Đề tài Ảnh hưởng của lạm phát đến thị trường chứng khoán và các giải pháp khắc phục

MỤC LỤC

TÓM TẮT ĐỀ TÀI 1

Chương 1 – Các vấn đề lý luận chung 1

PHẦN 1 – GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI 2

1. Đặt vấn đề 2

2. Mục tiêu, phương pháp nghiên cứu 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2

PHẦN 2 – NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 3

Chương 1 – Các vấn đề lý luận chung 3

1.1.1 Khái niệm chứng khoán 3

1.1.2 Đặc điểm và vai trò của chứng khoán 3

1.1.3 Phân loại chứng khoán 3

1.2 Giới thiệu chung về Thị trường chứng khoán 3

1.2.1 Khái niệm và bản chất của Thị trường chứng khoán 3

1.2.2 Đặc điểm và vai trò của Thị trường chứng khoán 4

1.2.3 Phân loại Thị trường chứng khoán 4

1.3 Lạm phát và các nguyên nhân gây ra lạm phát 6

1.3.1 Khái niệm và bản chất của lạm phát 6

1.3.2 Phân loại lạm phát 6

1.3.3 Nguyên nhân gây ra lạm phát 6

1.4 Các nhân tố của lạm phát ảnh hưởng tới Thị trường chứng khoán 7

1.4.1 Nhân tố giá cả 7

1.4.2. Nhân tố lãi suất 8

1.4.3 Các chính sách của nhà nước trong việc kiềm chế lạm phát 8

1.5 Các nhóm chỉ số dùng để đánh giá hiệu quả của chứng khoán 10

1.5.1 Chỉ số thanh khoản 10

1.5.2 Chỉ số về khả năng tái tạo vốn 11

1.5.3 Chỉ số bảo chứng 12

1.5.4 Chỉ số về khả năng lợi nhuận và sử dụng tài sản 12

1.5.5 Đánh giá thu nhập 13

Chương 2 – Tình hình thực tế của Thị trường chứng khoán và các cổ phiếu cụ thể trước và sau lạm phát 14

2.1 Tình hình Thị trường chứng khoán Việt Nam 14

2.1.1 Chỉ số chứng khoán trước lạm phát 14

2.1.2 Chỉ số chứng khoán trong giai đoạn lạm phát 16

2.2 Tình hình của một số cổ phiếu tiêu biểu được đề tài chọn trước và sau lạm phát 19

2.2.1 Công ty cổ phần cơ điện lạnh Reetech (REE) 19

2.2.2 Công ty cổ phần khoáng sản Bình Định (BMC) 24

2.2.3 Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín Sacombank (STB) 28

2.2.4 Công ty cổ phần phát triển đầu tư công nghệ FPT 32

2.2.5 Công ty cổ phần sữa Việt Nam (VNM) 35

2.3 Nhận định về ảnh hưởng của lạm phát đối với các loại chứng khoán này 38

Chương 3 – Các giải pháp can thiệp vào Thị trường chứng khoán trong giai đoạn kiềm chế lạm phát 39

3.1 Định hướng phát triển Thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian tới 39

3.2 Hoạt động của Thị trường chứng khoán TP.HCM 39

3.3 Giải pháp phát triển Thị trường chứng khoán với vai trò quản lý của Nhà Nước: 41

3.4 Giải pháp cho các doanh nghiệp phát hành chứng khoán trong giai đoạn lạm phát: 42

3.5 Giải pháp cho các nhà đầu tư 43

PHẦN 3 – KẾT LUẬN 46

PHẦN 4 – TÀI LIỆU THAM KHẢO 47

 

 

