Đề án Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam

MỤC LỤC

Lời nói đầu 2

Danh mục các từ viết tắt. 3

Phần I: Chính sách tiền tệ và các công cụ của chính sách tiền tệ 4

1. Khái niệm và vị trí của Chính sách tiền tệ 4

2. Các mục tiêu của chính sách tiền tệ 5

3. Các công cụ của chính sách tiền tệ 6

3.1. Chính sách chiết khấu 6

3.2. Tỷ lệ Dự trữ bắt buộc 8

3.3. Nghiệp vụ thị trường mở 9

3.4. Hạn mức tín dụng 10

3.5. Khung lãi suất tiền gửi và cho vay. 11

Phần II: Thực trạng sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong những năm qua. 13

1. Sự đổi mới trong việc thực hiện chính sách tiền tệ 13

2. Thực trạng sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam 14

2.1.Dự trữ bắt buộc 14

2.2. Lãi xuất tái chiết khấu 15

2.3. Nghiệp vụ thị trường mở 16

2.4. Hạn mức tín dụng 17

2.5. Lãi xuất tín dụng 18

2.6. Tỷ giá . 19

Phần III: Giải pháp nâng cao hiệu quả công cụ điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam 21

1. Định hướng 21

1.1 Bối cảnh trong nước và quốc tế. 21

1.2 Một số định hướng cơ bản. 22

2. Giải pháp nâng cao hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ 22

Kết luận 24

Tài liệu tham khảo 25

 

 

