Đề án Tiền gửi trong Ngân Hàng Thương Mại

MỤC LỤC

Lời mở đầu . 1

Chương 1 . 3

1. Khái quát chung về nguồn tiền gửi trong NHTM . 3

1.1. Khái niệm và đặc điểm của tiền gửi trong NHTM . 3

1.2 Vai trò của tiền gửi trong NHTM . 6

2. Phân loại tiền gửi trong Ngân hàng thương mại . 7

2.1 Tiền gửi phi giao dịch . 7

2.2 Tiền gửi giao dịch . . 10

3. Chi phí đối với các loại tiền gửi . 15

4. Các phương pháp định giá tiền gửi . 16

4.1 Định giá tiền gửi theo phương pháp tổng hợp chi phí - thu nhập 17

4.2 Phương pháp đánh giá chi phí dịch vụ tiền gửi trung bình 18

4.3 Phương pháp tập trung nguồn vốn 18

4.4 Phương pháp sử dụng chi phí cận biên để xác định lãi suất tiền gửi 19

4.5 Phương pháp định giá xâm nhập thị trường 20

4.6 Định giá mục tiêu trọng điểm 21

4.7 Định giá tiền gửi trên cơ sở mối quan hệ tổng thể với khách hàng 21

4.8 Định giá tiền gửi để đạt mục tiêu của ngân hàng 22

4.9 Phương pháp Bảng tỷ lệ phí tiền gửi 22

Chương 2 23

2. Thực trạng tiền gửi trong ngân hàng Việt Nam . 23

2.1 Cuộc chay đua lãi suất . 24

2.2 Nguyên nhân của tình trạng này là gì? . 28

2.3 Cuộc “chạy giật lùi” lãi suât . 32

2.4 Nguyên nhân của tình trạng này là gì? . 35

Kết luận 38

 

 

 

 

