Đề án Thực trạng và giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam

MỤC LỤC

 

LỜI NÓI ĐẦU 3

CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH 4

I.Khái niệm, phân loại và vai trò của cạnh tranh trong kinh doanh 4

1 Khái niệm: 4

2. Sức cạnh tranh,năng lực cạnh tranh và các cấp độ của năng lực cạnh tranh 5

2.1 Khái niệm về sức cạnh tranh và năng lực cạnh tranh 5

2.2. Các cấp độ của năng lực cạnh tranh 5

3. Phân loại cạnh tranh 8

4. Vai trò của cạnh tranh 10

II.Những nội dung của cạnh tranh trong kinh doanh. 11

1. Các chiến lược cạnh tranh cơ bản: 11

1.1 Chiến lược nhấn mạnh về chi phí 11

1.2. Chiến lược khác biệt hóa 12

1.3 Chiến lược trọng tâm hóa 13

2. Các vũ khí cạnh tranh chủ yếu 13

2.1. Cạnh tranh bằng sản phẩm 13

2.2 Cạnh tranh bằng giá 14

2.3 Cạnh tranh về phân phối và bán hàng 14

2.4 Cạnh tranh về thời cơ thị trường 15

2.5 Canh tranh về không gian và thời gian 15

3. Các yếu tố ảnh hưởng đến cạnh tranh 16

3.1. Sự cạnh tranh giữa các đối thủ hiện tại trong nghành 16

3.2. Nguy cơ đe doạ nhập nghành từ các đối thủ tiềm ẩn 17

3.3. Quyền lực thương lượng hay khả năng ép giá của người mua 17

3.4. Quyền lực thương lượng hay khả năng ép giá của người cung ứng 18

3.5. Nguy cơ đe doạ từ các sản phẩm thay thế 18

CHƯƠNG II THỰC TRẠNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 19

I. Dệt May Việt Nam : những thành tựu đạt được 19

1 . Kim ngạch xuất tới các thị trường chủ lực 19

2. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu một số chủng loại 20

3. Số lượng và quy mô xuất khẩu của các doanh nghiệp 23

4. Dệt may chú trọng thị trường nội địa 25

5. Năm 2008,dự kiến kim ngạch 9,5 tỷ USD 25

II. Dệt may Việt Nam: khó khăn 28

1. Sản lượng cao nhưng chất lượng thấp 29

2.Chủ động nguồn nguyên liệu : nguy cơ vỡ kế hoạch 30

3. Thua thiệt vì lo cạnh tranh nhau 31

4. Những thách thức khác 32

CHƯƠNG III GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP DỆT MAY VIỆT NAM 34

I. Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh từ phía các doanh nghiệp. 34

II. Định hướng phát triển của chính phủ đối với dệt may 37

1. Quan điểm phát triển 37

2. Định hướng phát triển 38

2.1. Sản phẩm 38

2.2 Đầu tư và phát triển sản xuất 39

2.3 Bảo vệ môi trường 40

3. Các giải pháp thực hiện chiến lược 40

3.1 Giải pháp về đầu tư 40

3.2 Giải pháp phát triển nguồn nhân lực 41

3.3 Giải pháp về khoa học công nghệ 42

3.4 Giải pháp thị trường 43

3.5 Giải pháp về cung ứng nguyên phụ liệu 43

3.6 Giải pháp về tài chính 44

KẾT LUẬN 45

 

 

