Đề tài Ảnh hưởng của tỷ giá ngoại tệ đến nền kinh tế

MỤC LỤC

A/ TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 1

1/ Khái niệm tỷ giá hối đoái 1

2/ Tác động của tỷ giá hối đoái đến nền kinh tế và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp : 1

2.1 Tác động của tỷ giá hối đoái đối với cán cân thương mại. 1

2.2 Tác động của tỷ giá hối đoái đối với lạm phát. 2

2.3 Tác động của tỷ giá hối đoái đối với đầu tư quốc tế. 2

B. CƠ CHẾ QUẢN LÝ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 3

1/ Cơ chế cố định tỷ giá( Fix Exchange Rate) 3

- Ưu điểm của chế độ tỷ giá cố định: 3

- Hạn chế của chế độ tỷ giá cố định: 4

2/ Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi tự do. 4

- Ưu điểm của chế độ tỷ giá thả nổi: 5

- Nhược điểm: 5

3/ Chế độ tỷ giá hối thả nổi có quản lý 6

4/ Cơ chế tỷ giá linh hoạt: 6

C. THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM: 7

1/Giai đoạn từ 1989-1992. 7

2/ Giai đoạn từ 92 đến khi nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính 8

Đông Nam Á (tháng 7 năm 1997). 8

3/Giai đoạn từ tháng 7 /1997 đến ngày 26/2/1999 9

4/giai đoạn từ sau cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực đến trước khi Việt Nam gia nhập WTO (1999-2006) 11

5/Thời kỳ từ tháng 11/2006 – nay (Từ khi gia nhập WTO ). 13

 

 