doc25 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2656 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nền kinh tế. Ngoài ra, việc thực thi chính sách tiền tệ còn nhằm mục tiêu ổn định giá cả mà thực chất là mục tiêu ổn định lạm phát. Muốn ổn định được lạm phát thì chúng ta phải có những công cụ thích hợp để điều hoà được lượng tiền trong lưu thông. Do hàng năm nếu nền kinh tế tăng trưởng thì ta phải tăng thêm lượng tiền vào lưu thông với khối lượng đúng bằng tỷ lệ tăng trưởng đó. Có như vậy thì giá cả mới được ổn định, tỷ lệ lạm phát được ổn định. Nếu như ta vẫn ấn định một khối lượng tiền tệ cứng nhắc một lần cho khoảng thời gian dài sẽ có tác dụng làm cho giá cả và lương giảm nếu sản xuất tăng nên tạo ra nhiều căng thẳng trong hoạt động sản xuất, lưu thông phân phối, ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế. Như vậy việc duy trì giá cả hay mức lạm phát ở mức hợp lý chính là một công việc hết sức khó khăn và phức tạp. Đòi hỏi các nhà nghiên cứu phải nghiên cứu tỷ lệ lạm phát dự kiến để từng bước điều chỉnh tỷ lệ lạm phát trong tương lai. Mặt khác, việc thay đổi cung ứng tiền tệ nhằm thay đổi lãi suất là một nhiệm vụ của chính sách tiền tệ. Thực tế cho thấy lãi suất ảnh hưởng trực tiếp tới đầu tư, tác động vào sản xuất sản phẩm, đồng thời ảnh hưởng đến tỷ lệ dự trữ của ngân hàng thương mại... Do vậy, phải ổn định lãi suất thì nền kinh tế mới phát triển một cách vững chắc được. Ngày nay, khi nền kinh tế thế giới đang phát triển, nhu cầu buôn bán giao lưu quốc tế ngày càng tăng thì mục tiêu ổn định thị trường ngoại hối ngày càng trở nên quan trọng. Do đó, nhà nước phải ổn định sức mua của đồng tiền, tỷ giá, phải thu hút ngoại tệ phục vụ cho sự phát triển của đất nước. Chính sách tiền tệ đóng vai trò quan trọng, góp phần rút ngắn thời gian ngưng trệ và suy thoái kinh tế để chuyển sang giai đoạn tăng trưởng kinh tế, nhất là làm sao duy trì một mức độ tăng trưởng với lạm phát ở tỷ lệ chấp nhận được, có thể là tỷ lệ lạm phát một con só, hay nói cách khác một tỷ lệ lạm phát thấp với tỷ lệ thất nghiệp thấp. 3. Các công cụ của chính sách tiền tệ Chính sách tiền tệ của NHTƯ về điều tiết cung ứng tiền để hình thành lãi suất, dự trữ, tỷ giá... nhằm điều tiết kinh tế vĩ mô được thực hiện thông qua các công cụ của nó. Những công cụ này là những thao tác nghiệp vụ mà NHTƯ thực hiện thường xuyên như những hoạt động bình thường mỗi ngày. Có các loại công cụ chủ yếu sau: 3.1. Chính sách chiết khấu Chính sách chiết khấu là công cụ của Ngân hàng trung ương trong việc thực thi chính sách tiền tệ, bằng cách cho vay tái cấp vốn cho các ngân hàng kinh doanh. Khi Ngân hàng trung ương cho vay các ngân hàng kinh doanh làm tăng thêm tiền dự trữ cho hệ thống ngân hàng, từ đó làm tăng thêm lượng tiền cung ứng. Cơ chế tác động Ngân hàng trung ương kiểm soát công cụ này chủ yếu bằng cách tác động đến giá cả khoản vay (lãi suất cho vay tái chiết khấu). Khi Ngân hàng trung ương nâng lãi suất tái chiết khấu, tức làm cho giá của khoản vay tăng, hạn chế cho vay các ngân hàng kinh doanh, làm cho khả năng cho vay đối với nền kinh tế của các ngân hàng kinh doanh giảm xuống, lượng tiền cung ứng giảm. Ngược lại, khi Ngân hàng trung ương giảm lãi suất cho vay tái chiết khấu, giá của khoản vay rẻ hơn, khuyến khích cho vay các ngân hàng kinh doanh, làm cho khả năng cho vay của ngân hàng kinh doanh đối với nền kinh tế tăng lên, lượng tiền cung ứng tăng lên. Nếu chính sách là thắt chặt: NHTƯ quyết định nâng cao lãi suất chiết khấu. Lãi suất chiếu khấu tăng làm cho NHTG không thể vay NHTƯ nhiều và dễ dàng như trước. NHTG phải hạn chế bớt những cơ hội cho