doc44 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1787 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng và giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ranh đua nhằm giành giật lợi thế trong nghành mà mục đích cuối cùng là giữ vững và phát triển thị phần hiện có,bảo đảm có thẻ có mức lợi nhuận cao nhất.Sự cạnh tranh của các đối thủ hiện tại có xu hướng làm tăng cường độ cạnh tranh và làm giảm mức lơi nhuận của nghành.Có nhiều hìnhthức và công cụ cạnh tranh được các đổi thủ sử dụng khi cạnh tranh trên thị trường,ví dụ như cạnh tranh về giá hay cạnh tranh về chất lượng sản phẩm.Trên thực tế ,khi các đối thủ cạnh tranh với nhau thường sử dụng công cụ cạnh tranh tổng hợp,trên cơ sở cạnh tranh về giá với các hình thức và công cụ canh tranh khác như:chất lượng sản phẩm cùng với áp dụng sự khác biệt về sản phẩm,marketing... Thường thì cạnh tranh trở lên khốc liệt khi nghành ở giai đoạn bão hoà,hoặc suy thoái,hoặc có đông các đối thủ cạnh tranh bằng vai phải lứa với các chiến lược cạnh tranh đa dạnh và do những rào cản kinh tế làm cho các doanh nghiệp khó tự do di chuyển sang nghành khác. Để có thể bảo vệ khả năng cạnh tranh của mình,các doanh nghiêp cần phải thu thập đủ thông tin cần thiết về các đối thủ cạnh tranh chính có sức mạnh trên thị truờng và tình trạng nghành để làm cơ sở hoạch định chiến lược. 3.2. Nguy cơ đe doạ nhập nghành từ các đối thủ tiềm ẩn Hiểu biết đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn luôn có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp vì sự xuất hiện của các đối thủ mới, đặc biệt khi các đối thủ này có khả năng mở rộng sản xuất và chiếm lĩnh thị phần,sẽ làm cạnh tranh trở lên khốc liệt và không ổn định. Để hạn chế sự đe doạ của các đối thủ tiềm ẩn các doanh nghiệp thường duy trì và không ngừng nâng cao các hàng rào bảo vệ hợp pháp, đặc biệt là về công nghệ.Trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế hiện nay,các công ty xuyên quốc gia hoặc các công ty nước ngoài có tiềm lực tài chính và công nghệ dáng kể thực sự là đối thủ “nặng ký” đối với các doanh nghiệp kinh doanh trong nước là những doanh nghiêp có tiềm lực rất hạn chế và sức cạnh tranh thấp. 3.3. Quyền lực thương lượng hay khả năng ép giá của người mua Đối với các doanh nghiệp thì mọi việc chỉ có ý nghĩa khi tiêu thụ được sản phẩm và có lãi.Chính vì vậy, sự tính nhiệm của khách hàn luôn là tài sản có giá trị quan trọng của doanh nghiệp và doanh nghiệp có được là do doanh nghiệp biết cách thoả mãn tốt hơn các nhu cầu và thị hiếu của khách hàng so với các đối thủ canh tranh khác.Người mua luôn muốn trả giá thấp vì vậy sẽ thực hiẹn việc ép giá,gây áp lực đòi chất lượng cao hoặc đòi được phục vụ nhiều hơn đối với doanh nghiệp khi có điều kiện, điều này làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Để hạn chế bớt quyền thương lượng của người mua,các doanh nghiệp cần phải phân loại khách hàng hiện tại và tương lai cùng với các nhu cầu và thị hiếu của họ làm cơ sở đinh hướng cho kế hoạch Marketing và chiến lược kinh doanh nói chung. 3.4. Quyền lực thương lượng hay khả năng ép giá của người cung ứng Người cung ứng các yếu tố đầu vào luôn muốn thu nhiều lợi nhuận,vì vậy họ có thể đe doạ tăng giá hoặc giảm chất lượng sản phẩm đặt mua, nhằm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp khi họ có điều kiện,ví dụ trong trường hơp người cung ứng có lợi thế về nguòn nguyên vật liệu hoặc sản phẩm của người cung ứng là vật tư đầu vào qan trọng của khách hàng.Trong thực tế các doanh nghiệp luôn phải ứng phó một cách thường xuyên đến nguồn cung ứng ngay trong nội bộ doanh nghiệp,có thể đó là lực lượng lao động, đặc biệt là những lao động có trình độ cao vì khả năng thu hút và giữ được các nhân viên có năng lực là một tiền đề quan trọng bảo đảm sự thành công của doanh nghiệp. 