Đề án Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước trong việc thúc đẩy kinh tế

Nền kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nứơc theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường có trình độ phát triển cao. Nếu như nền kinh tế trì trệ, kém phát triển, tổng sản phẩm và thu nhập quốc dân thấp kém dẫn tới mức thu nhập bình quân của dân cư còn thấp, không có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế thì không thể gọi là định hướng xã hội chủ nghĩa được, đành rằng chỉ có nội dung này thì chưa đủ bởi vì nhiều nước đã có nền kinh tế phát triển cao nhưng đó lại không phải là nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa.

doc49 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1665 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước trong việc thúc đẩy kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế hỗn hợp và được định hướng bởi lý tưởng của chủ nghĩa xã hội. Đây là vấn đề hết sức mới mẻ và tất nhiên định nghĩa này đòi hỏi phải loại trừ thành kiến"Thị trường là chủ nghĩa tư bản","kế hoạch là chủ nghĩa xã hội" và các quan điểm cùng loại. Để hiểu rõ về nền kinh tế thị trường của Việt Nam ta cần làm rõ một số vấn đề sau: *Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa? Khi chuyển sang kinh tế thị trường chúng ta đứng trước một thực trạng là đất nước đã và đang từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội còn rất thấp. Đất nước lại trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều, lại chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp - Kinh tế hàng hoá còn kém phát triển, nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cấp tự túc: + Trình độ cơ sở vật chất kĩ thuật và công nghệ sản xuất còn thấp kém + Hệ thống kết cấu hạ tầng, dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội chưa đủ để phát triển kinh tế thị trường ở trong nước và chưa đủ khả năng để mở rộng giao lưu với thị trường quốc tế. + Cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả, còn mang nặng đặc trưng của một cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Hiện tượng độc canh cây lúa vẫn còn tồn tại, ngành nghề chưa phát triển. Từ Đại hội lần thứ VI của Đảng cho đến nay tuy cơ cấu ngành và cơ cấu thành phần kinh tế đã có nhiều thay đổi nhưng vẫn chưa thành được một cơ cấu mới hợp lí + Chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của nước ta đã được hình thành và đang phát triển vì vậy thị trường ở nước ta cũng đang được hình thành và phát triển. Tuy nhiên thị trường ở nước ta còn ở trình độ thấp, tính chất của nó còn hoang sơ, dung lượng còn thiếu và có phần rối loạn, chúng ta mới từng bước có thị trường hàng hoá nói chung. Về cơ bản nước ta còn chưa có thị trường sức lao động. Chúng ta cũng chưa có thị trường tiền tệ và thị trường tiền vốn, hoặc mới có thị trường này ở khu vực ngoài quốc doanh với quan hệ vay, trả, mua, bán còn thô sơ. Khu vực kinh tế Nhà nước vẫn sử dụng lãi suất, tỉ giá và quan hệ tài chính tiền tệ do Nhà nước quy định. Chưa có lãi suất, tỉ giá và tín dụng thực sự theo cơ chế thị trường. Thực trạng trên đây của nước ta là hậu quả của nhiều nguyên nhân khác nhau. Về mặt khách quan đó là do trình độ phát triển của phân công lao động xã hội còn thấp. Nền kinh tế còn mang nặng tính tự cấp tự túc. Về mặt chủ quan là do nhận thức chưa đúng đắn về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, do sự phân biệt duy ý chí giữa thị trường có tổ chức và thị trường tư do. Một thời gian khá dài đã tồn tại quan niệm cho rằng những tư liệu sản xuất lưu chuyển trong nội bộ các xí nghiệp quốc doanh là những hàng hoá đặc biệt, nó không được mua bán tự do vì chúng có vai trò đặc biệt quan trọng. Nếu chúng rơi vào tay tư nhân