vay để bảo đảm dự trữ. Như vậy, tác động trước hết làm tăng dự trữ của các NHTG, giảm cho vay, hậu quả là tổng cầu và sản lượng giảm theo. Tác động tiếp theo làm cho NHTG có ý thức rằng trong trường hợp khẩn cần vay nóng của NHTƯ thì NHTG phải trả lãi suất cao buộc NHTG phải từ từ nâng lãi suất lên theo để tránh thiệt hại khi phải vay của NHTƯ. Do đó lãi suất tiếp tục thắt chặt làm ảnh hưởng đến cung ứng tiền và tác động đến nền kinh tế. Ưu điểm Do việc vay mượn thực hiện trên nền các giấy tờ có giá nên thời hạn vay mượn tương đối rõ ràng, việc hoàn trả tương đối chắc chắn. Thông qua biện pháp chiết khấu và tái chiết khấu cụ thể là thông qua lãi suất chiết khấu, NHTƯ có thể thực hiện tốt hơn vai trò người cho vay cuối cùng. Hạn chế NHTƯ có thể thay đổi lãi suất chiết khấu nhưng không thể bắt các NHTM phải đi vay tức là NHTM có quyền tự do vay hoặc không. Do vậy NHTƯ khó có thể kiểm soát được việc cung ứng tiền một cách có hiệu quả. Hơn nữa lại rất khó trong việc đảo ngược những thay đổi trong chính sách chiết khấu. Khi NHTƯ ấn định một lãi suất đặc biệt nào đó tạo ra sự biến động khoảng cách giữa lãi suất tái chiết khấu và lãi suất thị trường, dẫn tới thay đổi ngoài dự kiến khối lượng tiền vay, khó kiểm soát cung tiền tệ. 3.2 Tỷ lệ dự trữ bắt buộc Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các tổ chức tín dụng phải giữ lại, mà không được dùng để cho vay hoặc đầu tư, mức dự trữ này do Ngân hàng trung ương quy định và bằng một tỷ lệ nhất định so với tổng số tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng. Cơ chế tác động Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực tiếp đến số nhân tiền tệ (m=1+s/s+ER+RR) trong cơ chế tạo tiền của các NHTM. Mặt khác khi tăng (giảm) tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì khả năng cho vay của các NHTM giảm (tăng), làm cho lãi suất cho vay tăng (giảm), từ đó làm cho lượng cung ứng tiền giảm (tăng) Ưu điểm Có thể thấy, dự trữ bắt buộc là công cụ tiềm năng của chính sách tiền tệ, nó có thể tác động đến tất cả các ngân hàng và tác động mạnh tới cung tiền. Khi sử dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì nguồn vốn tư bản nước ngoài không thể theo con đường gián tiếp mà phải đầu tư trực tiếp có lợi cho nền kinh tế. Tạo điều kiện cho sự kiểm soát tín dụng của NHTƯ đối với NHTM, đồng thời tránh sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng. Hạn chế Sẽ rất vất vả để thực hiện những thay đổi nhỏ trong cung ứng tiền tệ bằng cách thay đổi RR bởi vì phải tốn kém rất nhiều để quản lý những thay đỏi trong RR. Thực tế cho thấy đây là một công cụ quá mạnh, chỉ cần tăng một lượng nhỏ RR sẽ làm cho 1 D = x R giảm xuống một lượng rất lớn gây ra những cú sốc. rr Mặt khác, RR có thể gây rắc rối với vấn đề thanh khoản của NHTM. Đối với những NHTM có ER ở mức thấp làm cho hệ số sử dụng vốn của các NHTM quá thấp ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện chính sách lãi suất của các NHTM này. Gây ra sự bất lợi cho kinh doanh và huy động vốn của các NHTM và làm đình đốn tín dụng. 3.3. Nghiệp vụ thị trường mở Nghiệp vụ thị trường mở là những hoạt động mua bán chứng khoán do NHTƯ thực hiện trên thị trường mở nhằm tác động tới cơ số tiền tệ qua đó điều tiết lượng tiền cung ứng. Cơ chế tác động Khi Ngân hàng trung ương mua chứng khoán, làm tăng cơ số tiền tệ, qua đó làm tăng lượng tiền cung ứng. Khi Ngân hàng trung ương bán chứng khoán, làm thu hẹp cơ số tiền tệ, qua đó làm giảm lượng tiền cung ứng. Ưu điểm Nghiệp vụ thị trường mở linh hoạt và chính xác, có thể sử dụng ở bất cứ mức độ nào. Nó có thể thực hiện mong muốn thay đổi mức dự trữ bằng việc mua và