doc70 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4029 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của lạm phát đến thị trường chứng khoán và các giải pháp khắc phục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iaù trò coå phieáu öu ñaõi treân thò tröôøng 1.5.4 Chỉ số về khả năng lợi nhuận và sử dụng tài sản Vieäc tính toaùn khaû naêng lôïi nhuaän chæ ra soá lôïi nhuaän maø coâng ty ñaït ñöôïc cho moãi ñoàng doanh thu (doanh soá). Caùc nhaø phaân tích thöôøng nhìn vaøo caû lôïi nhuaän goäp vaø lôïi nhuaän roøng (lôïi nhuaän sau thueá) ñeå ñaùnh giaù khaû naêng taïo lôïi nhuaän a) Heä soá lôïi nhuaän goäp b) Heä soá lôïi nhuaän roøng d) Tyû leä hoaøn voán coå phieáu thöôøng Tyû leä hoaøn voán coå phieáu thöôøng laø moät trong caùc chæ tieâu ño löôøng quan troïng khaû naêng taïo lôïi nhuaän cuûa coâng ty naêm naøy so vôùi naêm khaùc e) Giaù soå saùch cuûa coå phieáu thöôøng 1.5.5 Đánh giá thu nhập a) Thu nhaäp cuûa moãi coå phieáu thöôøng (EPS) b) Coå töùc cho moät coå phieáu thöôøng (DPS) c) Chæ soá giaù caû treân thu nhaäp (P/E) Heä soá P/E cao chæ ra raèng nhaø ñaàu tö ñang traû giaù cao cho thu nhaäp ngaøy hoâm nay. Hoï laøm nhö vaäy hy voïng thu nhaäp töông lai seõ cao hôn. Caùc coå phieáu coù heä soá P/E cao coù khuynh höôùng traû coå töùc thaáp d) Heä soá chi traû coå töùc Heä soá naøy laø tyû leä phaàn traêm lôïi nhuaän roøng traû cho coå ñoâng thöôøng döôùi daïng coå töùc e) Lôiï töùc hieän thôøi (heä soá laõi coå phaàn treân thôøi giaù) Lôïi töùc hieän thôøi cho coå phieáu thöôøng theå hieän tyû leä hoaøn voán coå töùc döïa treân giaù trò thò tröôøng hieän thôøi cuûa coå phieáu. Chương 2 – Tình hình thực tế của Thị trường chứng khoán và các cổ phiếu cụ thể trước và sau lạm phát 2.1 Tình hình Thị trường chứng khoán Việt Nam 2.1.1 Chỉ số chứng khoán trước lạm phát Sau khi ra nhập WTO, Thị trường chứng khoán Việt Nam đã có những bước chuyển biến đáng kể. Thị trường chứng khoán VN bắt đầu có những sự khởi sắc nhất định. Chúng ta có thể thấy rõ điều này thông qua số lượng các quỹ đầu tư nước ngoài đăng ký tham gia hoạt động tại thị trường tài chính VN tăng nhanh. Mức cầu chứng khoán gia tăng đã giúp chỉ số VN Index liên tục tăng trong 4-5 tháng đầu năm 2006, và đạt mức kỷ lục là 632,69 điểm (ngày 25/4/2006). Sau giai đoạn đó, Thị trường chứng khoán tiếp tục khởi sắc với những phiên tăng điểm kéo dài và ổn định. Trong giai đoạn đó, những cơn sốt cổ phiếu đang diễn ra. Giới đầu tư bắt đầu săn lùng những cổ phiếu lần đầu IPO. Điều này đã đẩy giá chứng khoán tăng mạnh. Những công ty lớn lần đầu niêm yết được giới đầu tư quan tâm như ACB, FPT … liên tiếp tạo lập kỷ lục về giá niêm yết. Tiếp nối thành công của năm 2006, thị trường chứng khoán Việt Nam tiếp tục có những bước chuyển mình trong năm 2007. Với những phát triển vượt bậc về quy mô, chất lượng, thị trường chứng khoán đã và đang chứng minh vị thế và tầm ảnh hướng đáng phải có của nó với đời sống kinh tế đất nước. Nền kinh tế bước vào năm 2007 tràn đầy tín hiệu lạc quan. Việc tổ chức thành công hội nghị cấp cao APEC, gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao liên tục trong nhiều năm tạo cơ sở cho niềm tin về tương lai phát triển của kinh tế đất nước. Niềm tin được thể hiện mạnh mẽ trên thị trường chứng khoán. Giới đầu tư nước ngoài liên tục huy động vốn và chuyển tiền vào Việt Nam chuẩn bị cho những kế hoạch giải ngân dài hơi với quy mô lớn. Nhà đầu tư và các công ty trong nước cũng tập trung nhiều hơn vào lĩnh vực tài chính chứng khoán – chính xác, tài chính và chứng khoán trở thành một dạng “mốt”. Thị trường chứng khoán chính thức có một