nó sẽ trở thành những phương tiện nô dịch lao động của người khác. Sức lao động tiền vốn cũng được quan niệm không phải là hàng hoá...Mặt khác do quản lí theo chiều dọc- theo chức năng kinh doanh của từng ngành một cách máy móc cho nên đã dẫn tới hiện tượng cửa quyền, cắt đứt mối liên hệ tự nhiên giữa các ngành. + Năng suất lao động và thu nhập quốc dân tính theo đầu người còn thấp Do trình độ cơ sở vật chất kĩ thuật và công nghệ còn thấp, kết cấu hạ tầng dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội còn kém, cơ cấu kinh tế còn mất cân đối, thị trường trong nước còn chưa phát triển...cho nên năng suất lao động xã hội và thu nhập bình quân tính theo đầu người ở nước ta tất yếu vẫn còn rất thấp. Tình hình này được phản ánh qua các số liệu sau Theo giá hiện hành( tỷ đồng) 1988 1989 1990 1991 1992 GNP 13,266 2,308 38,167 69,959 101,87 Tổng đầu tư (I) 1,906 2,817 4,796 - - Tiêu dùng (C) 13,291 24,358 38,177 66,61 94,883 Tiết kiệm (S) -25 -50 -10 3,349 6,987 Qua số liệu trên đây ta thấy: do năng suất lao động còn thấp nên mức tiêu dùng xã hội từ năm 1988 đến năm 1990 đều lớn hơn mức GDP hàng năm, do vậy không có tích luỹ nội bộ từ nền kinh tế trong nước, tiết kiệm đều là số âm. Theo số liệu thống kê của Ngân hàng thế giới năm 1991 thì thu nhập quốc dân theo đầu người của nước ta so với các nước đang phát triển ở Châu á thì vào loại thấp nhất Việt Nam: 200USD/người, trong khi GDP/người năm 1990 của Trung Quốc là 370USD, Indonexia là 570USD, ấn Độ là 350USD, Philippin là 730USD, Thái Lan là 1420USD, Malaixia là 2320USD, Nam Triều Tiên là 5400USD - ảnh hưởng của mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp Do nhận thức chủ quan duy ý chí về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa mà trong nhiều thập kỉ qua ở nước ta đã tồn tại mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực tiễn hoạt động kinh tế đã chứng minh mô hình này có nhiều nhược điểm cũng như những tác động tiêu cực của nó đến nền kinh tế nước ta, nó gần như đối lập với nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường. *Thực chất của quá trình chuyển nền kinh tế Việt Nam sang kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Lịch sử đã chứng minh rằng không thể chuyển nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn nếu thiếu " đòn xeo" là kinh tế hàng hoá. Chính Mac đã coi sự phát triển của kinh tế hàng hoá là xuất phát điểm và là điều kiện quan trọng nhất không thể thiếu được đối với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa. Nội chiến kết thúc, Lenin cũng chủ trương thi hành chính sách kinh tế mới (NEP). Về thực chất đó là sự phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhằm khơi dậy sự sống động cuả nền kinh tế, mở rộng giao lưu hàng hoá giữa thành thị và nông thôn, thực hiện các quan hệ kinh tế bằng hình thức quan hệ hàng hoá tiền tệ trên thị trường. - Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta có sự khác biệt với các nước Đông Âu và Liên Xô (cũ), những nước này đã có nền kinh tế phát triển, nền kinh tế đã được cơ khí hoá, không có tính tự nhiên tự cấp tự túc như nước ta, vì vậy quá trình hình thành nền kinh tế thị trường nước ta trước hết là quá trình chuyển nền kinh tế còn mang nặng tính tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Mặt khác, nền kinh tế nước ta cũng đã tồn tại mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, cơ chế này đã được phân tích ở phần trên, nó gần như đối lập với thị trường cũng như cơ chế thị trường. Thị trường được coi là trung tâm của quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội, vì vậy quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường còn là quá trình xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. - Quá trình chuyển nền kinh tế nước ta đồng thời cũng là quá trình thực hiện nền kinh tế mở, nhằm hoà nhập thị trường trong nước với thị trường thế giới. Sự xuất hiện và phát triển của sản xuất hàng hoá đã phá vỡ các quan hệ kinh tế truyền thống của nền kinh tế khép kín. