Đề án Thực trạng và các giải pháp ứng phó với lạm phát tại Việt Nam trong thời gian tới

Trong lĩnh vực sản xuất: tỷ lệ lạm phát cao sẽ làm cho giá đầu vào và giá đầu ra biến động không ngừng gây ra sự mất ổn định đối với nhà sản xuất. Đồng thời, khi lạm phát cao, đồng tiền trong nước mất giá trầm trọng so với ngoại tệ, các nhà đầu tư nước ngoài hiện tại và tiềm năng nhận thấy rằng lợi nhuận thu được bằng đồng bản tệ sẽ đổi được ít ngoại tệ hơn. Do đó, họ rút vốn về nước hoặc không muốn đầu tư nữa. Kết quả là dẫn đến tình trạng kìm hãm đầu tư dài hạn, hạn chế sản xuất, kích thích đầu cơ vào các tài sản mang lại lợi nhuận nhanh chóng như bất động sản, vàng bạc, đá quý,.

Trong lĩnh vực lưu thông: lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ, tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hóa, làm mất cân đối quan hệ cung cầu trên thị trường. Đồng thời do đồng tiền đang bị mất giá nên không ai muốn giữ tiền. Tiền nhanh chóng bị đẩy ra kênh lưu thông. Do có nhiều người tham gia vào lưu thông nên lĩnh vực này trở nên hỗn loạn, tốc độ lưu thông tiền tăng vọt và điều này càng thúc đẩy lạm phát gia tăng.

Trong lĩnh vực tiền tệ: lạm phát làm cho quan hệ thương mại, tín dụng, ngân hàng bị thu hẹp. Khi lạm phát xảy ra, lượng tiền gửi vào ngân hàng giảm mạnh, cộng với việc giảm sút quá nhanh của đồng tiền khiến ngân hàng gặp khó khăn trong việc huy động vốn, đáp ứng được nhu cầu của người đi vay Do vậy hoạt động của hệ thống ngân hàng không còn bình thường nữa, chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế.

Ngoài ra, lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hóa. Khi lạm phát xảy ra thì những thộng tin trong xã hội bị phá hủy do biến động của giá cả và làm cho thị trường bị rối loạn. Khi đó khó có thể phân biệt được doanh nghiệp làm ăn tốt hay kém.

 

doc30 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2122 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng và các giải pháp ứng phó với lạm phát tại Việt Nam trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Q (Sản lượng) P (Mức giá) Đồ thị 1.1: Lạm phát cầu kéo (Nguồn giáo trình Nhập môn tài chính tiền tệ - ĐH Thương Mại) Trong ngắn hạn, đường tổng cung AS (Aggregate demand) mới đầu nằm ngang và sẽ dốc ngược lên khi vượt quá mức sản lượng tiềm năng Q*. Điều này là do khi chưa đạt mức sản lượng tiềm năng, một sự thay đổi nhỏ về giá cả của đầu ra cũng khuyến khích được các hãng tăng nhanh sản lượng sản xuất ra để đáp ứng sự tăng lên của nhu cầu, thu nhiều lợi nhuận hơn. Khi sản lượng của nền kinh tế là Q’ > Q*, chi phí đầu vào đã kịp thời điều chỉnh tăng lên, các hãng không còn động lực để tăng cao sản lượng nữa, do đó dù giá có tăng nhiều nhưng sản lượng vẫn không tăng đáng kể hay đường AS có độ dốc lớn. Lúc đó, cầu tăng mạnh, đường AD0 dịch chuyển lên trên đến vị trí mới là AD1 và mức giá tăng nhanh từ P0 đến P1. Tổng cầu tăng liên tục làm cho đường tổng cầu liên tiếp dịch chuyển về phía bên phải và mức giá không ngừng tăng lên, tức là xảy ra lạm phát cầu kéo. Khi đường cầu dịch chuyển đến AD1, nền kinh tế ở trạng thái vượt quá trạng sản lượng tiềm năng và toàn dụng nhân công, người lao động gây áp lực tăng lương làm cho tổng cung giảm, đường tổng cung AS0 dịch chuyển về bên trái tới vị trí AS1. Mức giá tăng tiếp từ P1 đến P2, nền kinh tế lại chuyển về trạng thái đạt mức sản lượng tiềm năng và toàn dụng nhân công. Cứ như thế, sau khi đường tổng cầu dịch chuyển về bên phải thì đường tổng cung lại