bán trái phiếu cổ phiếu. Nếu muốn mức thay đổi nhỏ, NHTƯ có thể mua, bán ít trái phiếu. Còn nếu muốn thay đổi lớn thì NHTƯ mua hoặc bán nhiều trái phiếu hơn. Nghiệp vụ thị trường mở rất dễ dàng đảo ngược lại: nếu NHTƯ thấy cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh do sức mua trên thị trường tự do quá nhiều thì có thể sửa chữa ngay lập tức bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán trên thị trường tự do. Thông qua nghiệp vụ thị trường mở, NHTƯ có thể điều tiết lượng tiền như ý muốn vì các NHTM có quyền tự do trong việc mua hay không mua trái phiếu. Nghiệp vụ thị trường mở có thể được hoàn thành nhanh chóng, ít tốn kém về chi phí và thời gian. Hạn chế NHTƯ có thể không đạt được mục tiêu đã đề ra do nghiệp vụ thị trường mở chỉ thực sự hữu hiệu khi nền kinh tế đã phát triển rất cao, cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt đã phát triển. Ngoài 3 công cụ được sử dụng một cách thường xuyên như trên, đối với các nước khác nhau thì có những đặc điểm về kinh tế và chính trị, xã hội... khác nhau. Do đó việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ được mở rộng thêm như hạn mức tín dụng , khung lãi suất tiền gửi và cho vay. 3.4. Hạn mức tín dụng Hạn mức tín dụng là khối lượng tín dụng tối đa mà NHTƯ có thể cung ứng cho tất cả các NHTM trong thời kỳ nhất định (năm hay quý), phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế của thời kỳ đó. Khi ổn định hạn mức tín dụng cho mỗi thời kỳ, NHTƯ thường căn cứ vào kế hoạch tăng trưởng kinh tế cộng với chỉ số lạm phát cho phép trong thời kỳ đó. Hạn mức tín dụng này không phải là chỉ tiêu ấn định cho toàn bộ nền kinh tế mà là chỉ tiêu ấn định đối với các doanh nghiệp. Các NHTM có thể thực hiện mức tín dụng của mình lớn hơn mức tín dụng mà NHTƯ ấn định cho ngân hàng mình nếu NHTM này huy động được khối lượng vốn lớn hơn. Vì vốn do các NHTM huy động và cho vay ra dù lớn hơn rất nhiều lần hạn mức tín dụng được NHTƯ cung ứng cũng không ảnh hưởng đến khối lượng tiền tệ vào hay rút ra khỏi lưu thông. Ưu điểm Hạn mức tín dụng là một biện pháp mạnh có hiệu quả đáng kể. Thông qua đó, NHTƯ khống chế được lượng tiền cung ứng một cách có hiệu quả. Hạn chế Trên cơ sở hạn mức tín dụng, NHTƯ tiến hành phân bổ hạn mức tín dụng. Cùng với thời gian, hạn mức có từng thời điểm này phù hợp, thời điểm khác lại không phù hợp. Điều này gây ra các khó khăn cho các đơn vị khi nhu cầu vay vốn của khách hàng tăng cao trong khi đó các nguồn kể cả hạn mức tín dụng cũng không đủ. Kiểm soát bằng hạn mức là cách kiểm soát gò bó, cứng nhắc không phù hợp với cơ chế hiện nay, một cơ chế đòi hỏi sự quản lý phải hết sức mềm dẻo, uyển chuyển, khống chế hạn mức tín dụng có thể làm mất đi cơ hội đầu tư của một số ngân hàng, giảm khả năng điều tiết của NHTƯ. Vì việc điều chỉnh tăng hạn mức tín dụng không thể một sớm một chiều mà cần có thời gian vì vậy tính kịp thời khó đảm bảo. Việc kiểm soát bằng hạn mức tín dụng có thể là một trong nhiều nguyên nhân đẩy lãi xuất lên. Trong khi nhu cầu chiết khấu để vay NHTƯ của một số ngân hàng phát sinh không được giải quyết do hết hạn mức tín dụng thì ở một số ngân hàng khác mức tín dụng lại tạm thời dư thừa. Ở đây quan hệ trao đổi sẽ diễn ra và chi phí sẽ góp phần làm cho lãi xuất tăng lên. 3.5. Khung lãi xuất tiền gửi và cho vay Thông thường chính sách lãi suất tiền gửi và cho vay biến đổi cùng chiều, nghĩa là cả hai mức lãi xuất đó đều tăng nên hay giảm xuống: Khi lãi xuất tiền gửi được tăng lên thì lãi xuất cho vay cũng được nâng lên và ngược lại, tuỳ theo chính sách của NHTƯ. Trong thực tế, NHTƯ định hướng tín dụng cho các NHTM qua chính sách lãi