3.5. Nguy cơ đe doạ từ các sản phẩm thay thế Các sản phẩm thay thế luôn có thể có tác động lớn đến mức độ lợi nhuận tiềm năng của nghành, nhất là những sản phẩm có chu kỳ sống ngắn như máy tính , đồ điện tử...Vì phần lớn các sản phẩm thay thế làkết quả của quá trình thay đổi công nghệ,nên thường có ưu thế về chất lượng và giá thành sản phẩm, mặc dù giá thành ban đầu có thể cao hơn so với các sản phẩm có bán trên thị truờng.Biện pháp chủ yếu sử dụng để hạn chế sự tác động của sản phẩm thay thế là tăng cường đầu tư cho R&D của doanh nghiệp, đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ quản lý...nhằm giảm giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm hoặc tăng cường tính độc đáo khác biệt của sản phẩm. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM I. Dệt May Việt Nam : những thành tựu đạt được Sau một hơn 1 năm gia nhập WTO, dệt may Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2007 đạt 7,78 tỷ USD, tăng 33,35% so với năm 2006, cao hơn nhiều so với mức 20% của năm 2006. Như vậy, năm 2007, ngành công nghiệp dệt may nước ta vượt 280 triệu USD so với mục tiêu. Đáng chú ý, có những tháng, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đã vượt qua dầu thô để trở thành mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất. 1 . Kim ngạch xuất tới các thị trường chủ lực Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta tăng mạnh chủ yếu do xuất khẩu sang Mỹ bứt phá mạnh mẽ. Theo số liệu thống kê, Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ năm đạt 4,47 tỷ USD, tămg 46,65% so với năm 2006, cao hơn nhiều so với mức tăng 16,97% của năm 2006. Trong 3 thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam năm 2007, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ đạt mức tăng trưởng cao nhất. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ tăng từ 52,18% trong năm 2006 lên 57,39% trong năm 2007. Điều này khẳng định, thị trường Mỹ đóng vai trò rất to lớn đến sự phát triển của ngành công nghiệp dệt may nước ta. EU là thị trường lớn thứ 2 đối với xuất khẩu hàng dệt may nước ta. Năm 2007, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu sang EU đạt 19,74%, thấp hơn so với mức 37,46% của năm 2006 nên tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sang EU giảm từ 21,32% của năm 2006 xuống 19,14% trong năm 2007. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Nhật Bản tăng 12,14% so với năm 2006, cao hơn nhiều so với mức 3,93% của năm 2006. Hiện tại, Nhật Bản là thị trường lớn thứ 3, chiếm 9,05% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta. Thổ Nhĩ Kỳ và Nam Phi không phải là thị trường lớn đối với xuất khẩu hàng dệt may của nước ta trong năm 2007 nhưng có mức tăng trưởng kim ngạch rất cao, tăng lần lượt 563,8% và 294,27% so với năm 2006, cao hơn mức tăng trưởng 134,99% và 124,38% của năm 2006. Trong số những thị trường nhập khẩu hàng dệt may chủ yếu của Việt Nam, Đài Loan là một trong số ít thị trường bị giảm kim ngạch trong 2 năm liên tiếp. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Đài Loan giảm 0,95% so với năm 2005. Năm 2007, mức giảm là 11,18%. 2. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu một số chủng loại Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu 2 chủng loại hàng dệt may chủ yếu của nước ta đều tăng so với năm 2006, nhất là mặt hàng áo thun. Ngoài các mặt hàng chính, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng váy, quần áo trẻ em, quần áo ngủ, găng tay, khăn, quần Jean, áo nỉ và bít tất có tốc độ tăng trưởng cao hơn nhiều so với năm 2006. Bên cạnh đó, số lượng thị trường và doanh nghiệp xuất khẩu hầu hết các mặt hàng tăng mạnh so với năm 2006. Kim ngạch xuất khẩu một số chủng loại hàng dệt may của Việt Nam năm 2007 Chủng loại Năm 2006 (USD) So 06/05 (%) Tỷ trọng KN 2006 (%) Năm 2007 (USD) So 07/06 (%) Tỷ trọng 2007 (%) áo thun 945.476.760 24,55 16,21 1.535.519.704 62,41 19,74 Quần dài 1.063.976.168 27,10 18,24 1.351.295.436 27,00 17,37 áo Jacket 870.361.651 17,18 14,92 1.120.698.284 28,76 14,40 áo sơ mi  417.138.945 5,09 7,15 465.213.343 11,52 5,98 áo khoác 289.504.178 30,26 4,96 368.240.225 27,20 4,73 Quần Short 241.002.398 49,79 4,13 354.994.563 47,30 4,56 Váy 197.064.826 35,09 3,38 321.211.458 63,00 4,13 Vải 205.245.350 65,05 3,52 297.425.968 44,91 3,82 áo loại khác 338.862.772 80,44 5,81 294.460.298 -13,10 3,78 Q.áo trẻ em 131.835.535 19,89 2,26 259.926.533 97,16 3,34 Đồ lót 172.060.977 6,95 2,95 204.004.648 18,57 2,62 Quần áo Vest 111.458.210 22,68 1,91 124.735.786 11,91 1,60 Q.áo loại khác 75.515.637 -56,24 1,29 123.406.276 63,42 1,59 Q.thể thao 70.292.612 44,31 1,20 103.296.782 46,95 1,33 Hàng may mặc khác 4.808.610 -95,83 0,08 91.763.578 1808,32 1,18 áo Kimono 92.358.438 -1,33 1,58 91.522.212 -0,91 1,18 Màn 82.878.395 233,89 1,42 83.201.759 0,39 1,07 áo len  63.307.965 7,98 1,09 76.093.081 20,20 0,98 Q.áo ngủ 40.727.559 25,97 0,70 69.466.457 70,56 0,89 Găng tay 28.989.316 70,49 0,50 60.056.841 107,17 0,77 Khăn bông 71.241.576 47,78 1,22 59.350.831 -16,69 0,76 Q.áo BHLĐ 37.313.410 91,11 0,64 41.227.617 10,49 0,53 Q.áo bơi 31.095.432 0,19 0,53 41.213.208 32,54 0,53 Khăn  12.446.153 -56,85 0,21 33.801.999 171,59 0,43 Quần Jean 11.340.717 -16,23 0,19 31.250.621 175,56 0,40 áo Ghilê 28.833.288 70,52 0,49 30.345.147 5,24 0,39 áo nỉ 16.619.893 -68,29 0,28 26.242.358 57,90 0,34 Khăn lông 24.227.708 -3,61 0,42 24.111.642 -0,48 0,31 Bít tất 7.525.782 16,34 0,13 14.899.711 97,98 0,19 Q.áo y tế 13.426.165 0,17 PL may 6.921.749 17,27 0,12 10.341.383 49,40 0,13 Q.áo Jacket 12.540.725 -11,96 0,21 9.154.847 -27,00 0,12 áo gió 11.410.674 -9,70 0,20 7.293.227 -36,08 0,09 Caravat 7.369.658 -13,29 0,13 6.772.916 -8,10 0,09 Q.áo thun 5.110.638 -17,79 0,09 6.213.564 21,58 0,08 3. Số lượng và quy mô xuất khẩu của các doanh nghiệp Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta tăng mạnh nhờ số lượng cũng như quy mô xuất khẩu của các doanh nghiệp tăng mạnh. Theo số liệu thống kê, năm 2007, toàn ngành công nghiệp dệt may nước ta có 2.390 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu, tăng 85 doanh nghiệp so với năm 2006. Phần lớn, kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp tăng mạnh so với năm 2006. Năm 2007, số lượng các doanh nghiệp đạt kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may xuất khẩu cao tăng mạnh so với năm 2006. Cụ thể: + Có 4 doanh nghiệp đạt kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD, tăng 2 doanh nghiệp so với năm 2006. + 15 doanh nghiệp đạt kim ngạch xuất khẩu từ trên 50 triệu USD đến dưới 100 triệu USD, tăng 4 doanh nghiệp so với năm 2006. + Có 174 doanh nghiệp đạt kim ngạch xuất khẩu từ trên 10 triệu USD đến dưới 50 triệu USD, tăng 50 doanh nghiệp so với năm 2006. + Có 638 doanh nghiệp đạt kim ngạch từ trên 1 triệu USD đến dưới 10 triệu USD, tăng 47 doanh nghiệp so với năm 2006. Bên cạnh những nỗ lực để tăng kim ngạch xuất khẩu, năm 2007, các doanh nghiệp đã đẩy mạnh việc phát triển thương hiệu Trong năm 2007, các doanh nghiệp ngành dệt may Việt Nam đã cho ra mắt hàng loạt các thương hiệu mới. Điều này thể hiện sự linh hoạt và nhạy bén của các doanh nghiệp dệt may. Với năng