doc51 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4212 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tiền gửi trong Ngân Hàng Thương Mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có thể là doanh nghiệp, các cơ quan thuộc chính phủ, các cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức nhân đạo. Trong hoạt động, cán bộ tín thác có thể chịu sự chỉ đạo của khách hàng hoặc thay mặt khách hàng đưa ra các quyết định cụ thể, ví dụ như ta lựa chọn tài khoản để gửi tiền nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu chi tiêu của khách hàng. Tiền gửi tại phòng tín thác đòi hỏi phải tuyệt đối an toàn. Chúng được bảo hiểm giống như các loại tiền gửi được bảo hiểm theo giới hạn luật định, bất kì lượng tiền nào vượt quá giới hạn bảo hiểm đều được bảo vệ bằng các loại chứng khoán chất lượng cao của ngân hàng 3. Chi phí đối với các loại tiền gửi Loại tiền gửi Lãi suất thực hàng năm trả bởi NH nhỏ (tiền gửi dươí 50 triệu USD) NH t.bình (tiền gửi từ 50-200 triệu USD) NH lớn (tiền gửi trên 200 triệu USD) Tài khoản giao dịch đặc biệt và thông thường 0,00% 0,00% 0,00% Tài khoản giao dịch tương lai 2,77 2,23 2,06 Tài khoản tiền gửi tiết kiệm 2,7 2,94 2,7 Chứng chỉ tiền gửi dưới 100.000USD 5,63 5,51 5,55 Chứng chỉ tiền gửi trên 100.000 USD 5,39 5,57 5,38 Lãi suất thực đối với các loại tiền gửi khác nhau ( Theo Nghiệp vụ ngân hàng thương mại – Peter S.Rose) Giả định rằng các yếu tố khác không đổi, ngân hàng sẽ huy động vốn bằng cách cung cấp các loại hình tiền gửi có chi phí thấp nhất, hay thu nhập ròng tạo ra từ việc sử dụng các nguồn vốn tiền gửi này là lớn nhất sau khi đã trừ đi mọi chi phí. Nếu một ngân hàng có thể huy động toàn bộ tiền gửi từ các nguồn có chi phí thấp nhất và đầu tư vào các tài sản có mức lãi suất cao nhất, ngân hàng sẽ tối đa hóa mức chênh lệch lãi suất, và có thể tối đa hóa thu nhập ròng của cổ đông. Mỗi loại tiền gửi mà chúng ta đã nghiên cứu đều mang một mức lãi suất khác nhau. Lãi suất sẽ quyết định chi phí, và chi phí cho các nguồn tiền gửi khác nhau có sự khác nhau. Giả định rằng các yếu tố khác không đổi, ngân hàng sẽ huy động vốn bằng cách cung cấp các loại hình gửi tiền có chi phí thấp nhất, hay thu nhập ròng tạo ra từ việc sử dụng các nguồn vốn tiền gửi này là lớn nhất sau khi đã trừ đi mọi chi phí. Nếu một ngân hàng có thể huy động toàn bộ tiền gửi từ các nguồn có chi phí thấp nhất và đầu tư vào các tài sản có mức lãi suất cao nhất, ngân hàng sẽ tối đa hoá mức chênh lệch lãi suất, và có thể tối đa hoá thu nhập ròng của cổ đông. Nhưng đâu là nguồn tiền gửi có chi phí tháp nhất? Và loại tiền gửi nào tạo ra thu nhập ròng cao nhất? Khoản chi phí lớn nhất cho đến nay là lãi tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm. Khoản chi phí này năm 1986 chiếm hơn 50% tổng chi phí của các NHTM năm đó. Nói chung, theo lý thuyết giá trị của tiền theo thời gian và theo mối quan hệ tỷ lệ thuận trong đường cong thu nhập thì tiền gửi có kỳ hạn thanhtoán càng dài sẽ tạo ra mức lãi càng cao cho người gửi tiền Ví dụ. tài khoản NOW và tài khoản tiết kiệm đều có thể được rút tiền ngay lập tức, và do đó khách hàng được hưởng mức lãi thấp nhất trong số tất cả các loại tiền. Ngược lại ngân hàng trả lãi suất tiền gửi cao nhất cho chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng với kỳ hạn một năm hoặc dài hơn. Quy mô và mức độ rủi ro trong hoạt động của ngân hàng cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành lãi suất tiền gửi. Ví dụ các ngân hàng ở New York, Lon don hay Tokyo nhờ vào quy mô lớn và sức mạnh tài chính nên có thể thu hút tiền gửi ở mức lãi suất bình quân thấp nhất, trong khi lãi suất được thông báo