xuất chiết khấu và tái chiết khấu như đã trình bày ở phần trên. NHTƯ rất ít khi quy định một lãi xuất cố định trần hay sàn. Vì nếu lãi suất quy định cao sẽ thu hút nhiều tiền gửi, giảm khả năng kinh doanh tín dụng. Song biện pháp này sẽ làm cho các NHTM mất tính chủ động, linh hoạt trong kinh doanh. Mặt khác, nó dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn của các ngân hàng, nhưng lại thiếu vốn đầu tư, hoặc khuyến khích dân cư dùng tiền vào dự dữ vàng, ngoại tệ, bất động sản trong khi ngân hàng hụt hẫng về tiền mặt cũng như nguồn vốn cho vay. NHTƯ có thể quy định khung lãi suất cho vay buộc các ngân hàng kinh doanh phải chấp hành. Khi muốn tăng khối lượng cho vay, NHTƯ giảm mức lãi suất cho vay để kích thích các nhà đầu tư vay vốn. Khi cần hạn chế đầu tư NHTƯ ấn định mức lãi suất cao. Ưu điểm Biện pháp này có ưu điểm là giúp các ngân hàng lựa chọn dự án kinh tế tối ưu để cho vay, loại bỏ các dự án kém hiệu quả Nhược điểm Tuy nhiên quy định khung lãi suất tiền gửi hay quy định lãi suất trần và sàn làm cho tính linh hoạt của thị trường tiền tệ bị suy giảm, các NHTM bị động trong kinh doanh, hạn chế đầu tư. PHẦN II THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA 1. Sự đổi mới trong việc thực hiện chính sách tiền tệ Kể từ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường thì quá trình thực hiện chính sách tiền tệ cũng được xây dựng, đổi mới theo đúng ý nghĩa kinh tế của nó và phù hợp với thực tiễn Việt Nam, thể hiện ở một số mặt sau: Cách xác định lượng tiền cung ứng: Nếu như trong thời kỳ bao cấp chúng ta chỉ quan niệm lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế chỉ bao gồm tiền mặt và mức cung là bao nhiêu, ở thời kỳ nào là do Chính phủ phê duyệt thì ngày nay việc quan niệm về lượng tiền cung ứng để thay đổi bên lượng tiền mặt còn tính đến khả năng tạo tiền của các NHTM, tổ chức tín dụng khác. Bên cạnh đó lượng tiền cung ứng hàng năm phải dựa trên cơ sở: tỉ lệ lạm phát ước tính, tốc độ tăng trưởng kinh tế theo kế hoạch, vòng quay tiền tệ… Việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ: được sử dụng một cách linh hoạt, phù hợp với điều kiện Việt Nam ở các thời điểm cụ thể chứ không đông cứng, đóng băng như ở thời kỳ bao cấp. Cơ chế điều hành: Năm 1988, hệ thống Ngân hàng đã được phân thành 2 cấp là Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng Thương mại, trong đó Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lý Nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ – tín dụng – ngân hàng và trực thuộc Chính phủ. Thống đốc NHNN có quyền chủ động hơn và chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. 2. Thực trạng sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam 2.1. Dự trữ bắt buộc Dự trữ bắt buộc là một công cụ quan trọng nhất thuộc tầm chiến lược của chính sách tiền tệ. Với một tỷ lệ dự trữ bắt buộc hợp lý sẽ làm cho các NHTM có thể thực hiện được chức năng tạo tiền và hạn chế khả năng tạo tiền khi cần thiết. Thực tế cho thấy quốc gia nào sử dụng tốt công cụ này thì sẽ có thể điều tiết được một cách có hiệu quả chu kỳ phát triển của nền kinh tế, ổn định tiền tệ và kiểm soát được lạm phát. Ở nước ta, công cụ dự trữ bắt buộc chính thức được sử dụng từ năm 1989. Từ đó đến nay công cụ này đóng một vai trò rất quan trọng trong việc làm tăng, giảm hệ số tạo tiền, kiểm soát tốc độ tăng của tổng phương tiện thanh toán và áp lực tăng giá cả của nền kinh tế. Đối với nước ta, trong một thời gian dài Nhà nước (NHTƯ) đã quy định một tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với hệ thống ngân hàng là 10%. Tỷ lệ này được ổn định và giữ cố định trong khi cùng