bước nhảy vọt cả về số lượng các công ty niêm yết, chất lượng hàng hóa và quy mô giao dịch. Làn sóng các công ty niêm yết cuối năm 2006 nhằm hưởng ưu đãi thuế đã không gây ra khủng hoảng như một số chuyên gia dự báo, mà trái lại, đã trở thành một lực đẩy tích cực. Với sự góp mặt của FPT, PVD, PPC, SSI, DPM, HPG…, số lượng các cổ phiếu lớn có ảnh hưởng liên thông gần với VN-Index tăng lên. Thị trường không còn chịu tác động chỉ từ một hai mã cổ phiếu nên có độ cân bằng cao hơn. Tính thanh khoản lên cao chưa từng thấy, đưa thị trường vào giai đoạn phát triển bùng nổ. Số lượng tài khoản nhà đầu tư cũng như giá trị giao dịch tăng từng phiên. Nếu như đầu năm 2006, giá trị giao dịch mỗi phiên chỉ vài chục tỉ đồng thì năm 2007 con số này đạt khoảng 1.000 tỉ đồng. Thị trường chứng khoán chính thức trở thành kênh thu hút vốn cho doanh nghiệp, kênh đầu tư sinh lời của người dân – nơi đâu đó giấc mơ đổi đời đã trở thành sự thật. Khởi đầu năm 2007 với con số 751,77 điểm, chỉ sau hơn 3 tháng VN-Index đã vọt lên đỉnh 1170,67 điểm ngày 12/3. Đây chính là giai đoạn thăng hoa nhất trong lịch sử 8 năm vận hành của Thị trường chứng khoán. Trái “bong bong chứng khoán” trở thành chiếc túi không đáy hút liên tục các nguồn tiền khác nhau. Chặng đường tới đỉnh bắt đầu với đợt tăng giá của các công ty lớn (bluechip) có kết quả kinh doanh tốt. Thị trường được đẩy lên khỏi mức 1.000 điểm. Lợi nhuận đem lại từ đầu tư chứng khoán đi vào câu chuyện thường ngày của mọi nhà, đặc biệt là trong dịp Tết Nguyên Đán, kéo một lượng nhà đầu tư mới ra nhập thị trường. Các cổ phiếu tiếp tục tăng giá sau Tết. Nổi bật ở giai đoạn này là các cổ phiếu mang tính đầu cơ cao như các cổ phiếu các công ty nhỏ sàn HOSE (TP.HCM) và cổ phiếu các công ty thuộc tổng công ty Sông Đà, các công ty in sách giao khoa trên sàn HASTC (Hà Nội). Giá nhiều cổ phiếu tăng không ngừng khiến các chỉ số phân tích cơ bản bị bỏ lại đằng sau đủ để nhiều nhà đầu tư cảm thấy chúng quá đắt. Khi mọi người đều nghĩ “quá cao” thì giảm giá là điều tất yếu. Thị trường giảm liên tục từ giữa tháng 3. Cổ phiếu mất giá khiến không ít nhà đầu tư mà đa phần là những người mới gia nhập thị trường thua lỗ nặng. Đây là bài học đầu tiên trong năm nhưng cũng rất cần thiết với nhà đầu tư. Chỉ có mất mát từ thị trường mới có thể tác động được vào những quan niệm như: Thị trường chứng khoán là cỗ máy in tiền, cứ mua là lãi, đầu tư là công việc nhàn hạ, dễ dàng, thậm chí nhiều người còn coi Thị trường chứng khoán như sòng bạc. Từ mức đỉnh 1170,67 điểm thị trường rơi xuống mức đáy 905,53 ngày 24/4. Khi mà nhiều người, thậm chí là các chuyên gia đã nghĩ đến sự sụp đổ, bong bong vỡ hay hiệu ứng domino thì thị trường chứng minh điều ngược lại. Thị trường và những người tham gia vào nó đã trưởng thành. Đợt giảm giá chỉ là điều chỉnh mà không có đổ vỡ. Khi giá nhiều mã cổ phiếu giảm khoảng 30% cũng là cơ hội đầu tư quay trở lại. Được tiếp thêm sức mạnh sau kì nghỉ lễ 30/4 và 1/5, thị trường bắt đầu tăng giá trong tháng năm. Thị trường giai đoạn này tăng trở lại khá nhanh nhưng không lập lại được mức đỉnh cũ, chỉ đạt 1113,19 điểm ngày 23/5.  Bị ảnh hưởng bởi đợt đấu giá Bảo Việt, thị trường lại một lần nữa đi xuống. Tuy nhiên, trong xu thế giảm giá kéo dài của toàn thị trường lại xuất hiện những con cá hồi bơi ngược dòng. Tiêu điểm thời gian này là giao dịch của cá cổ phiếu “hiếm” như BMC, TCT, SGH,LBM. Các cổ phiếu này có đặc điểm chung là số lượng cổ phiếu lưu hành trên thị trường ít, phần nào được kiểm soát. Khi có các thông tin tốt về kết quả sản xuất hay những lợi thế về tài nguyên, đất đai, giá lập tức được đẩy lên. Số lượng đặt mua có thể đạt đến triệu đơn vị, trong khi đó số lượng bán ra chỉ nhỏ giọt từng chút một như một động tác để đẩy giá lên kịch trần. Sau gần 3 tháng đến ngày 23/8 VN Index lại rơi xuống 887,62 điểm.  