dịch chuyển về bên trái kéo theo mức giá tăng liên tục. 1.2.1.2. Lạm phát do chi phí đẩy Q* Q, AD0 AD1 AD2 AS 0 AS 1 AS 2 P 0 P 1 P 2 P 3 Q (Sản lượng) P (Mức giá) Hình thức của lạm phát do chi phí đẩy phát sinh từ phía cung, do chi phí sản xuất cao hơn đã được chuyển sang người tiêu dùng. Điều này chỉ có thể đạt trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế khi người tiêu dùng sẵn sàng trả với giá cao hơn. Ví dụ: Nếu tiền lương chiếm một phần đáng kể trong chi phí sản xuất và dịch vụ và nếu tiền lương tăng nhanh hơn năng suất lao động thì tổng chi phí sản xuất sẽ tăng lên. Nếu nhà sản xuất có thể chuyển việc tăng chi phí này cho người tiêu dùng thì giá bán sẽ tăng lên, công nhân và các công đoàn sẽ yêu cầu tiền lương cao hơn trước để phù hợp với chi phí sinh hoạt tăng lên điều đó tạo vòng xoáy lượng giá. Mô hình dưới đây cho ta thấy quá trình diễn ra lạm phát chi phí đẩy: P (Mức giá) Q (Sản lượng) AS 0 AS 1 AS 2 AD0 AD1 P 1 P 2 P 0 Q* Q, Đồ thị 1.2: Lạm phát chi phí đẩy (Nguồn giáo trình Nhập môn tài chính tiền tệ - ĐH Thương Mại) Ban đầu đường tổng cầu là AD0, đường tổng cung là AS0. Khi chi phí đầu vào tăng (ví dụ giá dầu lửa tăng), các hãng giảm mức cung hàng hoá, dịch vụ và đường tổng cung dịch chuyển sang tới vị trí AS1, sản lượng giảm xuống còn Q’, đẩy mức giá tăng từ P0 lên P1. Hiện tượng mức giá tăng liên tục, đồng thời sản lượng (hay GDP thực tế) suy giảm được gọi tình trạng lạm phát đình trệ hay đình lạm; kèm theo đó là thất nghiệp gia tăng. 1.2.1.3. Lạm phát do cung tiền tệ cao và liên tục Theo quan điểm của các nhà kinh tế học, khi cung tiền tệ tăng lên kéo dài làm cho mức giá tăng lên kéo dài và gây ra lạm phát. Có thể thấy ngưỡng tăng cung tiền để gây lạm phát là nền kinh tế toàn dụng. Thật vậy, ở nền kinh tế toàn dụng, các nhà máy, xí nghiệp được hoạt động hết công suất, nguồn nguyên nhiên vật liệu được khai thác tối đa. Khi đó lực lượng lao động được sử dụng một cách triệt để và làm sản lượng tăng lên rất nhiều. Tuy nhiên, tình hình này sẽ dẫn đến một vài kênh tắc nghẽn trong lưu thông. Chẳng hạn khi các nhà máy, xí nghiệp hoạt động hết công suất sẽ dẫn đến thiếu năng lượng, thiếu lao động, nguyên vật liệu dần bị han hiếm…Vai trò của chính phủ và các nhà quản lý phải xác định được kênh lưu thông nào bị tắc nghẽn và tìm cách khơi thông nó. Nếu không sẽ gây ra lạm phát. Lúc đó sản lượng không tăng mà giá cả tăng nhiều thì lạm phát tất yếu sẽ xảy ra. Ngoài ra còn có một số các nguyên nhân khác cũng gây ra lạm phát: Thứ nhất là tâm lý của dân cư. Khi người dân không tin tưởng vào đồng tiền của Nhà nước, họ sẽ không giữ tiền mà đẩy vào lưu thông bằng việc mua hàng hoá dự trữ hoặc đầu tư vào một lĩnh lực kinh doanh nào đó… Như thế cầu sẽ tăng lên mà cung cấp không đáp ứng được cân bằng cung cầu trên thị trường hàng hoá không còn nữa và tiếp tục đẩy giá lên cao, từ đó lạm phát sẽ xảy ra. Có thể thấy giá cả tăng lên làm tiêu dùng tăng, cứ như vậy sẽ gây ra xoáy ốc lạm phát. Thứ hai là thâm hụt ngân sách. Khi lâm vào tình trạng thâm hụt trầm trọng và kéo dài thì chính phủ phải áp dụng biện pháp in tiền. Việc phát hành tiền sẽ ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ làm tăng mức cung ứng tiền, đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng thêm tỷ lệ lạm phát. Thứ ba là tỷ giá hối đoái. Khi tỷ giá tăng đồng bản tệ sẽ bị mất giá. Khi đó tâm lý những người sản xuất trong nước muốn đẩy giá hàng lên tương ứng với mức tăng tỷ giá hối đoái. Mặt khác khi