lực sản xuất 15 triệu sản phẩm may mặc/năm, Công ty cổ phần Dệt may Thành Công đang kinh doanh với 4 thương hiệu là TCM, GenX, Nam&Man, Novetly và vừa bổ sung thêm vào bộ sưu tập này một thương hiệu thời trang mới dành cho trẻ em mang tên F.O.C (Fashion Of Children). Sự ra đời của thương hiệu F.O.C được DN kỳ vọng sẽ tạo ra một bước đột phá vào phân khúc thị trường vốn có sức tiêu thụ rất mạnh, nhưng lâu nay chưa có nhiều DN quan tâm. Là doanh nghiệp có ưu thế về lĩnh vực hàng dệt kim, Công ty đã và sẽ tiếp tục tập trung đầu tư cho những dòng sản phẩm sử dụng các loại nguyên liệu dệt kim, cotton, như quần áo trẻ em, đồ mặc ở nhà, hoặc đồ thể thao... Như vậy, ngoài GenX là dòng sản phẩm thể thao, Nam&Man chuyên dành cho phái mạnh..., dòng sản phẩm F.O.C sẽ được sản xuất hoàn toàn từ chất liệu cotton pha sợi spandex, giúp quần áo mềm mại và co giãn tốt, thích hợp cho trẻ nhỏ. Cùng với Thành Công, Tổng công ty May Việt Tiến, vốn đã thành công với các thương hiệu T-up, Vee Sendy...cũng đã giới thiệu đến người tiêu dùng hai thương hiệu mới là San Sciaro và Manhattan. Trong đó, San Sciaro là thương hiệu thời trang nam cao cấp mang phong cách Italy, còn Manhattan là thương hiệu thời trang cao cấp thuộc Tập đoàn Perry Ellis International và Perry Ellis International Europe của Mỹ. Đối tượng khách hàng mà hai dòng sản phẩm cao cấp này hướng tới chính là các doanh nhân, những người thành đạt, nhà quản lý... Bên cạnh Thành Công và Việt Tiến, Công ty TNHH Dệt may Thái Tuấn, dù đã tạo dựng được thương hiệu Thái Tuấn khá vững chắc trên thị trường từ nhiều năm nay, cũng đã quyết định phát triển thương hiệu theo từng đối tượng tiêu dùng riêng. Cụ thể, ở Thái Tuấn, Rosshi là thương hiệu của dòng sản phẩm may sẵn cao cấp dành riêng cho nữ giới; Lench là dòng sản phẩm vải áo dài nữ sinh cao cấp; Mennis là dòng sản phẩm may sẵn cao cấp dành cho nam sinh; còn Thatexco là dòng sản phẩm vải phi bóng dành cho nữ. Và giờ đây, Thái Tuấn lại cho ra đời thêm một thương hiệu mới: Happiness - dòng sản phẩm vải áo dài cưới với những hoa văn chuyên biệt. 4. Dệt may chú trọng thị trường nội địa Sức tiêu thụ hàng dệt may của thị trường nội địa Việt Nam khá lớn với hơn 84 triệu dân và khoảng 4 triệu khách du lịch mỗi năm. Tuy nhiên, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đang phải cạnh tranh rất gay gắt với hàng hoá nhập khẩu. Để tăng sức cạnh tranh với các tập đoàn bán lẻ đa quốc gia và bảo vệ thị phần hàng dệt may tại thị trường nội địa. Tập đoàn Dệt may Việt Nam đã đưa siêu thị Vinatex Mỹ Phước I tại Khu Công nghiệp Mỹ Phước I (Bình Dương) đi vào hoạt động. Đây là siêu thị thứ 45 thuộc hệ thống siêu thị Vinatex. Dự kiến đến năm 2010, Vinatex sẽ tiếp tục đầu tư và mở rộng mạng lưới VinatexMart tại hầu hết các tỉnh, thành phố trên cả nước với 80 cửa hàng, siêu thị, trung tâm thương mại. 5. Năm 2008,dự kiến kim ngạch 9,5 tỷ USD Với kết quả đã đạt được năm 2007, ngành Dệt May phấn đấu năm 2008 đạt chỉ tiêu xuất khẩu là 9,5 tỷ USD, vượt qua dầu thô (dự kiến đạt 9 tỷ USD). Như vậy, xuất khẩu hàng dệt may sẽ về đích trước gần 2 năm so với kế hoạch đạt kim ngạch xuất khẩu 10 tỷ USD vào năm 2010. Mục tiêu xuất khẩu hàng dệt may tới các thị trường chính trong năm 2008 là Mỹ đạt 5,3 - 5,5 tỷ USD, thị trường EU đạt 1,6 - 1,8 tỷ USD và thị trường Nhật đạt khoảng 800 triệu USD. Năm 2007, xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ diễn ra khá suôn sẻ. Tất cả 5 Cat hàng dệt may bị áp dụng cơ chế giám sát không có biểu hiện nào đáng lo ngại và phía Mỹ cũng tuyên bố chưa bán phá giá vào thị trường Mỹ. Tuy nhiên, Mỹ vẫn tiếp tục duy trì cơ chế giám sát cho đến hết năm 2008. Trước