doc21 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3122 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của tỷ giá ngoại tệ đến nền kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1/0.2483 = 3,5700 và tỷ giá này hai nước coa trách nhiệm giữ nó không được biến động quá +/- 1,0%. - Ưu điểm của chế độ tỷ giá cố định: + Thúc đẩy thương mại và đầu tư quốc tế vì nó mang lai một môi trường ổn định, thuận lợi, ít rủi ro cho các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. +Buộc các chính phủ phải hoạch định và thực thi chính sách vĩ mô. +Thúc đẩy các hoạt động hợp tác quốc tế nhằm tránh những xung đột về mục tiêu chính sách và những biến động về tỷ giá. - Hạn chế của chế độ tỷ giá cố định: + Thường chịu sức ép lớn mỗi khi xảy ra các cơn sốt từ bên ngoài hoặc từ thị trường hàng hóa trong nước, bởi khi đó mức chênh lệch thực tế quá lớn về giá trị giữa nội tệ và ngoại tệ sẽ dẫn đến phá vỡ mức cân bằng tỷ giá. + Chế độ tỷ giá cố định làm mất tính chủ động của chính sách tiền tệ, khiến cho NHTW gặp khó khăn trong việc thay đổi lượng tiền cung ứng. + Đặc biệt, nó làm cho các quốc gia dễ rơi vào tình trạng “ nhập khẩu lạm phát” không mong muốn. Tỷ giá cố định cũng được áp dụng ở Việt Nam trong một thời gian khá dài kể cả trong thời kỳ bao cấp ( trước 1986) và cả mấy năm trong thời kỳ đổi mới. Đến năm 1998 mới chuyển sang cơ chế thả nổi có quản lý. 2/ Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi tự do. Cơ sở cơ bản được sử dụng làm căn cứ xác định tỷ giá hối đoái thả nổi là quan hệ cân bằng cung cầu ngoại tệ tr ên thị trường ngoại hối. Nó cũng chính là lý lẽ căn bản của các nhà kinh tế tán thành sự phát triển kinh tế dựa vào cơ chế cạnh tranh tự do. Chế độ tỷ giá này cho phép xác định một tỷ giá danh nghĩa gần với sức mua thực tế của đồng tiền các nước. Nó phản ánh tương đối xác thực những biến đổi kinh tế c ủa mỗi nước và sự thay đổi trong tương quan kinh tế giữa các nước với nhau. Chính sách tỷ giá này cũng là cơ sở để thực hiện mong muốn của những n ước có khả năng theo đuổi chính sách tài chính – tiền tệ độc lập, tách rời khỏi sự ràng buộc một cách chặt chẽ với đồng USD trong chế độ tỷ giá hối đoái Bretton Woods. Nh ưng khi phản ánh được sự thay đổi trong sức mua thực tế của các đồng tiền, có khả năng thích ứng với các biến động lớn của nền kinh tế và tạo khả năng thực thi chính sách tiền tệ chủ động của các chính phủ thì tỷ giá hối đoái thả nổi lại gây ra những biến động tỷ giá hết sức thất thường, làm cho sự lên giá – xuống giá của các đồng tiền không sao dự đoán được (làm tăng tính rủi ro của tỷ giá hối đoái). Điều n ày làm tăng thêm những yếu tố gây mất ổn định của các nền kinh tế, cản trở khả năng kiểm soát quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế của các chính phủ. Trong chế độ tỷ giá thả nổi tự do, chính phủ giữ thái độ thụ động, để cho thị trường quyết định giá trị đồng tiền nước mình. Thực tế, ít có nước nào thả nổi tự do mà trái lại, Chính phủ thường can thiệp bằng những công cụ tài chính – tiền tệ (lãi suất, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở), điều chỉnh dự trữ ngoại tệ, chính sách kinh tế, kể cả các giải pháp hành chính (mua ngoại tệ phải làm đơn xin mua ngoại tệ,chính sách kết hối ngoại tệ...). Vậy trên thực tế, không tồn tại một chế độ tỷ giá ho àn toàn thả nổi mà thường chỉ tồn tại chế độ tỷ giá hỗn hợp giữa “cố định” và “thả nổi”. - Ưu điểm của chế độ tỷ giá thả nổi: + Giúp cán cân thanh toán cân bằng: Giả sử một nước nào đó có cán cân vãng lai thâm hụt khiến nội tệ giảm giá. Điều đó thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu cho đến khi cán cân thanh toán trở nên cân bằng. + Đảm bảo tính độc lập của chính sách tiền