tỷ giá hối đoái tăng, chi phí cho các nguyên vật liệu, hàng hoá nhập khẩu sẽ tăng lên. Do đó giá cả của các hàng hoá này tăng lên cao. Đây chính là lạm phát do chi phí đẩy. 1.2.2. Mối quan hệ giữa lạm phát và một số biến số kinh tế vĩ mô 1.2.2.1. Quan hệ giữa lạm phát và lãi suất Để thấy rõ mối quan hệ lạm phát và lãi suất chúng ta cần phân biệt lãi suất danh nghĩa (nominal interest rate) và lãi suất thực (real interest rate). Lãi suất được yết tại các ngân hàng hay được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng là lãi suất danh nghĩa. Lãi suất danh nghĩa được đo bằng số lượng tiền tệ. Lãi suất thực là lãi suất đo bằng lượng hàng hóa mua được; đó là tỷ lệ phần trăm lượng hàng hóa tăng lên hoặc giảm đi mà cùng một số tiền hiện tại hay giá trị của số tiền đó trong tương lai có thể mua được do không chi tiêu ngày hôm nay và đem cho vay. Lãi suất thực bằng lãi suất danh nghĩa sau khi đã tính đến tác động của lạm phát. Quan hệ giữa lãi suất và tỷ lệ lạm phát được thể hiện qua đẳng thức sau: Lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát Đẳng thức trên có ý nghĩa quan trọng đối với quyết định mua sắm hay đầu tư. Nếu lãi suất danh nghĩa không đủ để bù đắp tỷ lệ lạm phát thì một người khôn ngoan sẽ không cho vay tiền để sau này được nhận một giá trị thực nhỏ hơn giá trị ban đầu của khoản tiền anh ta có. Quan hệ giữa lãi suất và lạm phát còn áp dụng được khi tính toán để đưa ra quyết định đầu tư. Nếu lợi nhuận/ vốn đầu tư < lãi suất thực thì nhà đầu tư sẽ không có lợi bằng việc đem tiền cho vay (với thời hạn cho vay bằng khoảng thời gian đầu tư) để hưởng lãi suất. 1.2.2.2. Quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp Khi đề cập đến mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp, người ta thường sử dụng đường cong Phillip. Tuy nhiên, đường cong Phillip hiện đại khác với đường Phillip ban đầu ở chỗ: đường Phillip hiện đại phản ánh quan hệ giữa lạm phát giá cả và thất nghiệp chứ không phải giữa lạm phát tiền lương và thất nghiệp; đường Phillip hiện đại có tính đến tỷ lệ lạm phát dự kiến cũng như cú sốc cung. Trong phân tích sau đây, chúng ta sẽ sử dụng đường cong Phillip hiện đại cho phù hợp với thực tiễn kinh tế các nước. Tỷ lệ lạm phát UN UN1 Tỷ lệ thất nghiệp ei' ei (P) (P1) Đường Phillip dài hạn (P') Đường Phillip ngắn hạn Đồ thị 1.3: Đường PhiLip ngắn hạn và dài hạn (Nguồn: Giáo trình kinh tế học vĩ mô – NXB Giáo dục) Trong ngắn hạn: Đường cong Phillip trong ngắn hạn cho thấy mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp khi tỷ lệ lạm phát dự kiến của nền kinh tế ở một mức nhất định. Trong ngắn hạn, quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp là tỷ lệ nghịch, tức là có thể đánh đổi lạm phát cao để lấy thất nghiệp thấp. Nếu lạm phát tăng cao hơn tỷ lệ lạm phát dự kiến (ei) thì thất nghiệp sẽ giảm xuống thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên (UN) và ngược lại. Đường Phillip ngắn hạn sẽ dịch chuyển khi một trong hai yếu tố tỷ lệ lạm phát dự kiến hoặc tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên thay đổi. Khi tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên tăng từ UN đến UN1 thì đường Phillip mới là là đường (P1). Trong trường hợp tỷ lệ lạm phát dự kiến giảm xuống ei’, tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên không đổi thì đường Phillip dịch chuyển sang (P'). Đường Phillip ngắn hạn chỉ thể hiện sự đánh đổi giữa thất nghiệp và lạm phát khi có các cơn sốt cầu: cầu tăng dẫn đến giá tăng