Thị trường tiếp tục cho thấy sức đẩy ở mức 900 điểm. Như được hồi sức sau ngày nghỉ lễ 2/9, VN-Index quay lại con đường chinh phục đỉnh cao. Tuy nhiên, dẫn đạo xu hướng không còn là bluechip mà là các cổ phiếu nhỏ, các cổ phiếu sàn hà Nội và các cổ phiếu mới niêm yết. VN Index quay trở lại 1106,6 điểm ngày 3/10. Việc giá cổ phiếu các công ty mới niêm yết tăng mạnh như động lực đưa các công ty đã có dự định niêm yết nhanh chóng lên sàn. Nhưng khi thời gian niêm yết đã được ấn định thì cũng là lúc thị trường bắt đầu trở nên khó khăn. Cùng với SSI chuyển từ sàn HN sang, khi DPM, HPG niêm yết, thị trường đuối sức dần và bắt đầu tuột dốc. VN-Index lại quay trở về 900 điểm với nỗi lo về nguồn vốn dành cho những đợt phát hành thêm và IPO các công ty quốc doanh cực lớn sắp cổ phần hóa.  2.1.2 Chỉ số chứng khoán trong giai đoạn lạm phát Trái với dự đoán của nhiều nhà đầu tư về tương lai của Thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2008, tình hình lạm phát đã kéo Thị trường chứng khoán Việt Nam trở lại với những con số thực của nó. Liên tục những phiên giảm giá của thị trường trong những tháng đầu năm 2008. Hy vọng tái lập mốc 1000 lung lay, và VN index nhanh chóng xuống khỏi những mức mà nhiều nhà đầu tư cho rằng đã chạm đáy. Ngay sau khi có tin tức về chỉ thị 03, nhiều nhà đầu tư bắt đầu bán tháo cổ phiếu khiến cho thị trường liên tiếp đi vào những phiên mất điểm. hạn chế cho vay đầu tư chứng khoán khiến cho nhiều nhà đầu tư e ngại về tính thanh khoản của thị trường. Ngay sau đó là những chính sách vĩ mô của nhà nước liên tục đẩy thị trường vào tình thế “hiểm nghèo”. Những dự báo về khả năng đột biến của lạm phát thời gian tới là một áp lực chính trong những phiên giao dịch vào tháng 5/2008. Xu hướng giao dịch trên sàn không có nhiều khác biệt so với phiên liền trước. Đà giảm đã có trong dự tính của nhiều nhà đầu tư. Điểm mà họ quan tâm là những dự báo về lạm phát vừa xuất hiện trên thị trường. Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) công bố những dự báo về kinh tế Việt Nam năm 2008, trong đó đề cập đến khả năng xấu nhất lạm phát có thể lên tới 22,3%, và lạc quan nhất cũng ở mức 16,7%. Tỷ lệ trên thực sự gây “sốc” đối với những hy vọng về đà giảm của lạm phát trong thời gian tới, nhất là khi đã có dấu hiệu giảm tốc trong hai tháng vừa qua. Với nhà đầu tư chứng khoán, có thể hiểu dự báo trên đi cùng với môi trường đầu tư có khả năng sẽ xấu thêm, mà lạm phát vốn được xem là một nguyên nhân chính gây sụt giảm của thị trường từ đầu năm đến nay. Trong khi đó, có dự báo của một tổ chức uy tín nước ngoài lại chưa được phổ biến rộng rãi. Đó là dự báo khá lạc quan của bộ phận nghiên cứu Ngân hàng Stanard Chartered. Ngân hàng toàn cầu này đưa ra dự báo lạm phát của Việt Nam có thể lên tới 20% trong quý 2/2008, nhưng ngay sau đó sẽ giảm nhanh và kết thúc năm ở dự báo 14%. Xa hơn, Stanard Chartered lạc quan khi dự tính tỷ lệ trên chỉ còn 7,5% trong quý 1 và quý 2/2009 (thấp hơn nhiều so với năm nay). Nhìn lại hai dự báo trên, có một điểm chung là lạm phát vẫn diễn biến phức tạp và có thể tăng mạnh trong quý 2 tới. Đây là một bất lợi đối với khả năng phục hồi của thị trường chứng khoán. Còn trên thực tế, thị trường này vừa khép lại một tuần giảm mạnh cả về điểm số, giá chứng khoán và khối lượng giao dịch. Tại sàn Tp.HCM, chỉ còn 3,5 triệu đơn vị, bằng phân nửa khối lượng những phiên gần đây và có giá trị 148 tỷ đồng. Chỉ số VN-Index qua phiên này chính thức về mốc 500 điểm, giảm 7,61 điểm, còn 500,33 điểm. HASTC-Index chỉ còn 154,23 điểm, giảm 3,19 điểm.  