tệ. + Góp phần ổn định kinh tế, tránh được những cú sốc bất lợi từ bên ngoài, vì khi giá cả nước ngoài tăng sẽ làm cho tỷ giá tự điều chỉnh theo cơ chế PPP để ngăn ngừa các tác động ngoại lai. - Nhược điểm: + Là nguyên nhân gây nên sự bất ổn do các hoạt động đầu cơ làm méo mó, sai lệch thị trường, có khả năng gây nên lạm phát cao và tăng nợ nước ngoài. + Hạn chế các hoạt động đầu tư và tín dụng do tâm lý lo sợ sự biến động theo hướng bất lợi của tỷ giá. 3/ Chế độ tỷ giá hối thả nổi có quản lý Đây là chế độ tỷ giá hối đoái có sự can thiệp của hai chế độ cố định và thả nổi. ở đó,tỷ giá được xác định và hoạt động theo quy luật thị trường, chính phủ chỉ can thiệp khi có những biến động mạnh vượt quá mức độ cho phép. Có 3 kiểu can thiệp của chính phủ: - Kiểu can thiệp vùng mục tiêu: Chính phủ quy định tỷ giá tối đa, tối thiểu và sẽ can thiệp nếu tỷ giá vượt quá các giới hạn đó. - Kiểu can thiệp tỷ giá chính thức kết hợp với biên độ dao động: Tỷ giá chính thức có vai trò dẫn đường, chính phủ sẽ thay đổi biên độ dao động cho phù hợp với từng thời kỳ. - Kiểu tỷ giá đeo bám: Chính phủ lấy tỷ giá đóng cửa ngày hôm trước làm tỷ giá mở cửa ngày hôm sau và cho phép tỷ giá dao động với biên độ hẹp. Hiện nay, chế độ tỷ giá "bán thả nổi" hay "cố định bò trườn" có nhiều tính ưu việt hơn và được nhiều nước sử dụng, đặc biệt là các nước đang phát triển. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là "thả nổi" hay "bò trườn" ở mức độ bao nhiêu nên gần với thả nổi hay gần với cố định hơn? biên độ dao động là bao nhiêu? Rất khó để đưa ra một câu trả lời chung cho mọi quốc gia mà phải tuỳ thuộc vào điều kiện thực tiễn và mục tiêu của từng quốc gia theo đuổi. Nhìn chung, đối với các nước kinh tế đang phát triển trong đó có Việt Nam, với một hệ thống công cụ tài chính còn nhiều yếu kém, sự phối hợp giữa các chính sách còn thiếu đồng bộ, đồng tiền yếu và dự trữ ngoại tệ còn hạn hẹp thì tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý tỏ ra là một chính sách hợp lý nhất. 4/ Cơ chế tỷ giá linh hoạt: Đây là cơ chế có sự pha trộn giữa cố định, thả nổi và quản lý - nghĩa là tùy từng điều kiện cụ thể mà chủ động điều chỉnh tỷ giá một cách linh hoạt. C. THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM: 1/Giai đoạn từ 1989-1992. Giai đoạn này có thể được coi là cái mốc quan trọng trong phát triển TGHĐ ở nước ta khi quan hệ ngoại thương được bao cấp với các thị trường truyền thống Đông Âu và Liên Xô(cũ) bị gián đoạn , khiến chúng ta phải chuyển sang buôn bán với khu vực thanh toán bằng dola Mỹ. trong giai đoạn này nền kinh tế chịu tác động của chính sách thả nổi tỷ giá. Tỷ giá hối đoái VND/USD biến động mạnh theo xu hướng giá trị đồng dola Mỹ tăng liên tục kèm theo các cơn “sốt”, các đột biến với biên độ rất lớn ( Từ cuối năm 1990 trở đi ). Tình trạng leo thang của giá đồng dola đã kích thích tâm lý nắm giữ đồng dola, nhằm đầu cơ ăn chênh lệch giá. Dẫn đến Ngoại tệ vốn đã khan hiếm lại trở nên khan hiếm hơn. Trong giai đoạn này Ngân hàng không kiểm soát được lưu thông tiền tệ , mọi cố gắng quản lý ngoại tệ của chính phủ ít đem lại hiệu quả. Trong các năm 1991-1992 do ảnh hưởng của sự đổ vỡ các mối quan hệ ngoại thương với LiênXô và Đông Âu , nhập khẩu giảm sút một cách nghiêm trọng (năm 1991 là 357.0 triệu USD đến năm 1992 chỉ còn 91,1 triệu USD). Các doanh nghiệp tiến hành nhập khẩu theo hình thức trả chậm và phải chịu một lãi suất cao do thiếu dola, dola đã thiếu lại càng thiếu dẫn đến các cơn sốt dola theo chu kỳ vào giai đoạn này. Đến đầu năm 1992 Chính phủ đã có một số cải cách trong việc điều chỉnh tỷ giá ( như buộc các doanh nghiệp có dola phải gửi vào ngân hàng, bãi bỏ hình thức quy địng tỷ giá theo nhóm hàng..) làm cho giá dola bắt đầu giảm ( cuối năm 1991 tỷ giá VND/USD có lúc lên tới 14500 đến tháng 3/1992chỉ còn 11550 VND/USD và tiếp tục giảm cho đến cuối năm 1992. 