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã khẳng định: kinh tế hàng hoá đã làm cho thị trường dân tộc gắn bó và hoà nhập với thị trường thế giới. Chính giao lưu hàng hoá đã làm cho các quan hệ kinh tế được mở rộng khỏi phạm vi quốc gia, đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh chóng. Kinh tế mở là đặc điểm và là xu thế của thời đại ngày nay mà bất kì quốc gia nào cũng phải coi trọng. Trong điều kiện nước ta, bài học về sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong cuộc đấu tranh giành độc lập tự do trước đây một lần nữa lại sống động trong công cuộc phát triển đất nước với bối cảnh và điều kiện mới. Trong quan hệ kinh tế quốc tế chúng ta đã có nhiều đổi mới quan trọng, đã chuyển từ đơn phương sang đa phương, quan hệ với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị, theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Trong những năm gần đây, thực hiện quan điểm về kinh tế đối ngoại nói trên, hoạt động kinh tế quốc tế nước ta đã có những tiến bộ lớn. Xuất khẩu hàng hoá tăng nhanh với nhịp độ trên dước 20% hàng năm (1986-1992), bảo đảm nhập khẩu các loại vật tư và công nghệ chủ yếu, cải thiện dần cán cân thanh toán quốc tế. Chúng ta đã nhanh chóng điều chỉnh và khắc phục được những hẫng hụt về nguồn vốn và thị trường từ các nước SNG và Đông Âu. Hàng hoá của nước ta tìm được những thị trường mới như Đông Nam á, Tây Âu. Nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam cũng tăng nhanh. *Các giai đoạn và các biện pháp hình thành cơ chế quản lí mới Quắ trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một quá trình phức tạp, có nhiều khó khăn, không nên quan niệm đơn giản và nóng vội, cần phải tuân thủ những tính quy luật của quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường, quá trình đó trải qua những giai đoạn sau đây: -Giai đoạn quá độ chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Về mặt lịch sử giai đoạn này bắt đầu từ năm 1979 với mốc lịch sử quan trọng là Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ VI (khoá IV) tháng 9 năm 1979. Về mặt logic, giai đoạn này bắt đầu từ việc hình thành và củng cố những đơn vị sản xuất hàng hoá theo đúng nghĩa nhằm tạo ra những mối quan hệ vừa tự chủ, vừa lệ thuộc lẫn nhau giữa các chủ thể sản xuất. Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là khắc phục tính hiện vật của quan hệ trao đổi, hình thành quan hệ hàng hoá tiền tệ trên thị trường. Nội dung trên được thực hiện với những giải pháp chủ yếu sau đây: + Một là hình thành và củng cố những đơn vị sản xuất hàng hoá nhằm chuyển quan hệ trao đổi có tính hiện vật sang quan hệ hàng hoá tiền tệ. + Hai là đẩy mạnh phân công lao động xã hội nhằm mở rộng thị trường. + Ba là chuyển quan hệ sở hữu có tính đơn nhất sang quan hệ sở hữu có tính đa dạng vớinhiều hình thức sở hữu khác nhau để khắc phục hiện tượng vô chủ, lãi giả, lỗ thật trong các doanh nghiệp Nhà nước, để tạo ra sự tự do kinh tế và hình thành nhiều nhà kinh doanh giỏi thích ứng với cơ chế thị trường. Trong điều kiện của nước ta, chúng ta đã điều chỉnh cơ cấu sở hữu theo những bước sau đây: Phát huy hình thức kinh tế hộ nông dân, thợ thủ công, xây dựng khu vực kinh tế công cộng với chức năng là bảo đảm sự ổn định và là cơ sở cho sự phát triển các thành phần kinh tế, hình thành và phát triển các công ty cổ phần. + Bốn là, đổi mới chính sách kinh tế nhằm chuyển các quan hệ kinh tế theo chiều dọc sang chiều ngang, từng bước đã thực hiện tự do