tình hình này, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ cần hợp tác chặt chẽ với các nhà nhập khẩu lớn của Mỹ, thực hiện các đơn hàng có chất lượng và giá cao, tránh những đơn hàng đơn giản, giá trị thấp làm ảnh hưởng đến mức giá bình quân của cả nước, là cơ sở để phía Mỹ tự khởi kiện chống bán phá giá. Hơn nữa, bắt đầu từ 1/1/2008, Hiệp hội dệt may Việt Nam sẽ nhờ Hải quan thu phí trị giá 0,01% kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp đi Mỹ để lấy kinh phí thuê tư vấn chống lại các vụ kiện. Là thị trường lớn thứ hai sau Mỹ, EU luôn được coi là thị trường tiềm năng và truyền thống của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam. Trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang EU, hàng dệt may có kim ngạch đứng thứ hai sau giày dép. Số liệu thống kê cho thấy, nếu năm 2003 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU chỉ đạt 537,1 triệu USD, đến năm 2004 đã tăng lên mức 760 triệu USD, năm 2005 tiếp tục tăng lên mức 882,8 triệu USD, năm 2006 vượt qua ngưỡng 1 tỷ USD (đạt 1,245 tỷ USD), năm 2007 đạt 1,49 tỷ USD, tăng 19,74% so năm 2006, tăng 62,2% so năm 2005, gấp gần 3 lần so năm 2003. Theo các chuyên gia Vụ Xuất- nhập khẩu, đặc điểm của khu vực thị trường EU là nhiều thị trường “ngách” có mức sống và nhu cầu hàng dệt may rất đa dạng từ hàng có phẩm cấp thấp đến hàng có chất lượng cao phù hợp năng lực sản xuất nhiều thành phần của Việt Nam. Tuy nhiên, việc mất giá của đồng đôla Mỹ so với đồng euro là một nhân tố ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu sang thị trường này. Năm 2008, EU cũng sẽ bãi bỏ hạn ngạch dệt may cho Trung Quốc và sẽ áp dụng một hệ thống giám sát “kiểm tra kép” để theo dõi việc cấp phép xuất khẩu hàng dệt may tại Trung Quốc và việc nhập khẩu mặt hàng này vào EU. So với trước đây, rõ ràng từ năm 2008 xuất khẩu của Trung Quốc sang EU sẽ thuận lợi hơn. Và như thế, các nước xuất khẩu hàng dệt may sẽ không dễ dàng nếu muốn tăng thị phần tại EU, bởi hàng dệt may của các nước trong đó có Việt Nam sẽ phải cạnh tranh gay gắt hơn với hàng dệt may Trung Quốc vốn có năng lực cạnh tranh cao do chủ động được nguyên phụ liệu và có khả năng đáp ứng nhiều loại phẩm cấp hàng hóa. Hiện nay Mỹ và EU đang có đề xuất trong khuôn khổ WTO dự thảo thỏa thuận quy định về nhãn mác đối với hàng dệt may, giày dép và hàng du lịch. Theo đó, hàng dệt may xuất khẩu cần phải có nhãn mác nêu rõ xuất xứ hàng hóa, thành phần vải và hướng dẫn sử dụng. Với đề xuất này, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần nghiên cứu kỹ và chuẩn bị cho việc nhận đơn hàng và lên kế hoạch sản xuất của mình cho phù hợp. Ngoài 2 thị trường lớn trên, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may cần đẩy mạnh xuất khẩu tới Nhật Bản, Mêhicô, Đài Loan...Đặc biệt, doanh nghiệp cần chú trọng mở rộng tới các thị trường nhỏ nhưng có tốc độ tăng trưởng kim ngạch rất cao trong 2 năm 2006 và năm 2007 như Arập Xê út, Singapo, Ucraina, Campuchia, Brazil, Thái Lan, Nam Phi, Thổ Nhĩ Kỳ... Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may tới một số thị trường Thị trường Năm 2006 (USD) So 06/05 (%) Tỷ trọng KN năm 2006 Năm 2007 (USD) So 07/06 (%) Tỷ trọng KN năm 2007 Mỹ 3.044.578.648 16,97 52,18 4.464.846.921 46.65 57,39 EU 1.243.802.232 37,46 21,32 1.489.358.989 19.74 19,14 Nhật Bản 627.631.744 3,93 10,76 703.846.323 12.14 9,05 Đài Loan 181.411.982 -0,95 3,11 161.137.224 -11.18 2,07 Canada 97.304.524 20,23 1,67 135.495.465 39.25 1,74 Hàn Quốc 82.900.300 67,55 1,42 84.962.558 2.49 1,09 Nga 62.438.296 30,33 1,07 79.040.130 26.59 1,02 Mêhicô 0,00 54.531.325 0,70 Trung Quốc 29.695.879 265,92 0,51 43.109.281 45.17 