Đúng như dự đoán. Thị trường chứng khoán đã xuống mức “đáy” 366 điểm vào ngày 20/6. nếu xét diễn biến thị trường thời gian qua theo các con số thống kê thì VN - Index đang có xu hướng tăng, tuy có xen kẽ với những phiên giảm. Cụ thể, tính từ 20/6 đến nay, chu kỳ diễn biến của VN - Index đã qua các đoạn như sau: Đoạn một, tăng từ 366 lên 489 điểm, từ ngày 20/6 đến ngày 17/7, tăng 123 điểm trong 19 phiên, bình quân 1 phiên tăng 6,47 điểm. Đoạn hai, giảm từ 489 điểm xuống 429 điểm từ ngày 17/7 đến ngày 25/7, giảm 60 điểm trong 6 phiên, bình quân 1 phiên giảm 10 điểm. Đoạn ba, tăng từ 429 điểm lên 451 điểm từ ngày 25/7 đến ngày 31/7, tăng 22 điểm trong 4 phiên, bình quân 1 phiên tăng 5,5 điểm. Đoạn 4, giảm từ 451 điểm xuống 430 điểm từ ngày 31/7 đến ngày 5/8, giảm 21 điểm trong 3 phiên, bình quân 1 phiên giảm 7 điểm. Đoạn 5, tăng từ 430 điểm lên 562 điểm từ ngày 5/8 đến ngày 27/8, tăng 132 điểm trong 16 phiên, bình quân 1 phiên tăng 8,25 điểm. Đoạn 6, giảm từ 562 điểm xuống 539 điểm từ ngày 27/8 đến ngày 29/8, giảm 23 điểm trong 2 phiên, bình quân 1 phiên giảm 11,5 điểm. Đoạn 7, tăng từ 539,1 điểm lên 555 điểm trong 1 phiên ngày 3/9, tăng 16,04 điểm. Tính từ 20/6 đến ngày 3/9, có 51 phiên, bình quân một đoạn có trên 7 phiên. Có 4 đoạn tăng với 40 phiên, bình quân mỗi đoạn tăng có 10 phiên; điểm tăng của 4 đoạn này là 293 điểm, bình quân một phiên tăng trên 7,3 điểm. Có 3 đoạn giảm với 11 phiên, bình quân mỗi đoạn giảm có gần 4 phiên; điểm giảm của 3 đoạn này là 104 điểm, bình quân một phiên giảm gần 9,5 điểm. Đáy của đoạn giảm sau đều cao hơn đáy của đoạn giảm trước; đỉnh của đoạn tăng sau nhìn chung cao hơn đỉnh của đoạn tăng trước. Như vậy, tăng điểm đã nhiều hơn giảm điểm cả về số đoạn (4/3), số phiên (40/11), tổng số điểm (293/104); nhờ vậy mà tính chung 51 phiên qua, VN - Index vẫn tăng 189 điểm; nhưng số điểm bình quân một phiên, thì phiên tăng ít hơn phiên giảm (7,3/9,5). Biểu đồ 2.1.1 – Chỉ số VnIndex từ tháng 3 đến tháng 9/2008 Tình hình khó khăn cộng với khủng hoảng tài chính thế giới khiến cho CK việt nam chưa tăng đã giảm trở lại. Hy vọng chung của nhiều nhà đầu tư là tình hình ổn định của kinh tế trong nước cùng với sự phát huy của những chính sách chống lạm phát sẽ giúp cho Thị trường chứng khoán tươi sáng hơn. 2.2 Tình hình của một số cổ phiếu tiêu biểu được đề tài chọn trước và sau lạm phát 2.2.1 Công ty cổ phần cơ điện lạnh Reetech (REE) a) Giới thiệu công ty: Công ty cổ phần Cơ Điện Lạnh được thành lập từ năm 1977, tên gọi ban đầu là Xí Nghiệp quốc doanh cơ điện lạnh thuộc sở hữu Nhà nước. Với sự năng động của ban lãnh đạo Công ty và tập thể cán bộ công nhân viên, Công ty luôn được đánh giá là người đi tiên phong trong việc thực hiện các chính sách đổi mới của Nhà nước. Là doanh nghiệp đầu tiên tiến hành cổ phần hóa vào năm 1993, Công ty cũng là một trong hai doanh nghiệp đầu tiên niêm yết cổ phiếu tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 7 năm 2000. Tại thời điểm niêm yết, vốn điều lệ của Công ty là 150 tỷ đồng. Vốn điều lệ hiện tại là 287.142.140.000 đồng. Ngành nghề kinh doanh: - Sản xuất, lắp ráp, thiết kế, lắp đặt, sửa chữa và các dịch vụ về ngành điện, điện tử, cơ khí và điện lạnh. - Kinh doanh thương mại, xuất nhập khẩu các loại hàng tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, các thiết bị lẻ, thiết bị hoàn chỉnh của ngành cơ điện lạnh. - Mua bán và dịch vụ bảo trì máy móc cơ giới nông nghiệp gồm: xe máy thiết bị làm đường, thiết bị đào, san lấp, thiết bị xây