hoá giá cả. Thực chất là thay thế cơ chế hai giá bằng cơ chế một giá, nhằm từ bỏ cơ chế cũ, chuyển sang cơ chế thị trường, đây là khâu quan trọng tạo tiền đề cho việc đổi mới cơ chế trong các lĩnh vực khác như tài chính, tiền tệ, tiền lương, quản lí thị trường. Việc tự do hoá giá cả đã làm cho sản xuất thích ứng nhạy cảm với nhu cầu của thị trường và đem lại sức sống mới cho sản xuất. - Giai đoạn phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã đặt nền móng vững chắc cho quan điểm phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, quan niệm này được tái khẳng định rõ hơn ở Đại hội lần thứ VII và lần thứ VIII của Đảng ta. Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là phát triển và mở rộng quan hệ hàng hoá tiền tệ tạo tiền đề cho kinh tế hàng hoá phát triển. Để thực hiện nội dung đó, chúng ta đã và đang thực hiện những giải pháp chủ yếu sau: + Một là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng phải đảm bảo nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần tăng trưởng và phát triển, bảo đảm sự ổn định của nền kinh tế quốc dân cũng như về các mặt chính trị- xã hội, bảo đảm sự công bằng xã hội và sự vững bền của môi trường, bảo đảm sự phát triển, tăng trưởng đồng bộ và cân đối, tạo điều kiện thúc đẩy những ngành mũi nhọn nhằm tạo ra sự tích luỹ nội bộ từ trong nền kinh tế. + Hai là chủ động tạo điều kiện cần thiết để xây dựng đồng bộ các yếu tố của thị trường, phát huy những ưu thế và động lực của thị trường, đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. + Ba là, hoàn chỉnh và tăng cường vận dụng các chính sách tài chính và tiền tệ nhằm tạo nguồn vốn và tạo ra và thực hiện việc đầu tư vốn theo mục tiêu phát triển, phân phối, phân phối lại thu nhập quốc dân tạo ra sự ổn định về giá cả, về tiền tệ và tỷ giá hối đoái, qua đó tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển sản xuất hàng hoá phù hợp với cơ chế thị trường + Bốn là đào tạo cán bộ quản lí kinh doanh theo yêu cầu của kinh tế thị trường. Chúng ta đã kết hợp giữa việc mở rộng quy mô đào tạo để nâng cao dân trí với việc coi trọng chất lượng nhằm đào tạo nhân tài.Việc đào tạo cán bộ quản lí kinh doanh không chỉ chú ý đáp ứng nhu cầu của khu vực kinh tế Nhà nước mà còn phải quan tâm tới khu vực ngoài quốc doanh cũng như khu vực kinh tế nông thôn và miền núi. + Năm là, tăng cường vai trò quản lí của Nhà nước để phát huy những ưu thế và khắc phục những của khuyết tật của cơ chế thị trường. - Giai đoạn hình thành và phát triển cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nội dung chủ yếu của giai đoạn 3 là tiền tệ hoá các quan hệ kinh tế, tạo lập cơ sở kinh tế cho các quy luật kinh tế của kinh tế thị trường, phát huy tác dụng một cách đầy đủ, phát triển kinh tế trong nước và hoà nhập với kinh tế thế giới. Nội dung trên được thực hiện với những giải pháp then chốt sau: + Một là phát triển cơ cấu kinh tế mở nhằm hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân, đây là giải pháp có tính thời đại. + Hai là hoàn thiện và phát triển kinh tế thị trường các yếu tố sản xuất nhằm đáp ứng các nhu cầu về vốn, sức lao động và các điều kiện vật chất khác cho sản xuất. + Ba là thiết lập cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước, cần tiếp tục thực hiện tự do hoá giá cả và thương mại hoá giá cả trong nền kinh tế, tăng cường năng lực quản lí của Nhà nước đối với cơ chế thị trường, đây là giải pháp có ý nghĩa gần như quyết định đối với sự hình thành và phát triển của kinh tế thị trường nước ta. + Bốn là lựa chọn chính sách khoa học, công nghệ vì mục tiêu phát triển. Hướng công nghệ được lựa chọn ở tầm quốc gia là cộng nghệ điện tử, tin học, công nghệ sinh học, gia công nguyên liệu...hướng công nghệ này sẽ khắc