0,55 Thổ Nhĩ Kỳ 5.696.843 134,99 0,10 37.815.679 563.80 0,49 Hồng Kông 31.144.900 148,75 0,53 36.627.356 17.60 0,47 UAE 27.406.316 351,44 0,47 28.543.848 4.15 0,37 Campuchia 18.516.032 5,640 0,32 28.541.830 54.15 0,37 Malaysia 33.684.586 37,78 0,58 25.333.409 -24.79 0,33 Singapore 19.108.360 285,40 0,33 24.152.919 26.40 0,31 Inđônêxia 17.417.452 1.036 0,30 24.802.963 42.40 0,32 ả Rập Xê út 18.142.725 166,95 0,31 27.197.926 49.91 0,35 Ôxtrâylia 23.677.017 -4,54 0,41 24.169.316 2.08 0,31 Ukraina 12.232.452 284,32 0,21 21.430.912 75.20 0,28 Thái Lan 10.711.086 367,75 0,18 16.413.745 53.24 0,21 Nam Phi 3.372.915 124,38 0,06 13.298.430 294.27 0,17 Thụy Sỹ 10.826.785 31,97 0,19 11.345.936 4.80 0,15 Philipine 6.361.150 373,29 0,11 11.204.768 76.14 0,14 II. Dệt may Việt Nam: khó khăn Dệt may Việt Nam đã vượt qua dầu khí, trở thành ngành dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu (XK) với tốc độ tăng trưởng 30%/năm. Tuy nhiên do phần lớn là gia công, phải phụ thuộc đến 70% - 80% vào nguồn nguyên phụ liệu (NPL) nhập khẩu nên giá trị XK vẫn rất thấp. Trong khi đó, mục tiêu mà ngành dệt may Việt Nam đưa ra là đến năm 2010 phải chủ động 50% nguồn nguyên liệu để “tăng chất” XK, đang có nguy cơ không thành hiện thực. 1. Sản lượng cao nhưng chất lượng thấp Theo số liệu từ Bộ Công thương, kim ngạch XK dệt may của Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2007 đạt 5,8 tỷ USD, nhưng riêng chi phí để nhập khẩu vải sợi và phụ kiện dệt may đã chiếm đến 4,9 tỷ USD. Trong khi tốc độ và giá trị tăng trưởng của ngành dệt may phụ thuộc rất nhiều vào sản xuất FOB (mua NPL, bán thành phẩm) và khả năng chủ động nguồn NPL thì tỷ lệ sản xuất hàng FOB ở Việt Nam đến nay chỉ chiếm khoảng 20% - 25%. Nếu hiểu đúng nghĩa của sản xuất FOB thì các doanh nghiệp (DN) Việt Nam cũng mới dừng lại ở dạng sản xuất FOB “cấp 2” (một hình thức gia công thông qua hợp đồng trung gian). Do không đủ năng lực để tự thiết kế mẫu, chủ động lựa chọn NPL, tự chào bán sản phẩm, nên các DN Việt Nam phải nhận sản xuất lại hàng theo chỉ định của nhà sản xuất FOB “cấp 1”. Trên thực tế, các DN sản xuất FOB của Việt Nam tự mua NPL, nhưng phải mua theo mẫu của FOB “cấp 1” đưa ra (với đơn hàng FOB này DN được hưởng thêm 5% - 10% trên giá trị NPL). Trong khi đó, theo tổng giám đốc một DN dệt may lớn tại TPHCM, ở thời điểm này, khi Trung Quốc đã chào hàng cho thị trường năm 2009 - 2010 thông qua những catalogue về mẫu mã, chất liệu vải may, xu hướng thời trang, thì các DN Việt Nam đang phải tìm mua lại các tài liệu này để… nghiên cứu thị trường! Còn theo tìm hiểu của phóng viên, trong các quốc gia cạnh tranh với Việt Nam trong XK dệt may đã đặt ra những tham vọng rất lớn (đến năm 2010, Trung Quốc đặt mục tiêu tăng trưởng XK lên 50%, Ấn Độ là 25 tỷ USD, Bangladesh là 18 tỷ USD - tăng gấp đôi so với hiện nay) thì Việt Nam chỉ dám đưa ra chỉ tiêu khiêm tốn là đến năm 2010 kim ngạch XK vào khoảng 10 - 12 tỷ USD. 2.Chủ động nguồn nguyên liệu : nguy cơ vỡ kế hoạch Trước tình hình trên, để chủ động nguồn NPL, thời gian qua, Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) cùng nhiều DN dệt may trong nước đã liên doanh hợp tác với nhiều tập đoàn nước ngoài để đầu tư các dự án sản xuất NPL dệt may, hướng đến mục tiêu nâng tỷ lệ nội địa hóa NPL lên 50% vào năm 2010. Tuy nhiên, thực tế cho thấy trong khi số dự án đầu tư vào ngành dệt may hiện nay chỉ “đếm trên đầu ngón tay” thì tốc độ triển khai các dự án cũng rất chậm, thậm chí không ít dự án vẫn còn trên giấy. Tại KCN dệt may Phố Nối B (Hưng Yên), tính đến nay Vinatex mới đưa vào hoạt động 3 nhà máy sản xuất chỉ khâu, dệt kim và nhuộm. Công ty liên doanh