Đề tài Ảnh hưởng của việc bón phân hữu cơ lên năng suất và tính chất vật lý của đất trồng dưa hấu, dưa lê ở phường Long Tuyền, Quận Bình Thuỷ, thành phố Cần Thơ

MỤC LỤC

 

Trang

TÓM LƯỢC 1

MỞ ĐẦU 2

CHƯƠNG I 3

LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 3

I.1 SƠ LƯỢC VÙNG NGHIÊN CỨU 3

I.1.1 Điều kiện tự nhiên 3

I.1.2 Các yếu tố kinh xã hội 4

I.2 TẦM QUAN TRỌNG CỦA CÂY RAU, ĐẶC ĐIỂM CHUNG VÀ KỸ THUẬT LÀM ĐẤT TRỒNG RAU 4

I.2.1 Tầm quan trọng của cây rau đối với nền kinh tế và xã hội 4

I.2.2 Đặc điểm chung của ngành sản xuất rau: 6

I.2.3 Đất trồng rau 8

I.3 ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC SẢN XUẤT RAU ĐẾN MÔI TRƯỜNG 8

I.3.1 Ảnh hưởng của thuốc bảo vệ thực vật đến môi trường 8

I.3.2 Ảnh hưởng của việc sử dụng phân hoá học 9

I.3.3 Ảnh hưởng của thâm canh rau đến tính chất vật lý và hoá học đất 9

I.4 PHÂN HỮU CƠ VÀ VAI TRÒ TÁC DỤNG CỦA PHÂN HỮU CƠ 12

I.4.1 Phân hữu cơ 12

I.4.2 Khái niệm chất hữu cơ và sự khoáng hoá chất hữu cơ 12

I.4.3 Vai trò của phân hữu cơ 14

I.4.4 Lợi ích của việc bón phân hữu cơ 19

I.4.5 Kỹ thuật sử dụng phân hữu cơ 22

I.4.6 Sử dụng phân hữu cơ trong canh tác rau màu 23

I.4.7 Bón phân hữu cơ cho rau 24

CHƯƠNG II 25

PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP 25

II.1 PHƯƠNG TIỆN 25

II.1.1 Địa điểm khảo sát 25

II.1.2 Mẫu đất 25

II.1.3 Phương tiện 25

II.2 Phương pháp 25

II.2.1 Các bước thực hiện 25

II.2.2 Khảo sát các chỉ tiêu vật lý và hoá học đất các điểm khảo sát 26

CHƯƠNG III 28

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 28

III.1 ĐẶC ĐIỂM VÙNG NGHIÊN CỨU 28

III.1.1 TỔNG QUAN 28

III.1.2 Đặc tính đất tại vùng nghiên cứu: 28

III.2 ẢNH HƯỞNG PHÂN HỮU CƠ LÊN TÍNH CHẤT VẬT LÝ ĐẤT 30

III.3 ẢNH HƯỞNG CỦA PHÂN HỮU CƠ LÊN NĂNG SUẤT RAU 42

CHƯƠNG IV 44

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 44

IV.1 KẾT LUẬN 44

IV.2 ĐỀ NGHỊ 45

TÀI LIỆU THAM KHẢO .46

 

 