phục được sự khan hiếm các nguồn lực và đưa nền kinh tế phát triển theo chiều sâu, trong đó lao động trí tuệ trở thành đặc trưng nổi bật. III- Sự cần thiết tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước ở Việt Nam 1- Nội dung( đặc trưng) của cơ chế quản lí mới Ngoài những dặc trưng chung của một nền kinh tế thị trường là - Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Các chủ thể kinh tế tự bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh của mình, được tự do liên doanh, liên kết, tự do tổ chức quá trình sản xuất theo luật định, đây là đặc trưng rất quan trọng của kinh tế thị trường, nó xuất phát từ những điều kiện khách quan của việc tồn tại kinh tế hàng hoá đồng thời cũng là biểu hiện và là yêu cầu nội tại của kinh tế hàng hoá. - Trên thị trường hàng hoá rất phong phú, người ta tự do mua bán hàng hoá. Trong đó, người mua chọn người bán, người bán tìm người mua, họ gặp nhau ở giá cả thị trường, đặc trưng này phản ánh tính ưu việt hơn hẳn của kinh tế thị trường so với kinh tế tự nhiên. - Giá cả được hình thành ngay trên thị trường, giá cả thị trường vừa là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường, vừa chịu sự tác động của quan hệ cạnh tranh và quan hệ cung cầu hàng hoá dịch vụ. - Cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thị trường, nó tồn tại trên cơ sở những đơn vị sản xuất hàng hoá độc lập và khác nhau về lợi ích kinh tế. - Kinh tế thị trường là một hệ thống kinh tế mở, một mặt nó phát huy được lợi thế so sánh của nền kinh tế, mặt khác tạo điều kiện tiếp thu những thành tựu mới của khoa học kĩ thuật-công nghệ thế giới. Nó rất đa dạng, phức tạp và được điều hành bởi hệ thống tiền tệ và hệ thống luật pháp của Nhà nước. Ngoài ra thị trong cơ chế quản lí kinh tế mới của nước ta còn có những đặc trưng riêng sau: - Hai mặt kinh tế và thị trường nước ta được chủ động kết hợp với nhau ngay từ đầu trên cả tầm quản lí kinh tế vĩ mô và vi mô thông qua pháp luật. Nếu ở tầm vi mô, các chủ doanh nghiệp lấy lợi nhuận làm mục tiêu xác định hiệu quả của sản xuất kinh doanh thì ở tầm vĩ mô, Nhà nước dùng hiệu quả kinh tế xã hội làm mục tiêu quản lí nhằm thực hiện tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Vấn đề dân chủ và công bằng xã hội ở đây được hiểu theo nghiã những đơn vị và cá nhân trong xã hội được làm những gì mà pháp luật không cấm, được tự do sản xuất và kinh doanh, được hưởng những thành quả lao động của mình và được thừa kế tài sản theo luật định. - Cùng với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, môi trường sinh thái của đất nước được chủ động bảo vệ qua các dự án đầu tư môi sinh và qua việc chấp hành một cách đúng đắn luật pháp, chính sách môi trường của Nhà nước qua từng thời kì. - Nền kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nứơc theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường có trình độ phát triển cao. Nếu như nền kinh tế trì trệ, kém phát triển, tổng sản phẩm và thu nhập quốc dân thấp kém dẫn tới mức thu nhập bình quân của dân cư còn thấp, không có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế thì không thể gọi là định hướng xã hội chủ nghĩa được, đành rằng chỉ có nội dung này thì chưa đủ bởi vì nhiều nước đã có nền kinh tế phát triển cao nhưng đó lại không phải là nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa. - Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lí nền kinh tế thị trường dựa trên mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Trong thời kì đầu chuyển sang kinh tế thị trường Nhà nứơc ta thực hiện vai trò "bà đỡ " tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế thị trường phát triển đúng hướng, vai trò đó được thể hiện bằng hệ thống pháp luật, bảo vệ quyền tự do dân chủ, công