Nam phải điều chỉnh chinhs sách tuef ưu tiên tăng trưởng kinh tế sang kiềm ché lạm phát. Trong bối cảnh lạm phát cao, kết quả tăng trưởng đã mất đi khá nhiều ý nghĩa. Nhất là đối với các tầng lớp nghèo dễ bị tổn thương, thu nhập chủ yếu trông chờ vào đồng lương. Kho vật giá leo thang số tiền mỗi người có được dường như là nhiều hơn do doanh thu bán hàng, thu nhập hoặc tiền lương khá hơn trước. Nhưng thực chất họ lại mua ít hàng hóa và dịch vụ hơn vì sức mua của đồng tiền đã giảm. Nếu không nhận diện đúng và có những biện pháp thích hợp thì nguy cơ phải đối mặt với lạm phát phi mã gây bất ổn định nền kinh tế là điều khó tránh khỏi. - Chỉ sau 6 tháng Tổng cục thống kê công bố chỉ số CPI đã lên tới 26,8% so với tháng 6 năm 2007 và 18,44% so với cuối năm 2007. Riêng nhóm hàng lương thực – thực phẩm tưng tương ứng 74,3% và gần 60%. Điều này đã phá vơc mọi dự tính của chúng ta về kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Càng nghiêm trọng hơn khi Việt Nam là một nước nông nghiệp với hơn 60% dân số và lực lượng lao động là nong dân. Sự phụ thuộc của nền kinh tế nói chung và của giá cả thị trường nói riêng vào những biến động trong khu vực sản xuất lương thực thực phẩm của nước ta còn lớn, mặc dù tỷ trọng của nông nghiệp trong GDP giảm xuống chỉ còn 20%. - Thông thường những thang gàn tết giá cả tăng nhanh. Nhưng năm 2008 đặc biệt hơn vì qua tết mà giá cả vẫn ở mức cao trái ngược với qui luật vận động của gia cả trong thời gian gần đây. Trong những tháng đầu năm vật giá leo thang từng tháng, giá cả tăng liên tục đã đẩy mạnh lạm phát tháng sau cao hơn tháng trước. So với tháng 12( 2007), CPI tháng 1 năm 2008 tăng 2,4% sang tháng 2 tăng vọt lên 6%, tháng 3 là 9,2%. Đến tháng 4 chỉ số CPI đã lên tới 2 con số(11,6%) và tháng 5 lại tăng đột ngột tới 16%. Đỉnh điểm lạm phát đã đến mức 3,91% vào tháng 5(2008), trùng với giá gạo trên thị trường quốc tế ở mức 1000 USD/tấn, khủng hoảng lương thực đã trở thành mối đe dọa toàn cầu. Ngay cả ở một cường quốc xuất khẩu gạo như nước ta mà tin đồn thiếu gạo đã làm rất nhiều người dân hoang mang, lo lắng là sẽ quay về nạn đói khủng khiếp năm 1945. Còn các cơ quan chức năng Nhà nước dự báo sai lệch nên yêu cầu các doanh nghiệp dừng xuất khẩu gạo mặc dù giá gạo đag rất cao. - Bên cạnh đó tốc độ tăng trưởng kinh tế tốc độ tăng trưởng kinh tế bắt đầu suy giảm trong khi tỷ lệ đầu tư vẫn ở mức cao. GDP nửa năm đầu tăng 6,5% so vơi cùng kì năm trước, thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng cung kì ở một số năm gần đây.Xuất hiện những con sốt ảo USD, vàng, gạo, thép, vật liệu xây dựng…Nền kinh tế Việt Nam cuối tháng 5 đầu tháng 6 mấp mé bờ vực khủng hoảng với những “bong bóng” khổng lồ chực sẵn và nổ tung trên thị trường tài chính tiền tệ, thị trường tín dụng Ngân hàng, bất động sản. Các tháng 6,7,8 chỉ số CPI đã lên cao chóng mặt lần lượt là 18,4% - 19,8% và 21,7%. - Sang tháng 10,11,12 liến tiếp giá nhiều loại hàng hóa đã chững lại và giảm xuống, CPI cũng giảm, tôc độ tăng trưởng kinh tế tháng