Phong Phú – ITG (Mỹ) dù đã đầu tư xây dựng khu liên hợp dệt nhuộm tại KCN Hòa Khánh (Đà Nẵng) với tổng vốn đầu tư trên 80 triệu USD để sản xuất các loại vải cotton cao cấp xuất khẩu, nhưng đến năm 2008 mới có thể hoạt động. Ở phía Nam, cụm nhà máy do Công ty cổ phần Việt Tiến Đông Á liên kết với Tập đoàn Tung Shing (Hồng Công) xây dựng tại huyện Nhơn Trạch, Đồng Nai cũng mới hoàn thành giai đoạn 1 (sản xuất lắp ráp thiết bị, linh kiện may công nghiệp). Dự kiến đến năm 2009 - 2010, liên doanh này mới tiếp tục xây dựng nhà máy sản xuất chỉ khâu (sản lượng 10 triệu cuộn chỉ/năm và nhà máy wash công nghiệp có công suất 10 triệu sản phẩm/năm) để cung cấp cho các DN trong nước… Đối với các dự án xây dựng trung tâm giao dịch NPL dệt may, đến nay vẫn chưa có trung tâm nào hoàn thành theo kế hoạch. Trong khi các đối thủ cạnh tranh của Việt Nam đã có nhiều cơ sở vững chắc cho bước nhảy vọt trong XK dệt may, thì xem ra, Việt Nam chỉ có thể nỗ lực để nâng tỷ lệ “gia công giá cao” chứ chưa thể thực hiện được việc chủ động nguồn NPL theo mục tiêu đã định. Điều đó cũng có nghĩa, việc nâng chất XK của ngành dệt may Việt Nam còn lâu mới trở thành hiện thực. 3. Thua thiệt vì lo cạnh tranh nhau Dệt may đã vươn lên thành mặt hàng xuất khẩu (XK) số 1 của Việt Nam trong năm 2007.Nhưng giá trị mang lại vẫn còn thấp. Ngoài nguyên nhân là các DN đều phải chi phí quá lớn cho việc nhập khẩu nguyên phụ liệu, thì một yếu tố quan trọng dẫn đến thực tế trên là sự thiếu “đoàn kết” giữa các doanh nghiệp (DN) trong nước.Việt Nam đã lọt vào top 10/156 nước xuất khẩu hàng dệt may của thế giới. Tăng trưởng XK hàng dệt may Việt Nam năm sau cao hơn năm trước. Sự phát triển trong XK hàng dệt may là điều đáng mừng, tuy nhiên, hàng gia công vẫn chiếm tỷ lệ khá lớn trong XK hiện nay; hàng FOB (mua nguyên liệu, bán thành phẩm) vẫn còn thấp, chỉ chiếm khoảng 25%-30% lượng hàng xuất khẩu. Các DN Việt Nam đang nỗ lực nâng cao năng lực sản xuất để gia tăng tỷ lệ sản xuất FOB. Nhưng việc cạnh tranh lẫn nhau giữa các DN trong nước, đã tạo điều kiện cho các nhà nhập khẩu ép giá, thậm chí chuyển từ đơn hàng sản xuất FOB trước đây sang gia công. Theo tính toán của các DN, lợi nhuận của đơn hàng sản xuất FOB gấp 3 lần so với gia công, vì lợi nhuận từ việc làm hàng gia công rất thấp. Thực tế này đang xảy ra với các DN dệt may tại TPHCM. Một nhà nhập khẩu Pháp chuyên đặt hàng sản xuất FOB trước đây đã chuyển sang đặt hàng theo hình thức gia công. Điều này đang đi ngược lại mong muốn của doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Một DN nhận gia công cho nhà nhập khẩu này cho biết, hiện nay mỗi DN tự đưa ra một mức giá riêng, nên nhà nhập khẩu “chảnh”, ép giá, sẵn sàng chuyển đơn hàng sang công ty khác nếu DN không chịu mức giá thỏa thuận. Vì sự sống còn của DN và để có việc làm cho công nhân, DN đành phải chấp nhận gia công với cái giá không mong muốn. Nhà nhập khẩu đã nắm được điểm yếu này và cũng biết rõ là đang có nhiều DN xếp hàng để nhận làm với giá thấp hơn. Đó là nỗi bức xúc rất lớn, nhưng tự một vài DN không thể làm thay đổi được điều này. Thực tế đó cho thấy, rõ ràng, các DN trong nước đang tự giết nhau, nhận phần thiệt về mình, còn cái lợi thì để cho nhà nhập khẩu hưởng.Điều này cũng đang làm ảnh hưởng đến việc XK hàng dệt may vào thị trường Mỹ, khi Bộ Thương mại Mỹ đưa ra cơ chế giám sát chống phá giá đối với hàng dệt may Việt Nam. Bộ Công thương và Hiệp hội Dệt may đã kêu gọi các DN trong nước không ký những đơn hàng giá thấp, đừng vì cái lợi trước mắ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng và giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.DOC
Tài liệu liên quan