thời gian này chính sách tiền tệ đã có những thay đổi nhiều sao cho phù hợp với các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội... của quốc gia. Như vậy, việc thực hiện bơm tiền vào lưu thông luôn được thực hiện theo những dự kiến nhất định mà không hề tính đến sự biến động của nền kinh tế. Mặt khác, điều quan trọng đối với hệ thống ngân hàng là khả năng tạo tiền thì trong thực tế có nhiều phản ứng không thuận lợi. Các ngân hàng có thể không kiếm đủ khách hàng để cho vay tới mức tối đa. Trong rất nhiều trường hợp, hoạt động kinh tế phát triển, nhu cầu tiền mặt trong lưu thông phải nhiều hơn, do đó khả năng những cuộc chi trả do khách hàng vay ở ngân hàng thực hiện sẽ không trở lại ngân hàng hàng ngày, tức là giảm bớt khả năng cho vay và tạo ký thác ở những ngân hàng kế tiếp. Từ đó có thể suy ra, việc cung ứng tiền hay thu hẹp khối lượng tiền tệ trong lưu thông bằng tỷ lệ dự trữ bắt cuộc không phải là hoàn hảo. Đến đầu năm 1994, NHTƯ có sự thay đổi trong quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc (đối với tiền gửi không kỳ hạn là 13%, đối với tiền gửi có kỳ hạn là 7%) nhưng vẫn để áp dụng trong nhiều năm. Thực tế đã chứng minh việc thực hiện tỷ lệ dự trữ bắt buộc phải thường xuyên thay đổi phù hợp vơí yêu cầu của việc thực hiện chính sách tiền tệ thì công cụ này mới có ý nghĩa. Ngoài ra, khi tổ chức thực hiện dự trữ bắt buộc thì theo nguyên tắc việc trích tiền ký quỹ dự trữ đặc biệt phải được thực hiện hàng ngày, phải nắm được số dư tiền gửi hàng ngày nhưng trên thực tế ở nước ta đã thực hiện theo định kỳ nửa tháng. Điều này làm giảm tính nhạy cảm của công cụ này. Từ năm 1999 đến nay, NHTƯ đã có những điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các NHTM và các tổ chức tín dụng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã giảm từ 10% xuống 5% trong năm 2000 đối với các tổ chức tài chính. Đối với NHTMCP Nông thôn, quỹ tín dụng trung ương, quỹ tín dụng khu vực tỷ lệ này là 1% còn các NHNN & PTNT tỷ lệ này giảm xuống mức 3%. Việc hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc trên đã góp phần làm giảm được chi phí hoạt động của NHTM, tạo cho các NHTM linh hoạt nguồn vốn khả dụng của mình, tạo ra các cơ hội đầu tư mới. Nhìn chung, ở Việt Nam công cụ dự trữ bắt buộc thực sự chưa được sử dụng linh hoạt, nhạy bén nên đã hạn chế chức năng vốn có của nó. 2.2. Lãi suất tái chiết khấu: Lãi suất tái chiết khấu là công cụ quan trọng và được sử dụng khá hiệu quả ở nhiểu quốc gia trên thế giới. Công cụ lãi suất tái chiết khấu đã được Nhà nước ta chính thức đưa vào sử dụng và quy định tại điều 41 và 43 của pháp lệnh ngân hàng. Nhưng thực tế, Việt Nam đang ở giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới đất nước theo cơ chế thị trường nên chưa có đầy đủ các công cụ (trái phiếu, thương phiếu...) để thực hiện công cụ lãi suất tái chiết khấu. Vì thế NHNN Việt Nam đã sử dụng hình thức cho vay cầm cố. Hình thức này được thực hiện bằng cách các NHTM đem giấy tờ có giá tới NHTƯ làm vật thế chấp để vay tiền. Trong một thời gian khá dài đây là công cụ thay thế cho công cụ lãi suất tái chiết khấu góp phần giúp NHTƯ điều khiển khối lượng tín dụng khá hữu hiệu. Tuy nhiên khi áp dụng hình thức cho vay cầm cố, NHTƯ thường áp dụng tỷ lệ lãi suất bị động, chạy theo lãi suất của các ngân hàng thương mại quốc doanh, chỉ các NHTM quốc doanh mới chịu sự chi phối của công cụ này, còn NHTMCP không chịu sự tác động. Ngày 1/7/1997, khi thị trường của nước ta đã phát triển một cách hoàn chỉnh hơn, thống đốc NHNNVN quy định lãi suất tái chiết khấu là 0,9%/tháng, trong khi trần lãi suất cho vay ngắn hạn là 1%/tháng. Vậy