tại các ngân hàng khác thường cao hơn. Những yếu tố quan trọng là triết lý về Marketing và mục tiêu của việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng. Ngân hàng nào quyết định chọn mục tiêu là cạnh tranh giành tiền gửi sẽ luôn luôn đặt ra mức lãi suất cao hơn để kéo khách hàng khỏi các đối thủ cạnh tranh. Ngược lại khi ngân hàng muốn hạn chế quy mô của một loại hình tiền gửi nào đó, ngân hàng sẽ hạ lãi suất công bố thấp hơn mức lãi suất của các đối thủ cạnh tranh đưa ra. 4. Các phương pháp định giá tiền gửi Hiện nay,các nhà quản lý ngân hàng đang phải đối mặt với tình trạng tiến thoại lưỡng nan trong việc định giá các dịch vụ liên quan đến tiền gửi - nguồn vốn quan trọng nhất của ngân hàng. Một mặt, ngân hàng phải trả một mức lãi suất đủ lớn để có thể thu hút và duy trì sự ổn định trong lượng tiền gửi của khách hàng. Mặt khác, ngân hàng phải cố gắng hạn chế việc trả lãi suất quá cao bởi vì điều này sẽ làm giảm mức thu nhập tiềm năng của ngân hàng. Hiện nay sự cạnh tranh gay gắt trong thị trường cung cấp các dịch vụ tài chính càng làm cho vấn đề nêu trên trở nên phức tạp hơn bởi vì cạnh tranh có xu hướng làm tăng chi phí trả lãi tiền gửi trong khi làm giảm thu nhập dự kiến từ hoạt động đầu tư và cho vay. Vì vậy, việc định giá các dịch vụ liên quan đến tiền gửi rất quan trọng. Bao gồm các phương pháp sau: 4.1 Định giá tiền gửi theo phương pháp tổng hợp chi phí - thu nhập Trong hoạt động ngân hàng ngày nay, các nhà quản lý nhìn chung không chấp nhận quan điểm cho rằng khách hàng là người phải chịu toàn bộ chi phí dịch vụ liên quan đến tiền gửi. Cho đến vài năm gần đây, luận điểm "khách hàng nên được sử dụng miễn phí các dịch vụ về tiền gửi" được xem như một đường lối khôn ngoan nhằm đối phó với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt phía các trung gian tài chính khác trên thị trường truyền thống của ngân hàng. Tuy nhiên, rất nhiều ngân hàng đã sớm nghi ngờ tính hiệu quả của chiến lược Marketing mới này bởi vì nó làm gia tăng số lượng các tài khoản có số dư nhỏ với mức độ nhạy cảm cao và do đó buộc ngân hàng phải đối mặt với tình trạng bùng nổ trong chi phí hoạt động. Sự phát triển của tiền gửi thanh toán hưởng lãi, đặc biệt là tiền gửi trong tài khoản NOW đã tạo cơ hội cho các ngân hàng xem xét lại phương pháp định giá đối với các dịch vụ về tiền gửi. Thật không may, nhiều ngân hàng mới tham gia thị trường đã liều lĩnh chấp nhận định giá dưới mức chi phí nhằm mở rộng nguồn vốn tiền gửi. Khách hàng chỉ phải trả một khoản lệ phí nhỏ, thấp hơn chi phí hoạt động và chi phí quản lý chung cho việc cung cấp các khoản tiền gửi giao dịch và các khoản tiền gửi khác. Kết quả là tỷ lệ thu nhập khách hàng được hưởng tăng lên đáng kể, người ta gọi đây là lãi suất ẩn – chênh lệch giữa chi phí cho việc cung cấp dịch vụ tiền gửi và số tiền thực tế khách hàng phải thanh toán. Việc định giá dịch vụ diễn ra linh hoạt hơn sau khi những quy định về lãi suất trần được xoá bỏ. Do cạnh tranh ngày càng gay gắt cùng với sự tăng lên của lệ phí bảo hiểm, chi phí trung bình của ngân hàng cho mộtkhoản tiền gửi đã tăng lên. Điều này có nghĩa là ngân hàng tiến hành định giá tiền gửi độc lập, tách biệt khỏi các khoản cho vay và các dịch vụ khác. Đồng thời, mỗi dịch vụ liên quan tới tiền gửi thường được định giá sao cho khoản thu đủ bù đắp tất cả hoặc phần lớn chi phi cho việc cung cấp dịch vụ đó. Giá của các dịch vụ này được xác định theo công thức tổng hợp chi phí - thu nhập như sau: (4)= (1) + (2) + (3) (1) (2) (3) Giá khách hàng phải trả cho 1 đơn vị dịch vụ tiền gửi Chi phí hoạt động cho 1 đơn vị dịch vụ tiền gửi Chi phí quản lý cung dự tính phân bổ cho bộ phận nhận tiền