cao, sản xuất tăng và thất nghiệp giảm; còn khi xuất hiện các cơn sốt cung: chi phí sản xuất tăng, sản xuất bị thu hẹp làm cho giá cả tăng và thất nghiệp cũng tăng. Dựa vào đường Phillip ngắn hạn, các nhà hoạch định chính sách có thể lựa chọn chính sách kinh tế vĩ mô (nhất là chính sách tài chính, tiền tệ). Chẳng hạn, khi nền kinh tế gặp phải lạm phát cao, chính phủ theo đuổi mục tiêu giảm lạm phát sẽ thắt chặt chính sách tiền tệ (tăng lãi suất, giảm chi tiêu chính phủ...) và thất nghiệp sẽ gia tăng. Ngược lại, nếu nền kinh tế rơi vào suy thoái, thất nghiệp gia tăng thì chính phủ lại kích cầu đầu tư và tiêu dùng để giảm thất nghiệp nhưng phải chấp nhận lạm phát cao. Trong dài hạn: Đường Phillip dài hạn là một đường thẳng song song với trục biểu diễn tỷ lệ lạm phát và cắt trục hoành tại điểm có tỷ lệ lạm phát tự nhiên (UN). Về lâu dài, tỷ lệ thất nghiệp thực tế bằng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên do tác động của các chính sách tài khóa, tiền tệ, dù tỷ lệ lạm phát thay đổi ra sao. Như vậy, không tồn tại mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp trong dài hạn. 1.3. Tác động của lạm phát và một số biện pháp đối phó trong thời kỳ lạm phát 1.3.1. Tác động của lạm phát Lạm phát có những tác động không chỉ về mặt kinh tế mà trên cả khía cạnh chính trị, xã hội. Mức độ tác động tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố như: tỷ lệ lạm phát, khả năng dự toán chính xác sự thay đổi của lạm phát. Khi lạm phát xảy ra với một tỷ lệ chấp nhận được thì sẽ có lợi cho nền kinh tế. Lạm phát ở mức độ nền kinh tế “chịu đựng được” như vậy sẽ kích thích các nhà đầu tư vay nợ để đẩy mạnh sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm, giảm thất nghiệp cho xã hội. Thu nhập của các thành phần trong xã hội cũng vì thế mà cao hơn, thúc đẩy tiêu dùng và tăng trưởng kinh tế. Tính chính xác của những dự đoán về lạm phát cũng ảnh hưởng không nhỏ đến quyết định của các tác nhân trong nền kinh tế. Kỳ vọng về lạm phát làm thay đổi hành vi, sự lựa chọn của họ. Phần lớn mọi người sẵn sàng mua một số hàng hoá nào đó ngay từ hôm nay để tránh sự lên giá nếu họ dự tính mức giá chung sẽ tăng lên trong tương lai. Những người nào dự đoán được tương đối chính xác ảnh hưởng của lạm phát lên thu nhập thì họ có thể tránh được sự giảm sút thu nhập thực tế do lạm phát gây ra. Lạm phát làm cho chúng ta khó có được thông tin về các nhân tố cấu thành nên giá cả hợp lý của một hàng hóa. Dưới đây, chúng ta sẽ xem xét cụ thể từng ảnh hưởng của lạm phát đến nền kinh tế, chính trị-xã hội. 1.3.1.1. Tác động về mặt kinh tế Tác động tích cực: Khi lạm phát ở mức vừa phải (khoảng từ 2% -5% đối với các nước phát triển và dưới 10% ở các nước đang phát triển) và các tác nhân trong nền kinh tế dự tính trước được thì loại lạm phát này có tác dụng tích cực đối với nền kinh tế. Lạm phát vừa phải tạo nên một sự chênh lệch giá cả hàng hóa, dịch vụ giữa các vùng, làm cho hoạt động thương mại trở nên năng động hơn, thúc đẩy các doanh nghiệp mở rộng thị trường hoặc tìm kiếm thị trường mới mang lại nhiều lợi nhuận. Chính việc mở rộng thị trường sẽ thúc đẩy cạnh tranh giữa các doanh nghiệp (bao gồm cả cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất kinh doanh một loại mặt hàng và những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh những mặt hàng khác nhau). Cạnh tranh khiến các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải đưa ra thị trường nhiều sản phẩm có chất lượng cao hơn, giá