là – 0,19% - 0,76% - 0,66%. Quan sát biểu đồ chỉ số giá cũng cho thấy tỷ lệ lạm phát đang giảm, nguyên nhân là do giá các mặt hàng trên thế giới đã sụt giảm và có thể các chính sách thắt chặt tiền tệ thực thi thời gian qua bắt đầu phát huy tác dụng. CPI tháng 9 và tháng 10 gần như tăng không đáng kể. Như vậy, lạm phát không còn là vấn đề nghiêm trọng của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên CPI tăng trưởng thấp và âm cũng cho chúng ta thấy những dấu hiệu đầu tiên của tình trạng suy thoái kinh tế. Trong giai đoạn thắt chắt tín dụng, lãi suất ngân hàng tăng cao đã làm nhiều doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ và những doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính cao. Không những vậy, giá cả các mặt hàng tăng cao đã làm cho sức cầu trong nền kinh tế giảm. Mặc dù NHNN đã bắt đầu nới lỏng chính sách tiền tệ, nhưng cùng với xu hướng giảm giá của nhiều mặt hàng thiết yếu trên thế giới, nỗi lo về lạm phát cao vào những tháng cuối năm không còn hiện diện mà thay vào đó chúng ta phải đối mặt với nguy cơ suy thoái kinh tế trong nước và toàn cầu. Bên cạnh đó, nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam chủ yếu đến từ cung tiền và sự yếu kém trong hiệu quả đầu tư nên CPI không thể dễ dàng giảm nhanh chóng. Như vậy, tỷ lệ lạm phát thấp trong những tháng cuối năm 2008 chỉ là tạm thời và chúng ta vẫn phải có chính sách đối phó với vấn đề này trong năm tới. Chúng ta đã chủ trương khi giảm tôc độ tăng trưởng và tập trung vào chống lạm phát. Thành công nhờ hệ thống chống lạm phát bảo đảm tính trọn gói, sát với nguyên nhân. Đặc biệt chúng ta có sức mạnh khi tập hợp, huy động cả hệ thống chính trị, cả dân tộc và các doanh nghiệp tham gia chống lạm phát. Biểu đồ 2.2: Biểu đồ diễn biến CPI năm 2009 (Nguồn : www.tuoitre.com.vn) Bước sang năm 2009 không có những đột biến lớn, không bất thường về quy luật, diễn biến chỉ số giá tiêu dùng năm này cho cảm giác khá trầm lắng. Nhưng trong một năm nền kinh tế trầm, thăng phức tạp, CPI vẫn có sự đảo chiều tương ứng. - Trên biểu đồ, tốc độ tăng CPI theo tháng đạt đỉnh 4 lần trong năm qua, ở các tháng Hai, Sáu, Chín và Mười hai, với các mức tăng 1,17%; 0,55%; 0,62% và 1,38%. Quy luật nén - nhả nới lỏng dần qua các vòng “xoắn ốc”, và lạm phát gia tăng sau mỗi chu kỳ được hình thành. - Trong 8 tháng đầu tiên, diễn biến chỉ số giá là biểu hiện của kìm nén, ít nhiều theo tính quy luật và cho cảm nhận an toàn. Tuy nhiên trong 4 tháng còn lại, đường biểu diễn xóc nhẹ, báo hiệu những đột biến, để rồi tăng dần và dựng ngược lên trong tháng tận cùng của năm, hiện thực hóa phần cảm nhận lơ lửng đâu đó về nguy cơ tái lạm phát. Trong 8 tháng này, “lò xo” CPI được nén tới hai vòng. Ở vòng thứ nhất, CPI lên nhẹ 0,32% trong tháng 1/2009, chủ yếu do yếu tố tâm lý, người tiêu dùng chấp nhận giá cao hơn trong tháng giáp Tết Nguyên đán. Nhưng đến tháng Hai, Tết Kỷ Sửu và rằm tháng Giêng kéo giá lương thực, thực phẩm và nhiều loại hàng hóa, dịch vụ đồng loạt lên mức cao. Ở đỉnh