là NHTM được lợi 0,1% /tháng. Đến đầu năm 2000, lãi suất tái chiết khấu là 0,45%. Tuy nhiên, do hạn chế xuất phát từ chính công cụ lãi suất tái chiết khấu như đã trình bầy ở trên và sự chưa hoàn chỉnh của thị trường tiền tệ ở Việt Nam làm cho việc thi hành chính sách tiền tệ quốc gia chưa đem lại hiệu quả như mong muốn. 2.3. Nghiệp vụ thị trường mở Ở nước ta, việc thiết lập và điều khiển các thị trường tiền tệ thuộc thẩm quyền của NHNNVN theo quy định tại điều 48 của pháp lệnh về NHNN. Vừa qua, chúng ta đã thành lập thị trường tiền tệ ở hình thức thị trường liên ngân hàng mua bán bằng lãi suất. Mặc dù, thị trường tiền tệ của nước ta chưa thực sự hoàn thiện nhưng đang trong quá trình đi vào quỹ đạo, dần hoàn thiện để đáp ứng những nhu cầu của nền kinh tế. Đứng trước tình hình đó, nước ta đã tiến thêm một bước nữa là đưa nghiệp vụ thị trường mở vào thực tế của nền kinh tế. Tuy nhiên, việc thực hiện nghiệp vụ thị trường mở ở nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế. Hiện tại số lượng thành viên đang niêm yết trên thị trường vẫn còn rất ít. Trong số 20 thành viên chỉ có 8 thành viên đã nối mạng hoặc có thể truyền File để tham gia giao dịch. Tại mỗi phiên giao dịch thường chỉ có từ 1 - 3 thành viên tham gia chiếm 5 - 15% trong tổng số các thành viên nghiệp vụ thị trường mở và chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số các tổ chức tín dụng chủ yếu là NHTMQD. Ngoài ra, doanh số mua bán còn hạn chế, mỗi phiên giao dịch bình quân chỉ khoảng 10 tỷ đồng. Nhìn chung hoạt động thị trường mở ở nước ta còn quá trầm lặng, chưa trở thành công cụ đắc lực của CSTT ở nước ta. Theo số liệu NHNN thì đã có 20 thành viên được công nhận là thành viên tham gia nghiệp vụ thị trường mở. Ttong đó có 4 ngân hàng thương mại quốc doanh, 9 ngân hàng nước ngoài, 1 công ty tài chính và 1 quỹ tín dụng nhân dân trung ương. Từ khi khai trương đến 12/2000, thị trường giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện được 13 phiên giao dịch nghiệp vụ thị trường mở với tổng khối lượng tín phiếu mua bán bằng 1428 tỷ. Với những con số cụ thể trên ta thấy được hạn chế trên là do nghiệp vụ thị trường mở là một nghiêp vụ còn rất mới đối với các tổ chức tín dụng Việt Nam. Người dân thì thiếu thống tin, có sự hiểu biết quá ít về chứng khoán cũng như nhiều loại giấy tờ có giá khác,... mặt khác, thị trường liên ngân hàng chưa thực sự phát triển, hàng hoá trên thị trường hạn hẹp về cả chủng loại và số lượng. Thường xuyên diễn ra tình trạng khan hiếm hàng hoá làm nản lòng các nhà đầu tư. Ngoài ra việc sử dụng tín phiếu kho bạc trên thị trường thứ cấp chưa linh hoạt. Các TCTD thường sử dụng tín phiếu kho như một công cụ đầu tư hơn là công cụ của thị trường mở. Từ đó dẫn tới việc khan hiếm hàng hoá. Như vậy, do còn hạn chế cả về cơ sở vật chất, trình độ cán bộ sự đơn sơ của thị trường tài chính, sự bất cập trong vấn đề lượng thành viên tham gia thị trường cũng như khối lượng giấy tờ có giá do các thành viên nắm giữ... nên tác động can thiệp của NHNN thông qua nghiệp vụ thị trường mở rất còn hạn chế. 2.4. Hạn mức tín dụng Việc đưa vào áp dụng công cụ hạn mức tín dụng tỏ ra có hiệu quả trong những năm 1992 - 1993 mà nhờ đó mà nền kinh tế của nước ta đạt tăng trưởng ở mức cao, lạm phát bị đẩy lùi thị trường tiền tệ và giá cả dần đi vào thế ổn định. Tuy nhiên, việc điều hành công cụ này chỉ phát huy hiệu quả khi hệ thống NHTMQD còn chiếm phần lớn thị trường tiền tệ. Đồng thời phải có sự phối hợp chặt chẽ công cụ hạn mức tín dụng với các công cụ khác của chính sách tiền tệ. Như vậy, xét cho cùng thì hạn mức tín dụng chỉ đạt hiệu quả cao trong nền kinh tế khép kín. Nhưng do nước ta đang phát triển và dần từng bước hoà nhập với nền kinh tế của thế giới do vậy công cụ hạn mức tín dụng có thể nói là không phù hợp. Vì vậy, từ quý II năm 1998, NHNN đã không áp dụng công cụ hạn mức tín dụng như là một công cụ thường xuyên trong điều hành CSTT. Mức tăng trưởng tín dụng vẫn được tiếp tục theo dõi để có những giải pháp kịp thời hạn chế sự gia tăng tín dụng khi tốc độ tín dụng có xu hướng tăng nhanh. 