dựng, thiết bị công nông lâm nghiệp, máy phát điện và động cơ điện. - Đại lý ký gởi hàng hóa. - Xây dựng dân dụng và công nghiệp - Kinh doanh nhà ở (xây dựng, sửa chữa nhà để bán hoặc cho thuê). - Phát triển và khai thác bất động sản. - Hoạt động đầu tư tài chính vào các ngân hàng, công ty cổ phần. - Dịch vụ cơ điện cho các công trình công nghiệp, thương mại và dân dụng. Sản xuất máy điều hoà không khí Reetech, sản phẩm gia dụng, tủ điện và các sản phẩm cơ khí công nghiệp. REE là một trong hai cổ phiếu đầu tiên của Việt Nam được niêm yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện tại số lượng cổ phiếu đang lưu hành là 80,415,924, trong đó số nhà đầu tư nước ngoài đang sở hữu là 26,771,313 (33.29%). Là một cổ phiếu đầu tiên được niêm yết trên thị trường nên cổ phiếu của REE có những lợi thế nhất định so với các loại cổ phiếu cùng ngành ngề hoạt động. b) Tình hình giá cổ phiếu của REE trước khi lạm phát: Là công ty chuyên sản xuất và tiêu tụ các sản phẩm về thiết bị điện nên nhìn chung tình hình và khả năng tăng trưởng của công ty khá ổn định và vững chắc. Trong năm 2006 và đầu năm 2007 là khoảng thời gian mà giá cổ phiếu của REE lên tới mức đỉnh điểm và có mức ổn định nhất. Khoảng thời gian từ 30-01-2007 đến 30-03-2007 chứng kiến sự ổn định và một mức giá lý tưởng của công ty, qua đó cho thấy được sự ổn định và sự kỳ vọng của nhà đầu tư đối với công ty. Khoảng thời gian này giá cổ phiếu dao động quang mức 250.000đồng/ cổ phiếu, và giá cao nhất là 285.000đồng vào ngày 05-03-2007. Trong thời gian này, khối lượng giao dịch cũng tỷ lệ với giá cổ phiếu. Ngày 31-01-2007 chứng kiến khối lượng giao dịch lớn nhât trong thời gian với gẩn 900.000 cổ phiếu, trung bình khối lượng giao dịch trong thời gian này là 450.000 cổ phiếu. Chúng ta có thể khảo sát qua biểu đồ sau: Biểu đồ 2.1.1 – Cổ phiếu REE từ 31/1 đến 30/3/2007 Có thể khi đạt tới giá trị cực đại thì việc đảo chiều là chuyện khó có thể tránh khỏi và điều đó là không ngoại lệ đối với REE. Khi đạt tới max là 285.000đồng/ cổ phiếu thì ngày 09-05-2007 đảo chiều nhanh chóng khi giá của ngày trước là 243.000đồng xuống 170.000đồng. Và bắt đầu từ ngày này giá của REE cứ tiếp tục giảm tuy không nhiều như lần đảo chiều đó và xoay quanh mức 140.000đồng. Trong thời gian này khối lượng giap dịch cũng giảm hẳn và đáng kể, vào ngày 09-05-2007 khối lượng giao dịch đạt gần 700.000 cổ phiếu. Chúng ta có thể tham khảo sự kiện này qua biểu đồ sau: Biểu đồ 2.1.2 – Cổ phiếu REE từ 2/4 đến 30/7/2007 c) Tình hình giá cổ phiếu của REE trong giai đoạn lạm phát: Trong giai đầu tiên của lạm phát REE và cũng như các mã chứng khoán khác trong suất 4 tháng giá cổ phiếu của REE đều giảm theo từng biên độ nhỏ nhưng do kéo dài nên giá của cổ phiếu lúc này chỉ còn 1/8 so với giá đỉnh. Và giá thấp nhất trong giai đoạn này là 25.000đồng. Trong giai đoạn này giá của REE đã cũng có những phiên giao dịch màu xanh khi Chính phủ có những chính sách cáp bách nhằm cứu vãn thị trường chứng khoán, cụ thể: ngày 25/03/2008 Chính phủ đưa ra các chính sách để hạn chế sự tụt dốc của VN-index xuống xa ngưỡng 500 điểm thì REE có dấu hiệu tăng trong 10 phiên dao dịch liên tiếp. Tuy nhiên sau những cố chính sách không thật đầy đủ và đồng bộ của Chính phủ thì VN-index vẫn tụt xa mốc 500 kéo theo REE tiếp tục đà giảm. Sau tháng 8 Chính phủ công bố chỉ số CPI của tháng so với tháng 8 chỉ dưới 1% thì VN-index bắt đầu tăng và màu xanh đã xuất hiện nhiều hơn trong các giao dịch trong đó có REE. Khi VN-index lên trên 500 điểm thì cũng là lúc giá của REE đạt giá cao nhất trong thời kỳ lạm phát và cũng đạt khối lượng giao dịch lớn nhất trong giai