gửi Định mức lợi nhuận từ 1 đơn vị dịch vụ tiền gửi Phương pháp định giá theo chi phí như công thức trên khuyến khích các ngân hàng đặt giá sát hơn với chi phí và loại bỏ nhiều dịch vụ trước đây miễn phí. Ví dụ, ngày càng nhiều ngân hàng Mỹ áp đặt phí cho dịch vụ chấp nhận thấu chi, tăng lệ phí đối với các tờ séc bị máy rút tiền tự động ATM, tính phí hàng tháng cho việc duy trì tài khoản kể cả đối với tài khoản tiết kiệm nhỏ, đồng thời nâng cao mức quy định về số dư tiền gửi tối thiểu. Trong hầu hết các trường hợp, những khoản phí dịch vụ này dường như tăng nhanh hơn tỷ lệ lạm phát. Kết quả của những xu hướng này nói chung có lợi cho ngân hàng, thu nhập từ phí dịch vụ vượt trội tổn thất do những khách hàng khó tính đóng tài khoản của họ tại ngân hàng. 4.2 Phương pháp đánh giá chi phí dịch vụ tiền gửi trung bình Việc định giá theo phương pháp tổng hợp chi phí – thu nhập đòi hỏi ngân hàng phải tính toán chính xác chi phí cho mỗi dịch vụ tiền gửi. Điều này đòi hỏi ngân hàng : Phải tính toán tỉ lệ chi phí cho mỗi nguồn vốn (được điều chỉnh theo tỷ lệ dự trữ bắt buộc, chi phí bảo hiểm tiền gửi và ngân quỹ ) Nhân từng tỷ lệ chi phí với tỉ lệ quỹ tương xứng, hình thành từ các nguồn khác nhau Cộng tất cả các kết quả thu được để xác định chi phí nguồn vốn trung bình của ngân hàng. Đây là phương pháp tập trung nguồn vốn. Phương pháp này được xây dựng dựa trên giả định rằng : ngân hàng chỉ quan tâm đến chi phí trung bình của tất cả nguồn vốn mà không quan tâm tới chi phí của từng loại tiền gửi. 4.3 Phương pháp tập trung nguồn vốn Phương pháp tập trung nguồn vốn giúp nhà quản lý ngân hàng có thể xác định được ảnh hưởng của bất kỳ sự thay đổi nào trong chi phí huy động vốn. Chẳng hạn, nhà quản lý có thể tiến hành thử nghiệm với các giao dịch về chi phí tiền gửi khác nhau ( lãi suất, lệ phí và dự trữ hối phiếu) cho bất kỳ kế hoạch huy động vốn nào và đánh giá ảnh hưởng của chúng đến chi phí huy động vốn của ngân hàng. Đương nhiên, các nhà quản lý cần phải xác định tiền gửi tối thiểu mà tại đó ngân hàng vẫn đảm bảo hoạt động có lãi. Có như vậy chính sách định giá dịch vụ về tiền gửi mới thực sự an toàn. Hơn nữa, việc định giá quá dễ dãi dựa trên tình cảm giữa ngân hàng với các khách hàng lớn có thể dẫn đến sự tăng lên đột biến trong chi phi huy động vốn trong khi tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng tăng không đáng kể. 4.4 Phương pháp sử dụng chi phí cận biên để xác định lãi suất tiền gửi Nhiều nhà phân tích tài chính cho rằng nếu như điều kiện cho phép, các ngân hàng không nên dùng chỉ tiêu chi phí bình quân mà nên sử dụng chi tiêu chi phí cận biên – chi phí tăng thêm cho một đồng vốn mới - trong việc định giá các khoản tiền gửi và các nguồn vốn khác của ngân hàng. Lý do ở đây là sự thay đổi liên tục của lãi suất sẽ làm cho chi phí trung bình trở thành một tiêu chuẩn không trung thực và phi thực tế trong việc định giá tiền gửi. Ví dụ, nếu lãi suất đang giảm, chi phí tăng thêm (chi phí cận biên biên) để huy dộng một nguồn vốn mới có thể giảm đáng kể, xuống dưới mức chi phí nguồn vốn bình quân của ngân hàng. Một số khoản tín dụng và đầu tư có thể được coi là không sinh lợi khi đánh giá theo chi phí nguồn vốn trung bình nhưng lại có thể là sinh lợi nếu đánh giá theo chỉ tiêu chi phí lãi cận biên bởi vì hiện tại ngân hàng đang huy dộng vốn với lãi suất thấp hơn để thực hiện các khoản tín dụng và đầu tư này. Trái lại khi lãi suất đang tăng, chi phí cận biên của các khoản vốn mới có thể lớn hơn chi phí nguồn vốn trung bình đáng kể. Nếu việc xét duyệt những khoản cho vay mới được thực hiện trên cơ sở chi phí trung bình thì khả năng sinh lời của các khoản cho vay