doc50 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7359 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của việc bón phân hữu cơ lên năng suất và tính chất vật lý của đất trồng dưa hấu, dưa lê ở phường Long Tuyền, Quận Bình Thuỷ, thành phố Cần Thơ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hân giải này chia làm hai nhóm: + Nhóm những hợp chất hữu cơ ngoài mùn. + Nhóm những hợp chất mùn. Nhóm những hợp chất trong đất ngoài mùn chiếm tỷ lệ thấp trong toàn bộ chất hữu cơ thường không vượt quá 10-15% (trừ than bùn hoặc đất dưới rừng có tầng thảm mục dày). Nhóm chất hữu cơ này gồm các chất hữu cơ thông thường có trong động vật, thực vật và vi sinh vật như: Hydrat, cacbon, Protein, Linhin, Lipit, andehyt,… Nhóm hợp chất mùn là những hợp chất cao phân tử có cấu tạo phức tạp. Chúng chiếm tỷ lệ cao trong chất hữu cơ (khoảng 85-90%). Bảng 4 Thang đánh giá chất hữu cơ trong đất (%CHC), (theo I.V. Chiurin, 1972). Chất hữu cơ trong đất, % Đánh giá <1.0% Rất nghèo 1.1 – 3.0% Nghèo 3.1 – 5.0% Trung bình 5.1 – 8.0% Khá >8.1% Giàu Khoáng hoá là quá trình phân huỷ các hợp chất hữu cơ liên tục để tạo thành các hợp chất khoáng đơn giản, sản phẩm cuối cùng là những hợp chất tan và chất khí có sự tham gia của vi sinh vật (Nguyễn Thế Đặng, 1999). Nó sẽ trả lại cho đất các chất dinh dưỡng có ít cho cây trồng dưới dạng các chất vô cơ. Theo Nguyễn Thế Đặng (1999), thì sự khoáng hoá phụ thuộc vào : thành phần chất hữu cơ, ẩm độ của đất (thích hợp là 70-80%), nhiệt độ (thích hợp là 25-35oC), pH đất (thích hợp 6.5-7.5), và càng thoáng khí khoáng hoá càng nhanh. Quá trình khoáng hoá xảy ra nhanh khi gặp điều kiện thuận lợi tạo ra nhiều chất dinh dưỡng cho cây trồng. Tuy nhiên khoáng hoá xảy ra trong điều kiện yếm khí thì sẽ sinh ra nhiều chất độc có hại cho cây trồng như: CH4, CO2, H2S…(Lê Huy Bá, 2000). Xác hữu cơ mùn hoá khoáng hoá nhanh khoáng hóa từ từ Các hợp chất mùn Các hợp chất khoáng Hình 1.2 Sự chuyển hóa chất hữu cơ trong đất( Dương Minh Viễn, 2003) Nguồn gốc chất hữu cơ Nguồn gốc nguyên thủy của chất hữu cơ trong đất là mô thực vật: thân, rễ, lá cây sau khi chết đi sẽ bị mục nát, hoa màu sau khi thu hoạch thì phần còn lại như: Lá hay rễ cũng bị phân hủy để cung cấp chất hữu cơ cho đất. Ngoài ra động vật cũng là nguồn cung cấp chất hữu cơ cho đất. Chất hữu cơ được bổ sung vào đất từ các nguồn sau đây: Xác sinh vật (còn gọi là tàn tích sinh vật): Đây là nguồn hữu cơ chủ yếu. Sinh vật đã lấy thức ăn từ đất để tạo nên cơ thể chúng và khi chết đi để lại những tàn tích hữu cơ cho đất. Trong xác sinh vật có đến 4/5 là từ thực vật. Tính trung bình hàng năm đất được bổ sung từ thực vật 5-18 tấn thân, rễ và lá trên ha (Nguyễn Thế Đặng, 1999). Ngoài thực vật thì xác vi sinh vật và động vật đất đã cung cấp chất hữu cơ một phần hết sức đáng kể, mặc dù khối lượng không lớn nhưng có chất lượng tốt. Phân hữu cơ đối với đất đang canh tác thì lượng chất hữu cơ do con người bón vào đất là nguồn hữu cơ đáng kể. Những nơi thâm canh cao người ta có thể bón tới 80 tấn hữu cơ trên ha. Nguồn phân hữu cơ bao gồm: phân chuồng, phân xanh, phân rơm