2.5. Lãi suất tín dụng Lãi suất tín dụng là công cụ trực tiếp sắc bén và có hiệu lực trong điều hành CSTT. Đối với Việt Nam, NHTƯ quy định khung lãi suất trong hệ thống ngân hàng. Với mức lãi suất giao động từ 0,5 - 0,85%/tháng. Biện pháp này nhằm bảo vệ quyền lợi của người vay và người cho vay trước NHTM. Trên thực tế, các NHTM vì muốn tối đa hoá lợi nhuận nên thường cho vay với mức lãi suất cao nhất có thể sau đó NHTƯ Việt Nam (86 - 200) quyết định trần lãi suất cho vay. Trên cơ sở đó, định hướng cho các NHTM chủ động quyết định lãi suất nhận gửi, tiền cho vay trên khuôn khổ trền lãi suất phù hợp với thời gian, địa bàn kinh doanh của từng TCTD. Nhưng chính sách này chỉ tích hợp trong trường hợp cầu tín dụng lớn hơn cung tín dụng. Ngân hàng hoạt động trong môi trường độc quyền. Tuy diều kiện đó, ngân hàng sẽ cho vay với mức lãi suất cao nhất để tối đa hoá lợi nhuận. Tuy nhiên trong trường hợp ngược lại thì chính sách trần lãi suất tỏ ra mất tác dụng. Thực tế Việt Nam những năm 1999 đặc biệt là tháng cuối năm, nhu cầu vay vốn bị thu hẹp, vốn ở các NHTM bị "đóng băng". Tình trạng khách vay ít trong khi số lượng các TCTD lại ngày càng gia tăng làm cho các ngân hàng cạnh tranh lãi suất để giành giật khách hàng. Có những ngân hàng cho vay với lãi suất 0,68%/tháng. Hệ thống ngân hàng bị suy yếu, đem lại sự bất ổn định kinh tế. Trước tình hình đó NHNN có quyết định 242/2000/CD- NHNN ngày 5/8/2001 quy định bãi bỏ lãi suất trần - sàn và quyết định huy động gắn liền với lãi suất cơ bản. Thông qua điều hành lãi suất cơ bản NHTƯ đã hạn chế sự can thiệp của mình đối với thị trường, giao quyền tự chủ nhiều hơn cho các NHTM và tổ chức tín dụng kip thời đáp ứng các nhu cầu về vốn trên thị trường. Việc quản lý thị trường thông qua lãi suất cơ bản phù hợp với tình hình chung của thế giới, tiến dần tới việc tự do hoá lãi suất, để cho cung - cầu thị trường quyết định lãi suất. 2.6. Tỷ giá Chính sách tỷ giá là một công cụ điều tiết lượng tiền trực tiếp bổ trợ cho các công cụ khác của chính sách tiền tệ. Trong điều kiện nguồn dự trữ ngoại tệ của nước ta chưa thật sự dồi dào thì công cụ này cũng chưa phát huy hết tác dụng của nó. Tuy nhiên, trong thơi gian qua, NHNNVN đã đưa ra những bước đi thích hợp trong việc điều hành tỷ giá và đã gặt hái được những thành công nhất định, đặc biệt trong lĩnh vực ổn định thị trường ngoại tệ, góp phần tích cực vào những thành tựu của nền kinh tế. Do nền kinh tế của nước ta ngày càng phát triển, đòi hỏi có những chính sách về tỷ giá để phù hợp hơn với điều kiện mới. Chính vì vậy ngày 26/2/1999, NHTƯ đã quyết định thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá tại Việt Nam. Công bố tỷ giá hình thức công bố tỷ giá chính thức như trước đây (do tỷ giá này thường xuyên không phản ánh đúng thực tế tỷ giá trên thị trường); Với biên độ được phép là 0,1% so với tỷ giá giao dịch ngày hôm trước. Với cơ chế điều hành tỷ giá mới, chúng ta đã tiến tới gần tỷ giá thị trường tự do, do đó phản ánh chính xác hơn cung cần trên thị trường ngoại tệ, phù hợp với điều kiện một nền kinh tế mở như ở nước ta hiện nay. Để ổn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26875.doc
Tài liệu liên quan