đoạn này. Cụ thể: ngày 06-09-2008 giá đạt 52.500đồng/ cổ phiếu và khối lượng giao dịch gần 190000 cổ phiếu. Biểu đồ cụ thể được biểu diễn dưới đây: Biểu đồ 2.1.3 – Cổ phiếu REE từ 31/1 đến 30/5/2008 Biểu đồ 2.1.4 – Cổ phiếu REE từ 6/5 đến 30/9/2008 Chỉ số giá của REE trước và trong thời kỳ lạm phát được cụ tổng quát bằng biểu đồ sau từ năm 2007 tới hết quý II/2008. Biểu đồ 2.1.5 – Cổ phiếu REE từ năm2007 đến hết quý II năm 2008 Giá và khối lượng mua bán cổ phiếu REE trong 1 năm vừa qua trên HOSE: Biểu đồ 2.1.6 – Cổ phiếu REE từ tháng cuối 10/2007 – 10/2008 2.2.2 Công ty cổ phần khoáng sản Bình Định (BMC) a) Giới thiệu công ty: Ngành nghề mà Công ty cổ phần khoáng sản Bình Định đăng ký hoạt động kinh doanh là ngành khai khoáng. Chuyên ngành khia khoáng chính là khai thác, chế biến và mua bán khoáng sản từ quặng sa khoáng Titan và các loại quặng khoáng sản khác. Các hoạt động hỗ trợ, khai thác khoáng sản( trừ điều tra, thăm dò dầu khí). Kiểm tra, phân tích các loại quặng khoáng sản. Mua bán các loại vật tư, máy móc, thiết bị phục vụ khai thác và chế biến các loại khoáng sản. Công ty cổ phần khoáng sản Bình Định tiền than là Công ty khoáng sản Bình Định được thành lập năm 1985. Công ty chuyển đổi thành Công ty cổ phần khoáng sản Bình Định vào ngày 28/ 01/ 2008 với vốn điều lệ lúc này là 14,114 tỷ đồng. Sản phẩm chính của Công ty là Ilmentie( đóng góp hơn 80% tổng doanh thu của công ty qua các năm), nguyên liệu chính để sản xuất là bột màu Titan dioxit() và kim loại Titan. Hơn 95% sản phẩm của công ty xuất khẩu sang các thị trường Nhật Bản, Malaysia, Trung Quốc. Các khách hàng lớn của công ty là các nhà nhập khẩu quặng của nước ngoài như Kayfour Development Corporation  Sdoanh nghiệp.Bhd, Qinzhou Qinnan District Jia Hua Import Export Td.,Lmt, Mineral Venture Internation Ltd (Mvi). Đến cuối năm 2006, Bộ Công nghiệp cấp 30 giấy phép khai thác quặng Titan và ra 28 quyết định bàn giao vùng mỏ trong cả nước. Công ty cổ phần Khoáng Sản Bình Định là một trong những doanh nghiêp hoạt động trong lĩnh vực khai thác, chế biến và kinh doanh sa khoáng Titan từ rất sớm so với các doanh nghiệp khác trong hiệp hội Titan Việt Nam. Do trữ lượng mỏ có hạn (khoảng 500,000 tấn), năng suất của công ty ngày càng tăng qua các năm nên công ty gặp rủi ro lớn khi khai thác hết mỏ quặng mà vẫn chưa khảo sát được hoặc xin giấy phép khai thác tại mỏ khoáng khác. Do hơn 95% sản lượng của công ty là xuất khẩu sang các nước Nhật Bản, Trung Quốc, Malaysia. Nhà nước đang có chủ trương hạn chế xuất khẩu sản phẩm khô, khoáng sản, công ty có thể gặp rủi ro về chính sách nhà nước ảnh hưởng tới tình hình kinh doanh của công ty. Ngoài ra, do doanh thu xuất khẩu là chủ yếu nên công ty có thể gặp rủi ro về thanh toán, tỷ giá. Ngành khai khoáng sử dụng nhiều lao động chân tay, do vậy rủi ro về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đối với lao động của công ty là khá cao. Ngoài ra, công ty có thể gặp các rủi ro về kinh tế, luật pháp, thiên tai, hỏa hoạn, giá nguyên vật liệu đầu vào đặc biệt là xăng dầu,...Nhà máy sản xuất xỉ Titan công suất 19.000 tấn sản phẩm xỉ Titan và gang/năm tại cụm công nghiệp Cát Nhơn – Phù Cát. Công ty niêm yết cổ phiếu ngày 28/12/2006 tại Trung tâm giao dịch Chứng khoán Hồ Chí Minh theo Quyết định số 112/UBCK-GPNY ngày 12/12/2006 của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Mã chứng khoán là BMC. Vốn điều lệ  của Công ty là  82.618.200.000 đồng. Giá khởi điểm của BMC tại ngày niêm yết là 50.000đồng. b) Tình hình cổ phiếu BMC trước lạm phát: Trong giai đoạn 7 tháng đầu năm 2007 BMC là cổ phiếu có mức tăng trưởng mạnh mẽ nhất trong