này có thể sẽ rất hạn chế khi đánh giá theo chi phí huy động vốn cận biên - một chỉ tiêu đã tăng rất nhanh trong những năm gần đây. Thật vậy, “nguyên nhân của một trong những vụ phá sản được biết tới nhiều nhất trong lịch sử - Vụ sụp đổ của Franklin National Banh of New York năm 1974 - cũng một phần bắt nguồn từ chiến lược quản lý mà theo đó nhà quản lý so sánh tỷ lệ thu nhập dự tính của các khoản tín dụng mới với chi phí nguồn vốn trung bình. Nếu thu nhập dự tính của khoản tín dụng lớn hơn chi phí nguồn vốn trung bình từ 1 % trở lên, cán bộ tín dụng của Franklin được phép cho vay. Không may. khi lãi suất huy dộng vốn tăng lên đáng kể thì 0,5% lợi nhuận biên của Franklin so với chi phí trung bình trở lên quá nhỏ bé. Thu nhập thực tế từ một lượng lớn các khoản tín dụng và đầu tư khổng lồ không đủ bù đắp chi phí nguồn vốn hiện tại. Điều này đã làm suy giảm vốn tự có của Franklin” “Nhà kinh tế học James E. Mc Nulty đã khuyên các ngân hàng nên sử dụng phương pháp chi phí cận biên để xác định lãi suất cho các tài khoản tiền gửi mới. Để hiểu rõ phương pháp xác định giá theo chi phí cận biên do Mc Nulty đề xướng hãy giả định rằng một ngân hàng dự lính sẽ huy động được 25 triệu USD tiền gửi khi đặt lãi suất ở mức 7%. Nhà quản lý dự đoán rằng nếu ngân hàng nâng lãi suất lên 7,5%, 8%, 8,5% và 9% thì lượng tiền gửi sẽ tăng lên tương ứng là 50 triệu USD, 75 triệu USD, 100 triệu USD và 125 triệu USD. Lượng tiền này bao gồm các khoản tiền gửi mới và các khoản tiền gửi hiện có ở ngân hàng được khách hàng giữ lại để hưởng lãi suất cao hơn. Giả định là nhà quản lý tin rằng việc đầu tư bằng các khoản tiền gửi mới sẽ mang lại tỷ lệ thu nhập là 10%, đây chính là thu nhập cận biên - thu nhập gia tăng từ việc cho vay hay đầu tư bằng nguồn vốn mới huy động.Với giả định này, ngân hàng nên đặt lãi suất tiền gửi ở mức nào? 4.5 Phương pháp định giá xâm nhập thị trường Xâm nhập thị trường là một phương pháp định giá không nhấn mạnh tới vấn đề lợi nhuận, ít nhất là ngắn hạn. Ý tưởng ở đây là nâng cao lãi suất, thường là cao hơn hẳn mặt bằng lãi suất thị trường hoặc thu phí dịch vụ thấp hơn mức phí thị trường để có thể thu hút được số lượng khách hàng tối đa. Nhà quản lý hy vọng rằng sự gia tăng nhanh chóng của quy mô tiền gửi và của những khoản tín dụng sẽ bù đắp một phần sự giảm sút trong lợi nhuận cận biên. Với chiến lược này, ngân hàng muốn tối đa hóa thị phần tron một thị trường đang tăng trưởng nhanh chóng. Đối với khách hàng, chọn ra được một ngân hàng có đủ uy tín để gửi tiền là một công việc rất tốn kém. Do vậy, khách hàng thường tập trung mua dịch vụ của một ngân hàng. Một tài khoản tiền gửi có thể là điều kiện nền tảng cho các khoản vay, dịch vụ ủy thác và các dịch vụ khác. Việc cắt đứt quan hệ thường gây ra những thiệt hại lớn nên khách hàng có xu hướng trung thành với ngân hàng họ đã lựa chọn. Bởi vậy, tiền gửi có thể được xem là một yếu tố ổn định tiền gửi hoạt động ngân hàng. Tiền gửi thường kém nhạy cảm hơn các nguồn tiền khác trước những thay đổi trong lệ phí, lãi suất và chính sách huy động vốn của ngân hàng đối thủ. Nếu ngân hàng có thể đưa ra lãi suất cao hơn mức bình quân thị trường trong một thời gian đủ dài để tạo ra sự trung thành của khách hàng thì trong tương lai, khách hàng vẫn sẽ gửi tiền vào ngân hàng dù rằng lãi suất mà ngân hàng đưa ra không còn cao như trước. Chi phí không nhỏ cho việc lựa chọn và thay đổi ngân hàng là nguyên nhân giải thích cho hành vi nêu trên của khách hàng. Trên thực tế, sự thất bại của các ngân hàng trong chiến lược thu hút thêm tiền gửi bằng cách giảm lệ phí hoặc nâng cao lãi suất bắt nguồn từ tính ổn định tương đối của tiền gửi: khách hàng