rác, bùn ao,… tùy thuộc vào loại phân hữu cơ khác nhau mà chất lượng khác nhau (Ngô Ngọc Hưng, 2004). Phân hữu cơ là loại phân bón được loài người sử dụng đầu tiên, từ gần 3000 năm trước đây ở Trung Quốc (Nguyễn Đăng Nghĩa, 2002). Phân hữu cơ Phân hữu cơ là tên gọi chung cho các loại phân được sản xuất từ các vật liệu hữu cơ như dư thừa thực vật, phân chuồng, phân xanh, chất thải thực vật, các phế phẩm nông nghiệp vùi trực tiếp vào đất hay ủ thành phân. Sau khi phân giải có khả năng cung cấp dinh dưỡng cho cây. Quan trọng hơn nữa là có khả năng tái tạo lớn. Đây là nguồn phân quý, không những tăng năng suất cây trồng mà còn có khả năng làm tăng hiệu lực của phân hóa học, cải tạo và nâng cao độ phì nhiêu của đất (Ngô Ngọc Hưng, 2004). Kinh nghiệm trong quá trình sử dụng, nghiên cứu phân bón cho thấy để đảm bảo năng suất cao và ổn định, việc cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng chỉ dựa vào phân vô cơ là không đủ, mà phải có phân hữu cơ ít nhất 25% trong tổng số dinh dưỡng (Vũ Hữu Yêm, 2005). Michel Vilain (1989) đề nghị phân loại theo mức độ khoáng hóa chất hữu cơ hay khả năng tạo mùn của chất hữu cơ. Chất hữu cơ có tỷ lệ C/N cao được vùi trực tiếp vào đất không qua chế biến, chức năng chủ yếu là cải tạo đất thì được gọi là chất hữu cơ cải tạo đất. Chất hữu cơ thông qua chế biến hay không thông qua chế biến có tỷ lệ C/N thấp thì gọi là phân hữu cơ (Vũ Hữu Yêm, 2005). Vai trò của phân hữu cơ Vai trò của phân hữu cơ đối với cây trồng Từ lâu vấn đề này được biết đến, chất hữu cơ trong đất có ảnh hưởng đến sự phát triển của cây trồng, nó không thể giải thích thông qua sự thêm dinh dưỡng đơn độc. Chất hữu cơ chứa các nguyên tố N, P, K, Mg, Ca, S,… và nhiều nguyên tố vi lượng cần thiết cho cây. Cây có thể hút trực tiếp một lượng chất đạm hữu cơ dưới dạng Amino Acid như: Alanine, Glyeine, còn thông thường cây hút các chất dinh dưỡng dưới dạng muối khoáng có được từ sự khoáng hóa chất hữu cơ. Ví dụ: Cây lúa hút 80% chất đạm từ sự khoáng hóa chất hữu cơ trong đất, ngay cả khi đất được bón phân (Đỗ Thị Thanh Ren, 1993). Bón kết hợp thích đáng giữa phân hóa học và phân hữu cơ sẽ có tác dụng tăng năng suất cây trồng. Phân hữu cơ có chứa đầy đủ các loại chất khoáng cần thiết cho cây trồng nhưng hàm lượng không nhiều. Mặc dù phân hữu cơ không có tác dụng tức thời như phân hóa học, nhưng bón với số lượng lớn thì tác dụng của nó không thua kém phân hóa học ( Nguyễn Thanh Hùng, 1984). Vai trò của phân hữu cơ đối với đất Cải tạo hóa tính đất và bồi dưỡng đất Phân hữu cơ có tác dụng cải tạo đất toàn diện, đặt biệt nó cải tạo nhiều đặc tính xấu của đất ngoài việc cải tạo đất nghèo dinh dưỡng, phân hữu cơ còn làm tăng lượng chất hữu cơ và mùn trong đất mà phân hóa học không có được. Bón phân hữu cơ đất ít bị rửa trôi thành đất bị bạc màu hoặc trơ cát sỏi. Chất hữu cơ có tác dụng như keo giữ lại các hạt đất rất nhỏ. Đồng thời, nếu chất mùn trong đất được tăng lên thì các chất dinh dưỡng do ta bón cho cây như: N, P, K,… cũng ít bị rửa trôi hay bay hơi đi mất. Ngoài ra, đất có tính đệm nghĩa là khi bón các loại phân hóa học hoặc