tất cả các cổ phiếu niêm yết trong thị trường chứng khoán Việt Nam. Trong đó ấn tượng nhất có 50 phiên tăng điểm liên tục và kịch trần. Tất cả các nhà phân tích và các nhà đầu tư rất hồ hởi với sự tăng trưởng này, bên cạnh đó các nhà phân tích đang cố gắng đi tìm nguyên nhân của sự việc trên. Có một sự thật là số lượng cổ phiếu của BMC sẵn sang cho giao dịch rất nhỏ chỉ khoảng 600.000 cổ phiếu và chủ yếu là các cổ đông lớn tham gia giao dịch nên khả năng thao túng có thể xẩy ra. Trong ngày 21/5, giá cổ phiếu này đã lên tới 847.000 đồng/cổ phiếu, tạo một mức giá kỷ lục khó đánh đổ trong lịch sử thị trường chứng khoán Việt Nam. Trong thời gian này cho dù VN-index nóng lạnh thất thường thì BMC vẫn tiếp tục tăng. Nhìn chung trong giai đoạn này BMC là một hiện tượng rực sáng trên thị trường chứng khoán ( kể cả thị trường OTC). Biểu đồ 2.2.1 – Cổ phiếu BMC từ 13/3 đến 10/7/2007 c) Tình hình cổ phiếu BMC trong giai đoạn lạm phát: Chỉ khi kinh tế vĩ mô bị ảnh hưởng thì BMC mới thật sự chịu ảnh hưởng nặng nề khi giá cổ phiếu đỉnh xuống đáy là 48.000đồng/cổ phiếu quay lại với giá niêm yết chào bán là 50.000đồng/cổ phiếu. Từ đầu tháng 3 đến cuối tháng 5 giá của BMC giảm từ ngưỡng 200.000đồng/ cổ phiếu xuống 50.000đồng/cổ phiếu. Khi đạt những kỳ tích ở năm 2007 thì những dự đoán và phân tích của sự thao túng của BMC dần thành hiện thực. Khi lạm phát tăng cao trong quý I,II/2008 đã làm giảm chỉ số chung VN-index khi sát xuông mức 400 điểâm là một báo động cho những cổ phiếu mà quy mô lẫn khối lượng nhỏ, trong khi đó đòi hỏi quy mô lẫn vốn để hạn chế những rủi ro thấp nhất do lạm phát gây ra và gia nhập. Bên cạnh đó, công ty Khoáng sản Bình Định bị nghi ngờ có liên quan đến vụ pha 57ha rừng có chứa Titan và bị Ủy ban Tỉnh rút giấy phép khai thác khu đất trên. Biểu đồ 2.2.2 – Cổ phiếu BMC từ 11/3- 10/7/2008 Giá và khối lượng giao dịch cổ phiếu BMC trên HOSE trong thời gian 3 tháng và 1 năm qua: Biểu đồ 2.2.3 – Cổ phiếu BMC từ cuối tháng 7 đến cuối tháng 10/2008 Biểu đồ 2.2.4 – Cổ phiếu BMC từ cuối tháng 10/2007 – tháng 10/2008 2.2.3 Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín Sacombank (STB) a) Giới thiệu công ty: Chính thức được thành lập và đi vào hoạt động vào ngày 21/12/1991, Sacombank xuất phát điểm là một ngân hàng nhỏ, ra đời trong giai đoạn khó khăn của đất nước với số vốn điều lệ ban đầu 03 tỷ đồng và hoạt động chủ yếu tại vùng ven TP.HCM. Sau gần 17 năm hoạt động, đến nay Sacombank đã trở thành Ngân hàng TMCP hàng đầu Việt Nam với:     - 5.116 tỷ đồng vốn điều lệ;      - Trên 239 chi nhánh và phòng giao dịch tại 45 tỉnh thành trong cả nước và 1 VPĐD tại Trung Quốc;   - 9.700 đại lý thuộc 250 ngân hàng tại 91 quốc gia và vùng lãnh thổ;  - Khoảng 6.000 cán bộ nhân viên trẻ, năng động và sáng tạo;     - Khoảng 60.000 cổ đông đại chúng;     Vào ngày 16/5/2008, Sacombank tạo nên một bước ngoặt mới trong lịch sử hình thành và phát triển Ngân hàng với việc thành lập Tập đoàn tài chính Sacombank. b) Tình hình cố phiếu trước lạm phát: Là ngân hàng đầu tiên IPO chứng khoán và niêm yết trên sàn ngày 12/7/2006, giá cổ phiếu STB là 78.000, ngay sau đó giá cổ phiếu tăng lên hơn 80.000 và tiếp tục ổn định xung quanh mức giá 80.000đ. cũng giống như với thị trường chứng khoán trong năm đó, giá cổ phiếu STB không biến động nhiều, mà chỉ giao động nhẹ, có lúc giảm xuống 62.315 đ, nhưng không đáng kể. Bắt đầu năm 2007 ở mức 72.575,59 đ, những tháng kế tiếp, giá CP STB tiếp tục tăng và duy trì sự ổn định. Đến ngày 24/01/2007 giá của nó là 100.000. đây cũng là thời điểm hưng thị

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCkhoan (15).doc