cả hấp dẫn hơn. Do vậy thương mại năng động hơn. Lạm phát vừa phải làm cho nội tệ mất giá nhẹ so với ngoại tệ. Đây là lợi thế để các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu tăng thu ngoại hối, khuyến khích doanh nghiệp gia tăng vốn đầu tư để mở rộng sản xuất. Đồng thời cũng khuyến khích tiêu dùng làm cho hàng hóa được bán chạy hơn. Do đó, lúc này lạm phát sẽ có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh tế. Tác động tiêu cực: Trong lĩnh vực sản xuất: tỷ lệ lạm phát cao sẽ làm cho giá đầu vào và giá đầu ra biến động không ngừng gây ra sự mất ổn định đối với nhà sản xuất. Đồng thời, khi lạm phát cao, đồng tiền trong nước mất giá trầm trọng so với ngoại tệ, các nhà đầu tư nước ngoài hiện tại và tiềm năng nhận thấy rằng lợi nhuận thu được bằng đồng bản tệ sẽ đổi được ít ngoại tệ hơn. Do đó, họ rút vốn về nước hoặc không muốn đầu tư nữa. Kết quả là dẫn đến tình trạng kìm hãm đầu tư dài hạn, hạn chế sản xuất, kích thích đầu cơ vào các tài sản mang lại lợi nhuận nhanh chóng như bất động sản, vàng bạc, đá quý,... Trong lĩnh vực lưu thông: lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ, tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hóa, làm mất cân đối quan hệ cung cầu trên thị trường. Đồng thời do đồng tiền đang bị mất giá nên không ai muốn giữ tiền. Tiền nhanh chóng bị đẩy ra kênh lưu thông. Do có nhiều người tham gia vào lưu thông nên lĩnh vực này trở nên hỗn loạn, tốc độ lưu thông tiền tăng vọt và điều này càng thúc đẩy lạm phát gia tăng. Trong lĩnh vực tiền tệ: lạm phát làm cho quan hệ thương mại, tín dụng, ngân hàng bị thu hẹp. Khi lạm phát xảy ra, lượng tiền gửi vào ngân hàng giảm mạnh, cộng với việc giảm sút quá nhanh của đồng tiền khiến ngân hàng gặp khó khăn trong việc huy động vốn, đáp ứng được nhu cầu của người đi vay… Do vậy hoạt động của hệ thống ngân hàng không còn bình thường nữa, chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế. Ngoài ra, lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hóa. Khi lạm phát xảy ra thì những thộng tin trong xã hội bị phá hủy do biến động của giá cả và làm cho thị trường bị rối loạn. Khi đó khó có thể phân biệt được doanh nghiệp làm ăn tốt hay kém. 1.3.1.2. Tác động về mặt chính trị-xã hội Tác động tích cực: Lạm phát ở mức độ vừa phải sẽ kích thích các nhà đầu tư vay nợ để đẩy mạnh sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm, giảm thất nghiệp cho xã hội. Lạm phát vừa phải thường tương đồng với một tỷ lệ thất nghiệp nhất định. Đó là yếu tố buộc người lao động muốn có việc làm phải luôn nâng cao trình độ chuyên môn, cạnh tranh chỗ làm việc. Như vậy người sử dụng lao động có cơ hội tuyển chọn được lao động có chất lượng cao hơn. Tác động tiêu cực: Lạm phát cao gây ra tình trạng thất nghiệp của người lao động, các doanh nghiệp rơi vào phá sản, những người cho vay lớn bị thua thiệt quá nhiều. Đời sống của đa số nhân dân trở lên khó khăn, trong họ là tâm lý hoang mang, lo sợ lạm phát sẽ tăng cao hơn nữa, nhiều tệ nạn xã hội nảy sinh. Các mối quan hệ xã hội giữa người đi thuê lao động và công nhân, giữa người đi vay và cho vay, giữa người nộp thuế và nhà nước... cũng bị rạn nứt. Khắp nơi dấy lên những cuộc bãi công biểu tình của công nhân dưới sự bảo trợ của công đoàn để đòi tăng lương. Những bất ổn trong đời sống kinh tế xã hội tất yếu sẽ dẫn tới những bất ổn về mặt chính trị. Những người thất nghiệp, những người nghèo khổ, các chủ doanh nghiệp bị phá sản… tất cả những ai bị thiệt hại nặng nề do lạm