thường không thay đổi ngân hàng ngay lập tức bởi vì chi phí và rủi ro cho sự thay đổi này là không nhỏ. Các công ty và các hộ gia đình trước khi quyết định gửi tiền vào một ngân hàng nào đều xem xét đến rất nhiều yếu tố, không chỉ có lãi suất. 4.6 Định giá mục tiêu trọng điểm Một số ngân hàng, nhất là những ngân hàng ở các thành phố lớn, có nhiều tài khoản tiền gửi với số dư lớn, ổn định, thường mạnh dạn sử dụng phương pháp định giá mục tiêu trọng điểm. Các chương trình quảng cáo công phu ở họ thường hướng những người có địa vị trong xã hội và các gia đình khá giả tới những dịch vụ của ngân hàng. Đối với những tài khoản khác, đặc biệt là các tài khoản có số dư thấp, ít ổn định, việc định giá có thể nhằm vào mức hòa vốn hoặc ngân hàng có thể hạn chế các tài khoản này bằng việc định giá cao hơn. Chiến lược này thường được kết hợp với chương trình nhà ngân hàng cá nhán (personal banker), theo đó mỗi khách hàng lớn được một cán bộ ngân hàng chịu trách nhiệm đáp ứng tất cả các nhu cầu về dịch vụ ngân hàng.“Điều tra ở New England do Crane và Reilly Murphy và Mandell thực hiện cho thấy một số khách hàng - đặc biệt là khách hàng lớn - có phản ứng rất nhanh đối với sự thay đổi về giá cả tiền gửi.” Ngày nay, trên các thị trường tiền gửi, sức cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng cùng với việc ngày càng nhiều ngân hàng sử dụng phương pháp định giá mục tiêu trọng điểm đã khiến cho khách hàng được thông tin tốt hơn và nhạy cảm hơn với giá tìm được cho mình những điều khoản có lợi nhất. 4.7 Định giá tiền gửi trên cơ sở mối quan hệ tổng thể với khách hàng Với ý tưởng nhằm tranh thủ những khách hàng tốt nhất, ngân hàng đã tiến hành định giá tiền gửi theo số lượng dịch vụ mà khách hàng sử dụng. Những khách hàng sử dụng từ hai dịch vụ trở lên có thể phải chịu lệ phí ở mức thấp, thậm chí không phải trả lệ phí, còn những khách hàng chỉ có quan hệ hạn chế với các ngân hàng sẽ phải trả lệ phí cao. Nhà quản lý cho rằng việc sử dụng một số lượng lớn các dịch vụ sẽ làm tăng sự phụ thuộc của khách hàng vào ngân hàng và điều này sẽ khiến cho khách hàng gặp nhiều khó khăn hơn khi muốn tìm kiếm một ngân hàng khác. Bởi vậy, ít nhất là trên lý thuyết, chính sách định giá trên cơ sở quan hệ sẽ tạo sự trung thành của khách hàng và làm cho họ kém nhạy cảm hơn với lãi suất tiền gửi cũng như phí dịch vụ của đối thủ cạnh tranh. Định giá tiền gửi để đạt mục tiêu của ngân hàng Chính sách định giá tiền gửi nên được sử dụng với mục đích bảo vệ và tăng cường khả năng sinh lời cho ngân hàng. Với công cụ này, ngân hàng không nên chỉ hướng vào mục tiêu đơn thuần là thu hút khách hàng hay chiếm đoạt thêm thị phần từ các đối thủ cạnh tranh. Thật vây, khi ngân hàng đưa ra một công cụ tiền gửi mới, cơ hội cho sự thành công nằm trong tay các khách hàng hiện tại của ngân hàng. Các khách hàng này sẽ không tự động trả giá cao hơn cho các dịch vụ tiền gửi. Họ sẽ không trả cho ngân hàng nhiều hơn những gì họ nhận được từ tài khoản tiền gửi. Chắc chắn rằng khách hàng sẽ tìm tới những ngân hàng khác khi lợi ích mà họ nhận được giảm xuống thấp hơn giá cả của dịch vụ tiền gửi. Phương pháp Bảng tỷ lệ phí tiền gửi Khách hàng sẽ phải trả một khoản lệ phí rất nhỏ thậm chí là không phải trả lệ phí nếu số dư tiền gửi bình quân của họ cao hơn một mức nhất định hoặc khách hàng sẽ phải trả lệ phí cao hơn nếu số dư tài khoản trung bình thấp hơn mức giới hạn. Do đó, mức giá dịch vụ mà khách hàng phải trả phụ thuộc vào việc anh ta sử dụng tiền gửi như thế nào Giá các dịch vụ liên quan đến tiền gửi thay đổi trên cơ sở một hoặc một số những yếu tố sau: + Số lần giao dịch thực hiện qua tài khoản (số séc được viết, số