2/ Giai đoạn từ 92 đến khi nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á (tháng 7 năm 1997). Trước những tồn tại của việc”thả nổi” mất kiểm soát tỷ giá, chính phủ đã thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá với những nội dung cụ thể sau: - Quy định biên độ dao động của tỷ giá với tỷ giá chính thức được công bố bởi Ngân hàng nhà nước (công bố tỷ giá chính thức mỗi ngày và xác định rõ biên độ giao động); Tăng cường sức mạnh của các biện pháp hành chính mà cụ thể là buộc các đơn vị kinh tế (trước hết là đơn vị kinh tế quốc doanh) có ngoại tệ phải bán cho Ngân hàng theo tỷ giá nhất định. - Bãi bỏ hoàn toàn hình thức quy định tỷ giá nhóm hàng trong thanh toán ngoại thương giữa ngân sách với các đơn vị kinh tế tham gia vào hoạt động ngoại thương. Thay vào đó là việc áp dụng tỷ giá chính thức do Ngân hàng nhà nước công bố. Chính phủ đã tăng cường công tác thông tin,cho công khai hóa một cách nhanh chóng và chính xác chỉ số kinh tế quan trọng như tỷ giá chính thức, tỷ giá thị trường, chỉ số giá, sự biến động giá vàng…Nhờ vậy hạn chế được hoạt động đầu cơ, giải tâm lý hoang mang…Chính phủ cũng chú trọng tăng cường thực lực kinh tế cho hoạt động can thiệp vào tủ giá bằng cách gia tăng mạnh mẽ dự trữ ngoại tệ,lập quỹ bình ổn giá. - Đẩy mạnh hoạt động của trung tâm giao dịch ngoại tệ ( trung tâm giao dịch ngoại tệ tại trực tiếp Hồ Chí Minh được mở cửa từ tháng 8 năm 1991 ) để cho các đơn vị kinh tế và các tổ chức tín dụng trao đổi, mua bán ngoại tệ với nhau theo giá tự thoả thuận, tạo ra môi trường điều kiện để cung cầu thực sự gặp nhau. Sau đó, tiến dần tới việc thành lập thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng tháng 9 năm 1994. Tính đến cuối năm 1992, đầu năm 1993, những biện pháp can thiệp đã đem lại một kết quả như mong đợi, nạn đầu cơ ngoại tệ về cơ bản đã được giải toả, những đồng ngoại tệ đã được hướng mạnh và hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Tình hình cung - cầu ngoại tệ đã được cải thiện với cùng kỳ trong những năm trước đó, Dola có xu hướng giảm giá. Mức tỷ giá trên thị trường chợ đen chỉ giao động trong phạm vi từ 10200 đến 10400 đồng Việt Nam ăn 1 Đôla Mỹ. Thậm chí có lúc tỷ giá tụt xuống ở mức USD = 9750 VND. Mức tỷ giá trên thị trường chính thức cũng không có sự chênh lệnh nhiều so với tỷ giá trên thị trường chợ đen, là minh chứng cho thấy, mặc dù có sự can thiệp mạnh trở lại của nhà nước, nhưng tỷ giá vấn được xác định tương đối phù hợp với quy luật của thị trường. Nói chung tình hính cung cầu ngoại tệ và TGHĐ luôn được ổn định trong suốt thời gian dài từ năm 1993 đến đầu năm 1997. 3/Giai đoạn từ tháng 7 /1997 đến ngày 26/2/1999 Ngày 2/7/1997 Thái lan phải "thả nổi" TGHĐ kết thúc gần 14 năm duy trì một chế độ cố định và cũng là ngày đánh dấu làm nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính Đông nam á với một ảnh hưởng rộng khắp trên phạm vi toàn thế giới. Việt Nam cũng không thể tránh khỏi cuộc khủng hoảng. Xét trên góc độ vĩ mô, sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Đông nam á đối với nền kinh tế Việt Nam tạo nên một cơn sốc rộng khắp trên các mặt của nền kinh tế chẳng hạn như: Thứ nhất, đối với lĩnh vực tài chính Ngân hàng - Tạo sức ép giảm giá đồng Việt Nam trên thị trường ngoại tệ - Tác động xấu đến hoạt động giai dịch ngoại tệ - Tăng gánh nặng nợ cho các doanh nghiệp - Gây sức ép đối với lãi suất đồng tiền Việt Nam và đe doạ sự mất ổn định của hệ thống Ngân hàng. -Tác động đến xuất khẩu: tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam sang khu