phát sẽ giảm dần lòng tin vào chính phủ của họ. Đối với một thể chế nhà nước, không thể nói rằng không có các lực lượng chống phá, cản trở bên trong và bên ngoài nhằm lung lạc rồi lật đổ chính phủ. Lạm phát tăng cao, càng kéo dài và tác động càng nặng nề đến nền kinh tế, xã hội thì đất nước càng khó có được sự bình ổn chính trị. 1.3.2. Các biện pháp đối phó trong thời kỳ lạm phát 1.3.2.1. Biện pháp tình thế Chính sách đóng băng tiền tệ: giảm lượng tiền trong nền kinh tế bằng cách ngưng phát hành tiền vào kênh lưu thông. Đồng thời, dừng các nghiệp vụ làm tăng lượng cung ứng tiền tệ như dừng các nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu đối với các tổ chức tín dụng, dừng việc mua vào các chứng khoán ngắn hạn, không phát hành tiền bù đắp bội chi ngân sách. Bên cạnh đó còn có các biện pháp làm giảm lượng tiền cung ứng như ngân hàng trung ương bán ra các chứng khoán ngắn hạn, bán ngoại tệ, phát hành các công cụ nợ của chính phủ để vay tiền trong nền kinh tế để bù đắp cho thâm hụt ngân sách, tăng lãi suất tiền gửi… Thi hành chính sách thắt chặt tài chính như tạm hoãn những khoản chi không cần thiết, cân đối lại ngân sách và cắt giảm chi tiêu đến mức có thể, nhờ đó mức chi tiêu chung giảm đi lạm phát sẽ chững lại. Tăng lượng hàng hóa tiêu dùng để cân đối với lượng tiền trong lưu thông bằng cách khuyến khích tự do mậu dịch, giảm thuế quan… Đi vay hoặc xin viện trợ từ nước ngoài. Cải cách tiền tệ. Đây là biện pháp cuối cùng khi các biện pháp kia không hiệu quả. 1.3.2.2. Biện pháp chiến lược Biện pháp chiến lược hàng đầu để ổn định tiền tệ trong nền kinh tế là thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa và mở rộng lưu thông hàng hóa vì khi nền sản xuất phát triển sẽ tạo tiền đề vững chắc cho sự ổn định tiền tệ. Kiện toàn bộ máy hành chính, cắt giảm biên chế quản lý hành chính. Đây là biện pháp nhằm giảm thiểu khoản thâm hụt ngân sách nhà nước. Tăng cường công tác quản lý điều hành nhà nước trên cơ sở tăng các khoản thu một cách hợp lý, chống thất thu đặc biệt là thất thu về thuế, nâng cao hiệu quả của các khoản chi ngân sách. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008 - 2010 2.1. Diễn biến lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 2008-2010 Tình hình lạm phát ở Viêt Nam trong giai đoạn 2008-2010 diễn biến khá phức tạp. Để tìm hiểu rõ hơn diễn biến lạm phát trong giai đoạn này, ta tiến hành phân tích từng năm 2008, 2009, 2010. Biểu đồ 2.1: Diễn biến CPI trong giai đoạn 2008-2010 (tự minh họa dựa trên số liệu thu thập được từ website vneconomy.vn) 2.1.1. Năm 2008 Trong hơn nửa đầu năm 2008, lạm phát là vấn đề số một của nền kinh tế Viêt nam. Tốc độ tăng giá tiêu dùng liên tục tăng ở mức 2%/tháng với đỉnh điểm vào tháng 2 và tháng 5 (tăng 3,91 %). Biểu đồ 2.2: Diễn biến CPI trong năm 2008. Vào tháng 6/2008, giá hàng hóa trên thế giới bắt đầu giảm khiến tốc độ tăng lạm phát đã giảm xuống mức dưới 2%/tháng (tháng 7-8/2008) và xấp xỉ 0%/tháng trong tháng 9/2008. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bước vào giai đoạn bùng phát vào tháng 9/2008 và nhanh chóng lan tỏa tới các lĩnh vực kinh tế khác, dẫn tới suy thoái kinh tế toàn cầu. Việc cắt giảm đầu tư và tiêu dùng dẫn tới một sự giảm đột ngột về cầu khiến cho nhiều giá nhiều mặt hàng giảm mạnh. Tính trong 4 tháng từ tháng 8 đến tháng 11/2008, giá nguyên liệu thế giới giảm 58% với đà giảm gia tăng. Giảm phát ở Việt nam có độ trễ 2 tháng so với nước ngoài và chính thức bắt đầu từ tháng 10/2008. Tháng 12/2008, chỉ số giá của nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống đã tăng 31,86%, trong đó lương thực tăng 43,25%, thực phẩm tăng 26,53%, ăn uống ngoài gia đình tăng 33,62%. So với tháng 12/2007, chỉ số giá vàng tháng cuối năm nay đã tăng 6,83%, chỉ số giá USD tăng 6,31%. Còn so với tháng 11/2008, đóng góp vào mức tăng âm của tháng 12/2008 là do các nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng cũng giảm tới 2,36%; nhóm phương tiện đi lại, bưu điện giảm 6,77%. 2.1.2. Năm 2009 Không có những đột biến lớn, không bất thường về quy luật, diễn biến chỉ số giá tiêu dùng năm 2009 cho cảm giác khá trầm lắng. Nhưng trong một năm nền kinh tế trầm, thăng phức tạp, CPI vẫn có sự đảo chiều tương ứng. Biểu đồ 2.3: Diễn biến CPI trong năm 2009 Trên biểu đồ, tốc độ tăng CPI theo tháng đạt đỉnh 4 lần trong năm qua, ở các tháng 2, 6, 9 và 12, với các mức tăng 1,17%; 0,55%; 0,62% và 1,38%. Trong 8 tháng đầu tiên, diễn biến chỉ số giá là biểu hiện của kìm nén, ít nhiều theo tính quy luật và cho cảm nhận an toàn. Tuy nhiên trong 4 tháng còn lại, đường biểu diễn xóc nhẹ, báo hiệu những đột biến, để rồi tăng dần và dựng ngược lên trong tháng tận cùng của năm, hiện thực hóa phần cảm nhận lơ lửng đâu đó về nguy cơ tái lạm phát. Trong tháng 1/2009 CPI lên nhẹ 0,32%. Nhưng đến tháng 2, Tết Kỷ Sửu và rằm tháng Giêng kéo giá lương thực, thực phẩm và nhiều loại hàng hóa, dịch vụ đồng loạt lên mức cao. Ở đỉnh cao thứ nhất, CPI tăng 1,17%, trước khi đảo chiều giảm âm 0,17% trong tháng 3 ngay sau đó. Từ tháng 4 đến tháng 8 chỉ số giá hạ nhiệt chỉ còn tăng 0,24% trong tháng 8. Mức chênh lệch trong giai đoạn này chỉ 0,31 điểm phần trăm và gần như không có đột biến lớn. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tính cho tới tháng 8/2009 đã có sự cải thiện. So với cùng kỳ năm trước, mức tăng đạt 18,4%, loại trừ yếu tố giá còn tăng 9,3%. Trong khi đó, giá một số nguyên liệu trên thế giới bắt đầu hồi phục, đặc biệt là mặt hàng xăng dầu. Tính cho đến ngày 30/8, giá xăng dầu đã tăng 7 lần liên tiếp, chốt lại mặt bằng giá mới ở mức xăng A92 có giá bán 15.700 đồng/lít. Bước sang tháng 9, đã xuất hiện những diễn biến “ngược dòng”. CPI đạt đỉnh ở mức tăng 0,62% rồi tạm “nghỉ” ở mức tăng 0,37% của tháng 10 sau đó. So với chu kỳ trước, các con số đỉnh và đáy tương ứng đều cao hơn, báo hiệu những lo ngại tiềm ẩn của lạm phát tiếp tục gia tăng. Sự điều chỉnh nhỏ trong tháng 10 được hỗ trợ một phần từ việc giá xăng dầu giảm lần đầu tiên trong năm vào ngày 1/10. Giá lương thực, thực phẩm chỉ tăng rất nhẹ so với tháng trước đó. Về tác động của tăng giá trên thị trường thế giới, đến tháng 11/2009, giá gạo 5% tấn xuất khẩu của Việt Nam tăng lên mức 451,31 USD/tấn. Do có quyền số cao tới hơn 40% trong rổ hàng hóa tính CPI, tăng giá lương thực tác động mạnh đến giá cả trong nước, CPI nhóm hàng này tháng 12/2009 đã tăng 7,54% so với một năm trước đó. Năm 2009 khép lại với chỉ số giá chấp nhận được trong tất cả các mức so sánh. Nhưng sự gia tăng mạnh mẽ chỉ số CPI tháng cuối cùng của năm khiến niềm vui chưa thể trọn vẹn trong những ngày đón năm mới 2010. 