cao thứ nhất, CPI tăng 1,17%, trước khi đảo chiều giảm âm 0,17% trong tháng Ba ngay sau đó, khép lại vòng quy luật nén - nhả đầu tiên. - Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ, yếu tố thường kéo bật tăng trưởng trong giai đoạn trước, dù vẫn tăng 21,9% so với cùng kỳ, nhưng loại trừ yếu tố giá chỉ còn tăng 6,5% (cùng kỳ năm 2008 tăng 11%). VN-Index đạt mức thấp kỷ lục, 235,5 điểm vào ngày 24/2, tô đậm thêm bức tranh ảm đạm của kinh tế giai đoạn này. - Bước sang tháng Chín, đã xuất hiện những diễn biến “ngược dòng”. Ở giai đoạn bật nhả đầu tiên, CPI đạt đỉnh ở mức tăng 0,62% trong tháng Chín rồi tạm “nghỉ” ở mức tăng 0,37% của tháng Mười sau đó. So với chu kỳ trước, các con số đỉnh và đáy tương ứng đều cao hơn, báo hiệu những lo ngại tiềm ẩn của lạm phát tiếp tục gia tăng. - Sự điều chỉnh nhỏ trong tháng Mười được hỗ trợ một phần từ việc giá xăng dầu giảm lần đầu tiên trong năm vào ngày 1/10. Giá lương thực, thực phẩm chỉ tăng rất nhẹ so với tháng trước đó. tính đến 30/10/2009, tổng phương tiện thanh toán M2 đã tăng 23,99%. Ngân hàng Nhà nước cũng vừa công bố, tín dụng tăng trưởng 37,73% so với cuối năm 2008… - Về tác động của tăng giá trên thị trường thế giới, đến tháng 11/2009, giá gạo 5% tấm xuất khẩu của Việt Nam tăng lên mức 451,31 USD/tấn. Do có quyền số cao tới hơn 40% trong rổ hàng hóa tính CPI, tăng giá lương thực tác động mạnh đến giá cả trong nước, CPI nhóm hàng này tháng 12/2009 đã tăng 7,54% so với một năm trước đó. Thêm vào đó, tỷ giá USD/VND trong giai đoạn này cũng thay đổi nhanh chóng. chỉ số giá USD đã tăng 10,7% trong vòng 1 năm, tính đến tháng 12/2009, gây áp lực rất lớn lên giá hàng hóa nhập khẩu và các mặt hàng sử dụng nguyên liệu nhập khẩu. Năm 2009 khép lại với chỉ số giá chấp nhận được trong tất cả các mức so sánh. Nhưng sự gia tăng mạnh mẽ chỉ số CPI tháng cuối cùng của năm khiến niềm vui chưa thể trọn vẹn trong những ngày đón năm mới 2010. Sang năm 2010, theo nghiên cứu của các chuyên gia kinh tế thìnhiều yếu tố có thể đẩy lạm phát năm 2010 lên cao hơn mức dự báo. Thậm chí, nếu các nguồn gây lạm phát không được quản lý và điều hành tốt, lạm phát năm tới có thể lên hai con số, khó giữ ở mức 7%: - Theo ông Vũ Đình Ánh – Viện phó Viện Khoa học Thị trường giá cả (TTGC), các mục tiêu của năm 2010 như tốc độ tăng trưởng 6,5%, lạm phát khoảng 7% có thể đạt được thông qua các biện pháp không mang tính cấp bách, tình thế, mà gắn với chiến lược phát triển tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế đảm bảo tăng trưởng ổn định, bền vững và hiệu quả hơn. Vì thế, ông Ánh dự báo, nếu tính qui luật của diễn biến thị trường giá cả được duy trì trong năm 2010 kết hợp với những chính sách kinh tế vĩ mô và quản lý thị trường giá cả hợp lý thì CPI cả năm có thể ở mức 1 con số. Tuy nhiên, nếu các điều kiện này không đảm bảo thì CPI có thể lên tới 12-15%.. - Ông Phạm Minh Thụy, Trưởng phòng Phân tích dự báo giá cả thị trường (Viện TTGC) cũng cho rằng, chỉ số CPI của Việt Nam tháng 12/2010 so với cùng kỳ 2009 sẽ ở