tiền gửi vào,số lần chuyển tiền, số lệnh ngừng trả hay số lần thấu chi). + Số dư tài khoản trung bình trong một thời kỳ nhất định (thường là một tháng). + Kỳ hạn của tiền gửi theo ngày, tuần, hoặc tháng.Khách hàng phải lựa chọn ngân hàng và xây dựng kế hoạch tiền gửi sao cho mức lệ phí là thấp nhất và (hoặc) nhận được thu nhập cao nhất trên cơ sở dự kiến về số séc viết, số tiền gửi vào và rút ra cũng như số dư trung bình của tài khoản. Đương nhiên khách hàng cũng phải xem xét tới các khía cạnh khác như mức độ an toàn và sự sẵn có của các dịch vụ. Chương 2 Thực trạng tiền gửi trong ngân hàng Việt Nam Ở Việt Nam, đa số các ngân hàng thương mại lớn đều thuộc quyền sở hữu của Nhà nước và chịu sự chi phối của Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Một cách nào đó, việc tăng hay giảm lãi suất tiết kiệm hay cho vay đều phản ảnh chính sách của NHNN, chiến lược riêng của từng ngân hàng và có sự tácđộng của nền kinh tế thị trường. Lãi suất là một phạm trù rất quan trọng của kinh tế học, của thị trường và của cuộc sống kinh doanh. Chúng ta hiểu lãi suất theo nghĩa "giá cả" giống như mọi loại giá cả hàng hóa khác trên thị trường. Điều khác biệt duy nhất của lãi suất so với các loại giá cả khác là nó chính là giá của một loại hàng hóa rất trừu tượng. Đơn giản hơn trong cuộc sống, chúng ta thường nhìn lãi suất ở một dạng của giải thích phía trên, nhưng rất hẹp là "giá của một khoản tiền vay." Lãi suất là một trong những công cụ tài chính quan trọng nhất của các ngân hàng. Lãi suất huy động tiền gửi, còn gọi là lãi suất huy động vốn hay tiết kiệm, và lãi suất cho vay là hai công cụ chính các ngân hàng dùng để nâng cao thế mạnh tài chính của họ và giúp đóng góp vào việc ổn định và phát triển nền kinh tế quốc dân. Công cụ tài chính này thường được các Ngân hàng Trung ương của các quốc gia thường xuyên sử dụng để ổn định nền kinh tế trong nước. Khi nền kinh tế của họ có dấu hiệu chậm lại, các Ngân hàng Quốc gia thường đưa ra một lãi suất cho các ngân hàng tư nhân vay rất thấp để khuyến khích việc họ vay và cho vay lại để tiêu dùng hay đầu tư phát triển giúp hâm nóng nền kinh tế trở lại. Khi tốc độ phát triển của nền kinh tế tăng quá mau dẫn đến tình trạng lạm phát, giá cả leo thang thì các Ngân hàng Quốc gia này sẽ đưa ra lãi suất cao để giảm thiểu số lượng tiền vay của các ngân hàng tư nhân và qua đó giảm nhu cầu tiêu dùng của người dân. Việc tăng hay giảm lãi suất tiền gửi hoặc cho vay là những sinh hoạt thường xuyên của các ngân hàng, và giúp chúng ta thấy được sức mạnh của ngành ngân hàng cũng như của nền kinh tế. Không có lý do gì để chúng ta lo ngại mỗi lần ngân hàng thay đổi lãi suất, nhất là khi mức tăng hay giảm vừa phải theo thị trường hay được Ngân hàng Nhà nước giám sát và cho phép. Có những lý do khách quan do thị trường tác động và có những lý do riêng biệt khác mang tính chất hay nhu cầu nội bộ của việc tăng lãi suất tiền gửi. Nhiều ngân hàng vì cần số lượng tiền cho vay lớn và để gấp rút đáp ứng nhu cầu phát triển của chính phủ hay doanh nghiệp (đầu tư, nhập khẩu, v.v.) nên phải huy động tiền gửi qua việc tăng lãi suất tiết kiệm ngắn hay dài hạn. Các ngân hàng khác, vì vị thế và nhu cầu cạnh tranh không muốn mất khách hàng, tuy không có nhu cầu tiền mặt lớn, thường vẫn phải tăng lãi suất để cùng đứng chung với các ngân hàng khác. Việc các ngân hàng theo nhau tăng hay giảm lãi suất cũng là việc bình thường. 