2.1.3. Năm 2010 Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2010 như hình chiếc cốc, tạo bởi mức chênh lệch giữa tháng tăng đỉnh và đáy lên đến hơn 1,5%, khá tương đồng với năm 2007. Hai điểm cao nhất đều được tạo thành từ mức tăng xấp xỉ 2% của tháng 2 và tháng 12, trong khi đáy kéo dài từ tháng 4 đến tháng 8, chỉ biến động quanh mức 0%, xác định kỷ lục ngược với xu thể kể trên. Biểu đồ 2.4: Diễn biến CPI trong năm 2010 Các mức tăng CPI hai tháng đầu năm đều trên 1% và tiến gần 2% cũng không phải quá bất thường, nhưng khác biệt trong năm nay lại rơi vào tháng 3, khi chỉ số giá tiêu dùng không chịu xuống mạnh như các năm trước. Từ tháng 4 đến tháng 8, chỉ số giá tiêu dùng liên tục tăng rất thấp, về gần sát mức 0% (tháng 7 chỉ tăng 0,06% so với tháng 6). Xét về cao độ, các mức tăng này lập kỷ lục về độ thấp kể từ 2004 đến nay. Tăng thấp giai đoạn giữa năm, thậm chí có năm giảm một số tháng, không phải là bất thường do sản xuất ở giai đoạn này đã vào guồng, cung cầu không có đột biến lớn. Tuy nhiên, mức tăng thấp kỷ lục của các tháng giữa năm 2010 có sự khác biệt, một phần nhờ hiệu quả các chính sách vĩ mô. 4 tháng cuối năm, chỉ số CPI liên tục duy trì ở mức cao. Có tới 3 tháng đạt kỷ lục về cao độ, cho thấy sức nóng của lạm phát đã ở gần. Nhìn trong cả năm 2010, diễn biến CPI gần như song hành cùng những thay đổi chính sách vĩ mô và can thiệp thì trường từ cơ quan chức năng. Những ngày năm mới đang đến cũng đóng lại một năm lạm phát không đạt chỉ tiêu, nhưng còn neo lại những đoán định về hướng điều chỉnh chính sách có thể xuất hiện trong đầu năm tới. 2.2. Nguyên nhân gây ra lạm phát 2.2.1. Lạm phát do cầu kéo Do lượng tiền cung ứng vào lưu thông quá nhiều, quan hệ tiền - hàng mất cân đối nghiêm trọng. Điều đáng chú ý là chính sách tài chính và chính sách tiền tệ được nới lỏng từ nhiều năm trước và tiếp tục được nới lỏng trong giai đoạn 2008-2010. Tổng đầu tư của xã hội tăng mạnh cao hơn nhiều so với năm các năm trước, tổng chi ngân sách nhà nước đạt 399,3 nghìn tỷ đồng, vượt khoảng 11,7% so với dự toán. Bội chi ngân sách nhà nước 56,5 nghìn tỷ đồng, bằng 4,95% GDP. Thâm hụt cán cân thương mại là 14,12 tỷ USD, bằng 29% tổng kim ngạch xuất khẩu. Điều đó dẫn đến cả chi tiêu công và tư đều tăng làm tăng nhu cầu trong khi nền cung không tiến kịp dẫn đến cầu lớn hơn cung kéo giá cả tăng, gây ra lạm phát cầu kéo. 2.2.2. Lạm phát do chi phí đẩy Việc tăng lương, tăng giá xăng dầu, điện nước, vận tải…đều xuất phát từ phía người bán và nhiều khi còn được cộng hưởng với việc điều hành, quản lý giá chưa hiệu quả của nhà nước. Sự hợp lực của hai yếu tố này đã tạo lực đẩy chi phí sản xuất kinh doanh tăng cao làm tăng giá bán hàng hóa, dịch vụ. Nền kinh tế nước ta phải đối mặt với tình trạng nhập siêu hơn 20 năm nay do hiệu quả cũng như năng suất lao động thấp, khả năng tiêu hóa các luồng vốn lớn từ bên ngoài còn kém... Tình trạng nhập siêu còn nghiêm trọng hơn vào đầu năm 2008, từ đó tạo điều kiện cho lạm phát chi phí đẩy bùng phát. Ngoài ra, do nền kinh tế nước ta bị phụ thuộc nhiều vào bên ngoài nên khi gía cả trên thị trường thể giới tăng mạnh trong giai đoạn 2008-2010, giá cả trong nước cũng biến động theo một cách thất thường, dẫn tới lạm phát chi phí đẩy. 2.2.3. Lạm phát do cung tiền tệ cao và liên tục Tăng trưởng tín dụng trong nước được mở rộng quá mức từ 2007-2009 và kéo dài sang nhiều tháng đầu năm 2010 làm cho việc cấp tín dụng cho các hoạt động đầu cơ chứng khoán, đầu cơ bất động sản còn dễ dàng hơn cấp tín dụng cho các dự án đầu tư hoạt động sản xuất kinh doanh. Chỉ trong 3 năm, cung tiền tăng 135% nhưng GDP chỉ tăng 27%, tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng tăng gấp đôi so với các

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 2008-2010 và các giải pháp ứng phó trong thời gian tới.doc
Tài liệu liên quan