mức 108,0–109,0%. Như vậy, những dự báo này cho thấy, mục tiêu 7% đã đặt ra sẽ rất khó khăn để thực hiện. Bởi vì, tình thế của 2010 sẽ hoàn toàn khác năm 2009 hay các năm trước, khó có thể lấy những dữ liệu và chính sách hiện tại để tính toán hết cho năm 2010, nhất là khi kinh tế thế giới đã ra khỏi khủng hoảng, nhu cầu tăng lên như hiên nay. 2.2. Lịch sử của lạm phát - Giai đoạn thứ nhất: Từ năm 1890 trở về trước, lạm phát được hiểu giống hoàn toàn định nghĩa của Marx, cho nên chống lạm phát là tìm tòi mọi cách hạn chế việc phát hành tiền vào lưu thông. - Thời kỳ 1938 - 1945: Ngân hàng Đông Dương cấu kết với chính quyền thực dân Pháp đã lạm phát đồng tiền Đông Dương để vơ vét của cải nhân dân Việt Nam đem về Pháp đóng góp cho cuộc chiến tranh chống phát xít Đức và sau đó để nuôi mấy chục vạn quân nhận bán Đông Dương làm chiếc cầu an toàn đánh Đông Nam Á. Hậu quả nặng nề của lạm phát nhân dân Việt Nam phải chịu giá sinh hoạt từ 1939 - 1945 bình quân 25 lần. - Thời kỳ 1946 - 1954: Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo đã phát hành đồng tài chính thay đồng Đông Dương và sau đó là đồng ngân hàng để huy động sức người, sức của của toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến 9 năm đánh đuổi quân xâm lược Pháp, kết quả giải phòng hoàn toàn nửa đất nước. - Thời kỳ 1955 - 1965: Chính phủ tay sai Mỹ kế tiếp nhau ở miền Nam Việt Nam liên tục lạm phát đồng tiền Miền Nam để bù đắp lại cuộc chiến tranh chống laị phong trào giải phóng dân tộc ở Miền Nam. Mặc dù được chính phủ Mỹ đổ vào miền Nam một khối lượng hàng viện trợ khổng lồ, giá trị hàng trăm tỷ USD cũng không thể bù đắp lại chi phí. Nguyễn Văn Thiệu - Chính phủ đã lạm phát hàng trăm tỷ đồng tiền lưu thông ở miền Nam năm 1975 gấp 5 lần. Năm 1969 lên tới 600 triệu đồng, giá sinh hoạt tăng hàng trăm lần so với năm 1965. - Thời kỳ 1965 - 1975: Ở miền Bắc Việt Nam chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà phải tiến hành một cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, chống chiến tranh phá hoại ở Mỹ tại miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, đã phát hành số tiền lớn (gấp 3 lần tiền lưu thông của năm 1965 ở miền Bắc) để huy động lực lượng toàn dân, đánh thắng độc quân xâm lược ở Mỹ và tay sai ở cả hai miền. Nhưng nhờ có sự viện trợ to lớn và có hiệu quả của Liên xô, Trung Quốc và các nước XHCN anh em đã hạn chế được lạm phát trong thời gian này. - Thời kỳ 1976 đến nay: Sau khi thống nhất đất nước, chúng ta thiếu nhiều kinh nghiệm trong thời bình nên duy trì quá lâu cơ chế thời chiến tập trung quan liêu bao cấp toàn diện, không mở rộng sản xuất hàng hoá. XHCN không tiến hành hạch toán kinh doanh nên đã tự gây cho mình nhiều khó khăn, sản xuất không đủ tiêu dùng, ngân sách không đủ chi tiêu, lạm phát tiền giấy liên tục và bùng nổ dữ dội tới 3 con số. Nhưng kể từ năm 1999 đến nay với sự chỉ đạo đúng đắn của nhà nước thì lạm phát hiện nay chỉ còn dừng lại ở mức độ tốt cho sự phát triển nền kinh tế tức là chỉ ở mức 15-17% có thể nói