vực Châu Á - Thái Bình Dương chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch, riêng các nước ASIAN chiếm 23% tổng kim ngạch trước khi sảy ra cuộc khủng hoảng nên cuộc khủng hoảng tất yếu sẽ làm giảm xuất khẩu của Việt Nam. - Tác động đến nhập khẩu: Sự mất giá của đồng tiền trong khu vực đã kích thích gia tăng nhập khẩu, trước hết là nhập khẩu tiểu ngạch từ Thái lan và hàng trung chuyển từ Campuchia, Lào và Việt Nam. Thứ hai, đối với lĩnh vực đầu tư: Do tỷ giá tăng, lãi suất tăng, thị trường hàng hoá diễn biến phức tạp cùng với dự đoán không tốt trong tương lai tất yếu sẽ là các doanh nghiệp hạn chế đầu tư và Ngân hàng cũng rất dè dặt khi cho vay. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã có xu hướng giảm ngay từ trước khi nổ ra cuộc khủng hoảng, sau khi cuộc khủng hoảng, nhiều dự án đầu tư dở dang bị đình lại, nhiều phương án đầu tư mới tạm hoãn và điều này cũng thật rễ hiểu khi mà các quốc gia bị khủng hoảng nặng nề lại là những quốc gia đang dẫn đầu danh sách những quốc gia đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam. Thứ ba, đối với thu chi ngân sách nhà nước. Gánh nặng nợ nần và chi phí nguyên liệu tăng lên cùng với sụt giảm của thị trường tiêu dùng lẫn thị trường xuất khẩu đã làm nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ từ đó sẽ ảnh hưởng xấu đến nguồn thu ngân sách. Bên cạnh đó, sự xa sụt của nền kinh tế tất yếu đòi hỏi phải ra tăng một số khoản chi. Báo cáo của Ngân hàng nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng Ngân hàng trong 6 tháng đầu năm 1998 đã chỉ rõ " Thu ngân sách 6 tháng thực hiện đạt 30% so với kế hoạch năm. Chi ngân sách khó khăn hơn mức bội thu bội chi có xu hướng gia tăng". Thứ tư , Tăng trưởng kinh tế dự trữ quốc gia và nợ nước ngoài. Khủng hoảng khu vực đã gián tiếp ảnh hưởng đến cán cân vãng lai, đến đầu tư của nước ngoài.Từ đó, gây ra khó khăn cho sự phát triển kinh tế nói chung (tốc độ tăng trưởng 5,8% trong năm 1998 là mức tăng trưởng thấp nhất kể từ năm 1989). Nề kinh tế khó khăn sẽ tác động suy giảm đến tổng cầu, giảm thu nhập và tiêu dùng của cư dân. thị trường suy yếu một phần sẽ tác động ngay lập tức đến các Ngân hàng thương mại. Dự trữ quốc gia tất yếu sẽ phải chịu sức ép suy giảm một phần do nguồn cung ngoại tệ giảm bớt, một phần do đáp ứng nhu cầu ngoại tệ thiết yêú cho nền kinh tế và hỗ trợ cho đồng Việt Nam vào những lúc cao điểm. Trong bối cảnh đó chính sách TGHĐ nước ta đã có nhiều thay đổi nhằm hạn chế những tác động của cuộc khủng hoảng với các mốc chính như sau: Ngày 13/10/1997 thống đốc Ngân hàng nhà nước quyết định mở rộng biên độ giao dịch nên mức 10%. Ngày 16/2/1998 Ngân hàng nhà nước quyết định nâng tỷ giá chính thức từ 1USD = 11175VND lên mức 1USD = 11800VND, tăng 5,6%, ngày 7/8/1998, Ngân hàng nhà nước quyết định thu hẹp biên độ giao dịch xuống còn 7% đồng thời nâng tỷ giá chính thức lên 1USD = 12998 là 1USD = 12992 VND, ngày 6/11/1998 là 1USD = 12989VND,ngày 26/11/98 là1USD = 12987VND… cho đến ngày 15/1/1999 thì tỷ giá chính thức chỉ còn ở mức 1USD = 12980VND. 4/giai đoạn từ sau cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực đến trước khi Việt Nam gia nhập WTO (1999-2006) Trong giai đoạn này, kết quả tích cực do việc điều chỉnh tỷ giá mang lại là nó đã hạn chế được phần nào nhập khẩu và giảm nhập siêu một cách rõ rệt. Nhưng đồng thời,việc điều chỉnh tỷ giá đã làm tăng gánh nặng nợ nước ngoài. Tính đến tháng 10/1998,so với mức nợ nước ngoài 22 tỷ USD, sự thay đổi của tỷ giá hối đoái đã làm cho nó tăng thêm 42,86 triệu USD, cộng với 17,86 triệu USD tiền lãi, tổng cộng là 60,72 triệu USD đã gây khó khăn rất lớn cho các doanh nghiệp có vốn vay nước ngoài, thậm chí đẩy thêm nhiều doanh