2.1. Cuộc chay đua lãi suất Trong khoảng thời gian từ ngày 19/5/2008 đến đầu tháng 7/2008 các ngân hàng thương mại thường xuyên điều chỉnh lãi suất huy động vốn nội tệ và ngoại tệ. Cá biệt, có ngân hàng thương mại cổ phần điều chỉnh lãi suất huy động VND lên cao nhất tới 20%/năm. Hãy nhìn về khoảng thời gian trước thời điểm này: * Thời điểm đầu tháng 2 năm 2008 Đáng chú ý nhất là SeABank ban hành một mức lãi suất mới với cái tên gọi đúng bản chất là  “siêu lãi suất” lên 12%/năm. Mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm áp dụng cho: kỳ hạn 01 tháng: 12%/năm; kỳ hạn 02 tháng: 11,5%/năm; kỳ hạn 03 tháng 11%/năm; kỳ hạn 06 tháng: 11%/năm.  Được biết, ngay trước đó, từ ngày 19/02/08, SeABank đã nâng lãi suất huy động với các loại tiền VND, USD, EUR, lãi suất cao nhất lên tới 10,92%. Trong khi đó, Ngân hàng cổ phần Quân đội (MB) cũng đã chính thức tham gia cuộc đua lãi suất kể từ 21/2/2008 MB khi tăng lãi suất huy động vốn. Mức tăng cao nhất của MB là ở kỳ hạn 3 tháng từ mức 8,22%/năm lên 10,00%/năm. Mức lãi suất được áp dụng cho kỳ hạn 12 tháng và 24 tháng đều là 10,20%/năm. Ngoại trừ không kỳ hạn, mức lãi suất của các kỳ hạn khác đều từ 9%/năm trở lên. Đối với huy động bằng Đô la Mỹ từ cá nhân mức tăng là từ 0,1% đến 0,4% theo đó lãi suất của kỳ hạn 12 tháng là 5,2%/năm, cao nhất là ở các kỳ hạn 24, 36 và 60 tháng tương đương 5,4%/năm. Ngân hàng TMCP An Bình (ABBank) cũng vừa thông báo tăng lãi suất tiết kiệm VND lĩnh lãi cuối kỳ bắt đầu từ ngày 18/2/2008 với mức tăng từ 0,18%/năm đến 1,20%/năm. Là một trong 2 ngân hàng thương mại cổ phần lớn nhất Việt Nam, Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) cũng đã thực hiện tăng mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi thanh toán bằng VND ở tất cả các kỳ hạn từ 1 tháng tới 36 tháng với mức tăng từ 0,36%/năm tới 0,6%/năm. Trong đó, lãi suất áp dụng cho kỳ hạn 6 tháng cũng đã đạt 9,24%/năm. ACB cho biết, đây là đợt điều chỉnh mức lãi suất tiền gửi ở tất cả các kỳ hạn có biên độ lớn nhất của ACB trong thời gian vừa qua. * Thời điểm cuối tháng 2 năm 2008 Lãi suất 13% rồi 14% và đỉnh điểm vượt qua mốc 15%/năm của một số ngân hàng “cổ phần tư nhân”, khiến hàng loạt người dân có tiền gửi ở các ngân hàng thương mại nhà nước đổ xô đi rút để đến các ngân hàng có lãi suất huy động cao hơn gửi vào. Cuộc đua giữa các ngân hàng đang “khát vốn”, kéo theo hệ lụy không mong muốn cho những ngân hàng lớn và các doanh nghiệp cần vay vốn sản xuất kinh doanh. Cuối tháng 2/2008, Ngân hàng  Nhà nước đã có quyết định “khống chế” lãi suất huy động ở mức  cao nhất là 12%, cuộc đua lãi suất bắt đầu hạ nhiệt. Phòng giao dịch Ngân hàng An Bình tại Phan Thiết đang có mức huy  động linh hoạt và “đụng sàn” mức quy định của Ngân hàng Nhà nước là 12%. Các sản phẩm cạnh tranh huy động vốn 1  tuần đến 4 tuần cũng có lãi suất khá cao. Sài Gòn Công Thương ngân hàng có nhiều mức huy động và trả lãi khác nhau cho từng thời điểm, ông Phan Văn Định – Giám đốc chi nhánh Bình Thuận, cho biết: “Dù mới mở chi nhánh ở Bình Thuận, nhưng Sài Gòn Công Thương vẫn có được lượng khách hàng nhất định, nên trước biến động tăng lãi suất huy động, Sài Gòn Công Thương vẫn hoạt động ổn định và tăng trưởng”. Trước thực trạng một số ngân hàng thương mại tăng lãi  suất huy động khá cao, bộ tứ “đại gia” trong lĩnh vực ngân hàng, có bề dày hoạt động, nguồn vốn ổn định và là ngân hàng nhà nước, nên Ngân hàng đầu tư và Phát triển, Công Thương, Ngoại Thương, Nông nghiệp - Phát triển nông thôn dù có bị dịch chuyển nguồn vốn, nhưng vẫn hoạt động ổn định.                     + Ngân hàng nhà nước “khơi ngòi” cho cuộc đua lãi suất. Lạm phát tăng cao, thị trường chứng khoán và bất động sản tăng trưởng nóng buộc Ngân hàng nhà nước phải đưa ra hàng loạt các biện pháp nhằm bình ổn. Phải kể đến là việc tăng tỷ lệ dữ trữ từ 10%

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐỀ TÀI.doc
Tài liệu liên quan