đây cũng là một thành công không nhỏ của nhà nước ta. 2.3. Đặc trưng lạm phát ở Việt Nam Lạm phát ở Việt Nam cũng có những biểu hiện chung giống với lạm phát ở các quốc gia khác như: chỉ số giá cả nói chung tăng phổ biến do vậy giá trị của đồng tiền giảm. Song lạm phát ở Việt Nam có đặc trưng riêng do điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể: - Lạm phát của một nền kinh tế kém phát triển trong đó khu vực kinh tế nhà nước có địa vị thống trị. Nền kinh tế Việt Nam thuộc loại kém phát triển nhất thế giới, các chỉ tiêu bình quân đầu người rất thấp. Khu vực kinh tế nhà nước ở Việt Nam chiếm 1 tỷ trọng lớn hiếm có trên thế giới. Mặc dù khu vực nhà nước chiếm phần lớn số vốn đầu tư và chất xám trong cả nước nhưng lại chỉ có thể làm ra từ 30% - 37% tổng sản phẩm xã hội. Các xí nghiệp quốc doanh nhìn chung đã nộp cho ngân sách nhà nước một số tiền thấp rất xa so với số tiền nhà nước cung cấp cho nó qua bù lỗ, bù giá, cấp phát tín dụng, lãi suất thấp... Đúng ra khu vực kinh tế nhà nước phải đem lại nguồn thu chủ yếu cho xã hội thì ở đây lại ngược lại. Khu vực kinh tế tư nhân làm ăn có hiệu quả hơn và đóng góp một phần quan trọng trong ngân sách của nhà nước. Chính hoạt động của các hãng kinh tế nhà nước với lãi giả, lỗ thật đã đẩy nền kinh tế lạm phát, thị trường rối loạn, lỗ lãi khó kiểm tra. Sự giảm sút hiệu quả sản xuất kinh doanh dẫn đến đến vòng luẩn quẩn. Hiệu quả giảm sát dẫn đến thu không đủ bù chi và lạm phát, rồi lạm phát làm cho hiệu quả kinh doanh tiếp tục giảm sút, cứ như vậy nó làm cho nền kinh tế Việt Nam càng lún sâu vào đói nghèo, lạc hậu. - Lạm phát của một nền kinh tế độc quyền mà nhà nước có địa vị thống trị trên mọi lĩnh vực, cơ chế kinh tế quan liêu bao cấp. Trong nền kinh tế thị trường sự cạnh tranh ắt sinh ra một công ty thắng thế chiếm vị trí độc quyền. Để đạt được điều đó, phải tiến hành cải tiến máy móc, trang thiết bị, tổ chức lao động, tập trung nguồn vốn ... Nhưng khi ở vị trí độc quyền công ty sẽ bóp chết các địch thủ khác và cũng ít chú ý hơn đến việc áp dụng tiến bộ KHKT dẫn đến sự suy thoái trong kinh doanh. Nếu công ty này nhỏ thì sự ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế sẽ không có nhiều hiệu quả tiêu cực. nhưng nếu đó là một công ty lớn thì sự suy thoái này sẽ kéo theo cả nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng. Trên thực tế, độc quyền ở Việt Nam cũng như ở các nước XHCN khác đã khống chế toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chế độ độc quyền nhà nước và cơ chế hoạch định quan liêu, mệnh lệnh đã triệt tiêu mất các quan hệ thị trường ở Việt Nam làm cho nền kinh tế Việt Nam xa lạ với thị trường. Đây cũng là nguyên nhân đáng chú ý trong việc góp phần tăng lạm phát. - Lạm phát của một nền kinh tế đóng, phụ thuộc một chiều vào các nguồn tài trợ từ bên ngoài. Việt Nam đóng cửa nền kinh tế, không quan hệ kinh tế với các nước TBCN. Chính sách này ra đời do sự thù địch, cấm vận của Mỹ. Nguyên nhân nữa dẫn đến sự đóng góp của nền kinh tế là do sự đối đầu đông