nghiệp vào tình trạng thua lỗ. Đây chính là cái giá phải trả khi duy trì lựa chọn chính sách tỷ giá thiên về cố định bằng cách duy trì ổn định tỷ giá quá lâu. Và một khi thời gian duy trì cố định càng dài thì sự đánh đổi càng lớn cho các nhà hoạch định chính sách. Do bị tác động bởi khủng khoảng tài chính của khu vực Đông Á, khi đó Việt Nam buộc phải phá giá VND để hạn chế những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế Việt Nam. Đồng thời, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lãi suất VND có xu hướng giảm, cộng thêm lãi suất trên thị trường quốc tế có xu hướng tăng nên xảy ra hiện tượng chuyển dịch từ VND sang USD, tỷ lệ tiền gửi USD / tổng tiền gửi tăng từ mức 33% năm 1997 lên mức 36,6% năm 2000 và 41% năm 2001. Ngược lại thì các khoản vay bằng ngoại tệ/ trên tổng dư nợ lại có xu hướng giảm từ mức năm 1997: 31,3%, năm 1998: 25,4, năm 1999: 16,1%, năm 2000: 20,6%, năm 2001: 21%.Điều này, có thể sẽ gây mất cân đối nguồn vốn và với sử dụng vốn của các ngân hàng thương mại, gây mất an toàn hoạt động của các NHTM. Kể từ ngày 26/02/1999, ngân hàng nhà nước chấm dứt tỷ giá chính thức và giảm biên độ giao động tỷ giá xuống còn 0,1%. Từ đó, tỷ giá được ngân hàng nhà nước công bố theo tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng của đồng Việt Nam so với đồng đô la Mỹ. Biện pháp trên đã góp phần ổn định tỷ giá trên thị trường chính thức và thị trường tự do, tạo điều kiện cho thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoạt động sôi nổi. Năm 1999 tỷ giá giữa đồng VN và USD khá ổn định, tỷ giá liên ngân hàng tăng 1%, tỷ giá trên thị trường tự do tăng 1,1% so với năm 1998. Năm 2000 tỷ giá giao dịch trên thị trường liên ngân hàng tăng 3,45%, t ỷ giá trên thị trường tự do tăng 3,18% so với năm 1999. Năm 2001 tỷ giá tăng 3,9% so với cuối năm 2000. Trong năm 2002 tỷ giá bình quân VND/USD trên thị trường liên ngân hàng tăng 1,97%, so với năm 2001. Năm 2003 tỷ giá tăng khoảng 1% so với năm 2002. Ngày 01/7/2002, NHNN Việt Nam công bố nới lỏng biên độ lên 0,25% so với tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng. Đối với các ngoại tệ khác không phải là USD, các NHTM được quyền chủ động tự định tỷ giá giữa VND và ngoại tệ đó. Cùng với những thay đổi trong việc nới lỏng biên độ, NHNN Việt Nam đã cho phép sử dụng một số các công cụ hoán đổi ngoại tệ giữa NHNN Việt Nam và các NHTM, góp phần điều chỉnh tình trạng bất hợp lý về huy động và sử dụng vốn VND và ngoại tệ của các NHTM. Ngoài ra, để giải quyết nhu cầu ngoại tệ hợp lý v à phòng ngừa rủi ro tỷ giá của các doanh nghiệp trong nước, NHNN Việt Nam đã cho áp dụng thí điểm nghiệp vụ quyền chọn và NHTM cổ phần Xuất Nhập Khẩu Việt Nam (Eximbank) thực hiện thí điểm nghiệp vụ này. 5/Thời kỳ từ tháng 11/2006 – nay (Từ khi gia nhập WTO ). Ngày 7/11/2006, Việt Nam đã được kết nạp vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Đối với nước ta, sự kiện này có một ý nghĩa đặc biệt. Đây là kết quả của quá trình đổi mới nhằm mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế. Gia nhập WTO với những cơ hội và thách thức mới cho Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế. Trước những cơ hội và thách thức đó, lựa chọn những bước đi đúng đắn và phù hợp trong cơ chế điều hành tỷ giá là điều trăn trở của các nhà hoạch định chính sách. Đầu năm 2007, đã có những biến động lớn trong chính sách điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước thể hiện ở những nội dung sau: - Nới rộng biên độ tỷ giá: Ngày 02/01/2007, NHNN đã nới rộng biên độ tỷ giá ngoại tệ từ + 0,25% lên +0,5% so với tỷ giá liên ngân hàng. Việc điều chỉnh này được cho là mở đường cho sự giảm giá của VND so với USD. - Sự can thiệp vào chính sách