bằng xã hội và mở rộng phúc lợi xã hội cho nhân dân. - Nền kinh tế đang ở trong quá trình chuyển biến từ một nền kinh tế mang nặng tính tự cấp tự túc sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, do đó về cơ bản nền kinh tế còn thiếu đồng bộ, mang nhiều yếu tố tự phát rối loạn, vẫn mang tính chất sản xuất nhỏ, kỹ thuật thủ công, năng suất lao động thấp, mức sống, mức thu nhập của dân cư còn thấp. Đội ngũ những nhà sản xuất kinh doanh còn rất non trẻ, tình trạng quan liêu, thiếu hiểu biết, thậm chí trì trệ bảo thủ trước bước ngoặt chuyển đổi kinh tế. Dấu ấn của cơ chế kinh tế bao cấp còn ảnh hưởng xấu tới các hoạt động kinh tế. Do vậy chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là lấy tự do hoá thương mại và tự do hoá giá cả là khâu trung tâm đột phá, từng bước tiến tới cơ chế thị trường đích thực. - Đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần( kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước và mới đây nhất tại Đại hội IX của Đảng ta đã xác định thêm một thành phần kinh tế nữa là kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài) Để có thể định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế Nhà nước phải phát huy được vai trò chủ đạo, nó cùng với kinh tế hợp tác là nền tảng của nền kinh tế. Ngoài ra Nhà nước đầu tư phát triển các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế khác nhằm tạo nhiều công ăn việc làm cho dân cư và góp phần tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Các thành phần kinh tế được phát triển một cách bình đẳng với nhau. - Cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nứơc trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề hoàn toàn mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử và hoàn toàn chưa có một mô hình vạch sẵn. Do vậy, không thể ngay từ đầu hình dung toàn bộ các chi tiết của mô hình thị trường cũng như không thể vạch ngay được một lịch trình cứng nhắc của bước chuyển mà phải vừa thực hiện cơ chế thị trường. Việc chuyển từng bước sang cơ chế thị trường cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và các điều kiện chính trị kinh tế xã hội nước ta, không áp dụng các liệu pháp sốc vừa là đặc điểm, vừa là quan điểm quan trọng của quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế. Mặt khác chúng ta không phủ định sạch trơn những kết quả đạt được của mô hình kinh tế cũ. - Chúng ta chủ trương chuyển sang cơ chế thị trường trên cơ sở ổn định chính trị, lấy ổn định chính trị làm tiền đề và điều kiện cho cải cách kinh tế. Mặt khác cũng nhận thức rõ phải đổi mới mạnh mẽ trong lĩnh vực hành chính, trên cơ sở đổi mới quản lí của Nhà nước, nâng cao chất lượng, hiệu quả của quản lí của nó cho phù hợp với điều kiện kinh tế. Ngay từ đầu chúng ta đã khẳng định định hướng xã hội chủ nghĩa là không thay đổi, tuy nhiên đã có những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội, khẳng định chủ nghĩa xã hội có thể sử dụng những công cụ phổ biến mà chủ nghĩa tư bản đã từng sử dụng như thị trường, các quan hệ hàng hoá- tiền tệ, quy luật giá trị cho mục tiêu của mình. Đảng ta cũng khẳng định nền kinh tế hoạt động theo đường hướng đổi mới, tiến tới một Nhà nước pháp quyền là một nhân tố quan trọng bảo đảm thành công của cải cách, khẳng định vai trò Nhà nước trong việc đảm bảo các chính sách xã hội, xử lí hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và cân bằng, ổn định, giữa phát triển kinh tế và thực hiện các chính sách xã hội và công bằng xã hội. Điều đó nói lên tầm quan trọng đặc biệt của Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong hoạt động của thị trường nước ta. 2.Vai trò kinh tế của Nhà nước trong cơ chế quản lí mới - ở nước ta xuất phát từ tính đa dạng của sở hữu và của nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần hơn nữa xu hướng vận động và phát triển của nó không tự phát đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa mà lại đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các thành phần kinh tế không phân biệt đối xử nhưng không phải vì thế mà vai trò của chúng giống nhau. Để đưa nền kinh tế vận động theo đúng cơ chế quản lí mới thì kinh tế Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, ngoài yêu cầu của việc đảm bảo nền kinh tế đi đúng hướng đã định mà còn do thành phần kinh tế này gắn với hình thức sở hữu cao nhất và chín muồi nhất trong các hình thức sở hữu. Hơn nữa nó còn dựa trên một trình độ lực lượng sản xuất phát triển cao, trình độ quản lí và trình độ phân phối sản phẩm gần với mục tiêu chủ nghĩa xã hội của thời kì quá độ. Điều này được thể hiện thông qua việc các doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ những nghành, lĩnh vực chủ yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, hệ thống tài chính, ngân sách, bảo hiểm, những cơ sở thương mại, dịch vụ... quan trọng. - Kinh tế Nhà nước đã và đang trở thành đòn bẩy, đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội, mở đường, hướng dẫn các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lĩ vĩ mô nền kinh tế. -Nhà nước đóng vai trò"bà đỡ" cho sự ra đời của cơ chế thị trường, hướng dẫn các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế kinh doanh có hiệu quả, xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trong phân phối sử dụng sản phẩm. - Nhà nước phát triển thị trường nước ngoài, đẩy mạnh hoạt động ngoại thương. - Nhà nước đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định, tránh thăng trầm và đột biến xấu. - Nhà nước đảm bảo hiệu quả kinh tế- xã hội. Mỗi doanh nghiệp trong khi theo đuổi lợi ích tối đa của minh có thể làm tổn hại đến lợi ích của xã hội, vì vậy Nhà nước phải giải quyết những vấn đề đó. - Nhà nước đảm bảo thực hiện những mục tiêu xã hội. Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến những hậu quả tiêu cực về mặt xã hội, chẳng hạn như nghèo đói, thất nghiệp...thông qua chính sách phân phối thu nhập quốc dân Nhà nước giải quyết những vấn đề đó. - Nhà nước sử dụng quyền lực kinh tế chính trị của mình để tiếp tục quá trình tự do hoá giá cả, thương mại hoá nền kinh tế (như tạo ra các đạo luật chống độc quyền, tạo điều kiện cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, tạo ra các điều kiện, các tiền đề kinh tế pháp lí cho sự hoạt động của các thị trường cần thiết như thị trường vốn, lao động, chứng khoán...) - Nhà nước là người đảm nhận vai trò thiết lập và duy trì quyền sở hữu các nguồn lực kinh tế theo hướng xác định rõ chủ sở hữu đích thực của công dân, của doanh nghiệp tư nhân, tập thể, Nhà nước (giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân, cho thuê hoặc đấu thầu các tài sản sản xuất, cho nước ngoài thuê đất và các tài sản phục vụ sản xuất kinh doanh). 2.1) Mục tiêu và các chức năng quản lí vĩ mô của Nhà nước a)Mục tiêu - Thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hay còn sơ khai như: thị trường lao động, chứng khoán, bất động sản, khoa học công nghệ. Phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ, phát huy vai trò nòng cốt, định hướng và điều tiết của kinh tế Nhà nước trên thị trường. Mở rộng thêm thị trường ở nước ngoài. Xoá bỏ độc quyền kinh doanh của các doanh nghiệp. Mở rộng thị trường lao động trong nước có sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước, bảo vệ lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động, đẩy mạnh xuất khẩu lao động có tổ chức và có hiệu quả. Khẩn trương tổ chức thị

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50153.doc
Tài liệu liên quan