tây mà Việt Nam và các nước XHCN là 1 cực. Sự bó hẹp nền kinh tế này đã dẫn đến những khó khăn đáng kể cho sản xuất kinh doanh. - Ngoài những đặc điểm trên thì lạm phát Việt Nam có cơ cấu của nó bao gồm những ngành kém hiệu quả có được sự ưu tiên phát triển. Mọi người đều thấy sự mất cân đối khi ưu tiên phát triển công nghiệp nặng (vốn lớn, thu hồi lãi chậm). - Lạm phát ở một nước chịu ảnh hưởng nặng nề của các cuộc chiến tranh kéo dài do đó chi phí cho lĩnh vực quốc phòng lớn, tiền trợ cấp gia đình chính sách... Những khoản này đã làm tăng thêm thâm hụt ngân sách và tăng lạm phát. - Việt Nam là nước nông nghiệp mà luôn chịu ảnh hưởng của thiên tai, hạn hán, mất mùa... Do đó, ngân sách hụt đi do phải chi ra 1 khoản trợ cấp cho các vùng thiên tai. 2.4. Những nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát ở Việt Nam Phần trước, chúng ta đã đề cập đến nguyên nhân lạm phát nói chung, bây giờ ta xét trong thời điểm cụ thể và ở quốc gia cụ thể. Lạm phát ở Việt Nam có nhiều nguyên nhân và ý kiến khác nhau. Từ những phân tích về đặc trưng của nó ta có thể thấy con đường dẫn đến lạm phát. Thứ nhất: Nguyên nhân của lạm phát từ trong chính các thể chế kinh tế quan liêu bao cấp mệnh lệnh, đóng cửa... thể chế này hướng nền kinh tế Việt Nam phát triển các ngành có chi phí cao, tách rời cầu thị trường, cô lập với thế giới bên ngoài dẫn đến sự mất cân đối giữa cung và cầu, thu và chi ngân sách... thể hiện nền kinh tế thích xu hướng phát triển kém hiệu quả, các xí nghiệp làm ăn thua lỗ... Đó là nguyên nhân sâu xa đưa nền kinh tế lâm vào lạm phát phi mã. Thứ hai: Do điều hành sai lầm của bộ máy nhà nước, như xác định cơ cấu không xuất phát từ hiệu quả. Sự đổi tiền và tăng giá năm 1985 là chính sách phá giá đồng tiền, làm giảm niềm tin của dân vào đồng tiền của nhà nước. Chính sách lãi suất thấp so với mức trượt giá làm cho người dân không muốn gửi tiết kiệm. Sự mất cân đối tài chính gây lạm phát qua kênh tín dụng, ngân hàng nhà nước luôn phải phát hành tiền để cân đối các nguồn vốn cho vay của ngân hàng, đáp ứng yêu cầu của các ngành kinh tế và xây dựng cơ bản ngày càng tăng. Nhà nước lại không chủ động được việc cung cầu hàng hoá, gây ra sự rối loạn trên thị trường, giá cả thay đổi một cách bất hợp lý so với giá quốc tế. Mặt hàng giá cả bị nhích lên do cơn sốt xi măng, thép, xăng dầu, vàng và ngoại tệ. Thứ ba: Cho đến nay, xương sống của nền kinh tế Việt Nam vẫn là các doanh nghiệp. Những doanh nghiệp này đóng góp 37% vào ngân sách nhà nước. Trong số gần 6000 doanh nghiệp nhà nước thì chỉ riêng 18 tổng công ty lớn với hơn 300 thành viên đã đóng góp trên 70% tổng nộp ngân sách của khu vực kinh tế quốc doanh. Việc làm ăn của nhiều công ty xuất nhập khẩu hàng năm nhà nước phải bù lỗ, bù giá quá lớn có năm chiếm gần 40% tổng số chi cho ngân sách, không những không làm thêm mà còn phải chi ra. Thứ tư: Môi trường đầu tư chậm được cải t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLạm phát - thực trạng và biện pháp khắc phục.doc
Tài liệu liên quan