tỷ giá của NHNN: Trong ngày 2 và 3 tháng 01 năm 2007, NHNN đã mua ngoại tệ của các NHTM với số lượng nhiều hơn nhằm giảm bớt tình trạng thừa USD trên thị trường. Ước tính trong 2 ngày, NHNN đã mua vào trên 140 triệu USD. - Tỷ giá VND/USD bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng áp dụng cho ngày giao dịch do Ngân hàng Nhà nước công bố có cao hơn một chút (nếu ngày 26.1.2006 là 16.090 thì ngày 2.1.2007 là 16.101, ngày 3.1 là 16.096, ngày 4.1 là 16.100); - Tỷ giá VND/USD do ngân hàng thương mại (Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam) bán ra vẫn cơ bản ổn định ở mức trên dưới 16.055 một chút và thấp hơn tỷ giá do Ngân hàng Nhà nước công bố hằng ngày (tương ứng ngày 26.12.2006 là 16.050, ngày 2.1.2007 là 16.051, ngày 3.1 là 16.055, ngày 4.1 là 16.055). - Tỷ giá VND/USD trên thị trường tự do cũng cơ bản ổn định và chỉ cao hơn không đáng kể so với tỷ giá do các ngân hàng thương mại bán ra và cũng thấp hơn tỷ giá do Ngân hàng Nhà nước công bố hằng ngày (ngày 2.1.2007 là 16.070, ngày 3.1 là 16.070, ngày 4.1 là 16.070). - Ngày 10.10.2007, giá bán ra đô la Mỹ của ngân hàng là 16.084 đồng, nhưng cũng ngày này tháng trước thì giá bán ra là 16.244 đồng. Diễn biến này nếu xem tỷ giá của Việt Nam là tự do biến động theo thị trường thì chúng ta gọi là tiền đồng Việt Nam tăng giá (appreciation) 160 đồng, hay ngược lại đô la Mỹ giảm giá. Động thái mới nhất từ phía Ngân hàng Nhà nước nhằm kiểm soát lạm phát trong năm 2008 là quyết định nới rộng biên độ tỷ giá VND/USD từ +/-0,5% lên +/-0,75% ngay trong những ngày cuối năm 2007 (ngày24/12/2007) nhằm tăng khả năng thanh khoản cho thị trường và tăng cường sự linh hoạt của tỷ giá trong bối cảnh nguồn vốn đổ vào Việt Nam ngày càng lớn, tạo điều kiện cho dòng vốn ra và vào nhịp nhàng hơn. Theo NHNN, việc mở rộng biên độ lần này nằm trong chủ trương tạo điều kiện để nền kinh tế Việt Nam thích nghi với mức độ mở cửa, hội nhập nền kinh tế thế giới. Để giảm bớt áp lực cho các ngân hàng trong bối cảnh cung ngoại tệ thừa, có điều kiện ấn định tỷ giá theo cung cầu vốn thực tế, ngày 07/3/2008 NHNN đã mở thêm biên độ tỷ giá thêm một khoảng là +/- 0,25% so với mức +/-0,75% trước đây, tức là cho phép các ngân hàng được tự đưa ra tỷ giá trong "phạm vi cho phép" là +/-1% so với tỷ giá chính thức liên ngân hàng. Ngày 26/6/2008 NHNN ban hành quyết định số 1346 mở rộng biên độ lên +2% và ngày 6/11/2008 NHNN tiếp tục ban hành quyết định số 2635 mở rộng biên độ lên + 3% với mục đích điều hành chính sách tỷ giá linh hoạt hơn giúp cho các tổ chức kinh tế và tổ chức tín dụng thích ứng tốt hơn với các biến động trên thị trường thế giới hiện nay. Liên hệ Tác động của Chính sách 'Đồng tiền yếu' của Việt Nam Lợi nhuận của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng khi tiền đồng mất giá trong chính sách “Đồng tiền yếu”. Một thực tế đã và đang diễn ra, đó là đồng tiền Việt Nam (VND) đang giảm giá so với đồng dollar Mỹ (USD). Một dollar Mỹ (1 USD) tương đương 10.000 VND – 12.000 VND cách đây hơn 10-12 năm, giờ đã là khoảng 19.500 VND theo giá thị trường (gần gấp đôi). Tỷ giá hối đoái được điều chỉnh tự nhiên, khách quan, do “bàn tay vô hình” của thị trường tự chi phối và điều tiết hay do chính sách can thiệp tỉ giá của ngân hàng nhà nước và chính phủ từ mềm mại, linh hoạt, nhẹ nhàng hay “đột ngột” gây sốc cho thị trường. Điều này tác động đến các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu nói riêng như thế nào? Khảo sát trường hợp doanh nghiệp A, B, C, D, E, F như dưới đây: - Doanh nghiệp trong các trường hợp A, B, C, D, E, F đều thu được doanh số 100 USD khi xuất hàng - Các trường hợp làm hàng xuất khẩu với tỉ lệ nội địa hóa khác nhau: A – nhập khẩu 50% (phải trả cho bên bán nước ngoài 50 USD để nhập hàng nguyên vật liệu về) tức A phải mua nguyên liệu đầu vào hết 50 USD, còn lại mua trong nước hay tỉ lệ nội địa hóa đầu vào của A trong trường hợp này là tối đa 50% (không kể hàng hóa A mua được trong nước cũng do doanh nghiệp khác nhập khẩu về); tương tự B có tỉ lệ nhập khẩu là 60% hay 60 USD tức tỉ lệ nội địa tối đa tới 40% (dùng mua hàng trong nước)… và F – nhập khẩu 100% hay nhập hoàn toàn cho mỗi 100 USD doanh số thu về hay F là doanh nghiệp nhập khẩu 100 USD cho mỗi 100USD xuất khẩu (giả thiết lý thuyết hoặc F chính là doanh nghiệp chuyên nhập khẩu). - Tỷ giá biến động từ 1 USD tương đương 18.000 VND lên 20.000 VND như thời gian vừa qua, tức biến động 2.000 VND cho mỗi USD. - Lợi nhuận (sau chi phí) thu về của các doanh nghiệp A, B, C, D, E, F đều là 10% trên doanh số xuất khẩu 100USD; tức là (a) 180.000 VND tại thời điểm trước khi tỉ giá biến động (doanh nghiệp dự kiến lời 10% bằng tiền Đồng vì các chi phí doanh nghiệp trong nước được dự kiến bằng VND; và là (b) 10 USD tại thời điểm thu về bằng USD hàng xuất khẩu. Giả thiết khác: doanh nghiệp chưa thể tăng giá hàng hóa bán ra. Giải thích: Chúng ta nhận thấy, để thu về 100 USD, doanh nghiệp phải trả cho bên bán nước ngoài (hàng 1) bằng USD với tỉ lệ tăng tương ứng theo tỉ lệ hàng nguyên liệu phải nhập về. Số tiền đồng (VND) phải trả thêm cho mỗi USD cũng gia tăng theo (hàng 2 – nhân với 2.000VND). So với dự kiến lợi nhuận bằng tiền đồng (VND) tức trường hợp (a) thì (xem hàng số 3) lợi nhuận các doanh nghiệp sẽ giảm từ A: 80.000VND xuống –F: 20.000VND (thua lỗ); nếu theo dự kiến bằng USD như trường hợp (b) (doanh nghiệp được bán USD theo giá thị trường khi xuất khẩu và thu tiền về) thì đỡ hơn một chút (xem hàng số 4). Hàng số 5, cho thấy khi so sánh giữa các trường hợp A, B, C, D, E, F thì mỗi khi tỉ lệ % số tiền USD phải trả để mua hàng nguyên vật liệu phục vụ cho việc sản xuất kinh doanh (nhập khẩu) tăng lên 10% thì lợi nhuận dự kiến của doanh nghiệp giảm 10%. Điều này tỉ lệ nghịch với tỉ lệ nội địa hóa nguyên vật liệu. Nếu doanh nghiệp chỉ phải thanh toán hàng hóa bằng tiền đồng VND trong nước thì sẽ không phải chịu thiệt khi tỉ giá biến động như vừa qua (ít tác động). Doanh nghiệp có tỉ lệ nội địa hóa càng cao sẽ có ưu thế lợi nhuận lớn hơn doanh nghiệp có tỉ lệ nội địa hóa thấp, do chịu thiệt khi tiền đồng Việt Nam giảm giá hay phá giá tiền đồng. Ví dụ: A (nhập khẩu 50% và mua nội địa tối đa tới 50%) sẽ có lợi hơn B, C, D, E và dĩ nhiên là F vì có tỉ lệ nhập khẩu cho sản xuất kinh doanh cao hơn (xét biến động tỉ giá chứ không khảo sát lợi thế khi doanh nghiệp mua hàng giá rẻ từ nước ngoài). Tỉ lệ nội địa hóa tùy thuộc nhiều vào lĩnh vực, ngành nghề, chủng loại hàng hóa cũng như lợi thế so sánh của mỗi quốc gia như tài nguyên thiên nhiên (mỏ quặng, thủy hải sản, nông lâm sản…); cơ cấu dân số và chất lượng dân số lao động già, trẻ; trình độ giáo dục, khoa học công nghệ, phát minh sáng kiến, trình độ quản lý nhà nước và điều hành kinh tế vĩ mô – thượng tầng kiến trúc và hạ tầng cơ sở của chính sách và pháp luật, khả năng học hỏi, sáng tạo, rút kinh nghiệm và vượt khó trong điều hành doanh nghiệp; và các mối tương quan lịch sử, địa chính trị, kinh tế truyền thống của các quốc gia và khu vực. Do vậy, việc quyết định điều chỉnh tăng hay giảm giá tiền đồng so sánh với một ngoại tệ nào đó, ở đây là USD – một ngoại tệ truyền thống mạnh nhất trên thế giới, phải nhìn vào cấu trúc hiện tại của nền kinh tế đất nước. Ngoài các yếu tố như thâm hụt ngân sách (bội chi khoảng 5% năm 2008 và 6.9% năm 2009), tăng trưởng tín dụng nhanh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTaichinh (52).doc
Tài liệu liên quan