vôi vào đất thì tính chất hóa học của đất như: chua, kiềm, mặn…ít tăng đột ngột nên cây trồng ít bị thiệt hại. Bón phân hữu cơ vào các loại đất thịt nhẹ, đất xám, đất cát làm cho đất không có cấu trúc rời rạc, nhờ đó hạn chế sự bốc hơi nước của đất và giúp cây ít bị khô héo nhanh khi bị nắng hạn, nhưng khi gặp mưa dầm thì đất ít bị dính chặt, dễ hút nước hơn…Ngược lại, đất thịt nặng hoặc đất sét nếu được bón nhiều phân hữu cơ thì đất trở nên tơi xốp hơn do đó cây trồng sẽ phát triển mạnh để hút nhiều thức ăn cho năng suất cao (Nguyễn Thanh Hùng, 1984). Theo Vũ Hữu Yêm (1995) và Nguyễn Ngọc Nông (1999) cho rằng: Phân hữu cơ khi bón vào đất sau khi phân giải sẽ cung cấp thêm các chất khoáng làm phong phú thêm thành phần thức ăn cho cây và sau khi mùn hóa làm tăng khả năng trao đổi của đất. Đặc biệt là các humic aicd trong phân có tác dụng khoáng hóa đạm rất tốt trong đất (Nguyễn Bảo Vệ, 1996). Bón phân hữu cơ sẽ cung cấp thêm các khoáng chất cho cây, phân hữu cơ làm tăng khả năng hòa tan cho chất khoáng khó hòa tan. Các chất hữu cơ sau khi mùn hóa làm tăng khả năng trao đổi chất của đất. Đặc tính này quan trọng đối với thành phần cơ giới nhẹ: khả năng trao đổi của mùn gấp 5 lần khả năng trao đổi của đất sét. Cây trồng lấy từ đất một lượng dinh dưỡng khá lớn, nhiều chất bị rửa trôi, bay hơi (N) nên phải trả lại lượng dinh dưỡng cho đất để duy trì độ phì nhiêu của đất. Để đáp ứng thức ăn cho cây trồng. Bón phân hữu cơ có tác dụng cung cấp cho đất gần đầy đủ các loại dưỡng chất cần thiết: N, P, K, Ca, Mg… Và nhiều chất vi lượng khác mà phân hóa học không có đặc điểm này ( Nguyễn Thanh Hùng, 1984). Theo Ngô Ngọc Hưng và ctv, 2004 phân hữu cơ còn cung cấp CO2 cho sự quang tổng hợp chất hữu cơ, cung cấp các chất dinh dưỡng hữu cơ như: Đường và các amino acid là sản phẩm trung gian trong quá trình phân hủy, có thể được cây trồng sử dụng, làm giảm khả năng trực di các cation, điều này quan trọng trong các loại đất chứa ít sét, làm gia tăng khả năng đện các chất dinh dưỡng, chủ yếu là N, P, K và S. Vì vậy, làm tăng hiệu quả của phân hóa học vào đất… Hữu cơ còn là nhân tố tích cực tham gia vào chuyển hóa lân trong đất từ dạng khó tiêu sang dạng dễ tiêu, hữu dụng cho cây trồng (Nguyễn Thị Thủy và ctv, 1997). Mặt khác, chất hữu cơ còn có tác dụng đệm trong hầu hết các loại đất (Đỗ Thị Thanh Ren, 1998), hay tạo phức chất hữu cơ – khoáng để khắc phục các yếu tố độc hại trong đất (Lê Văn Khoa và ctv, 1996). Theo Lê Duy Phước (1968), tăng cường bồi dưỡng đất bằng phân hữu cơ kết hợp sử dụng vôi, phân hóa học hợp lý để cải tạo thành phần lý – hóa của đất, cải tạo nhanh chóng đất bạc màu. Bên cạnh đó, chất hữu cơ còn phát huy tác dụng của các chất điều hòa tăng trưởng sinh ra trong đất (Hoàng Minh Châu, 1998). Cải tạo lý tính của đất Các kết quả nghiên cứu cho thấy việc trộn chất hữu cơ vào đất làm tăng độ định kết cấu đất. Tác dụng ổn định cấu trúc đất phụ thuộc vào bản chất chất hữu cơ, và mức độ mùn hóa. Mùn tăng khả năng kết dính các hạt đất để tạo thành đoàn lạp và làm giảm khả năng thấm ướt khiến cho kết cấu được bền trong nước (Đỗ Thị Thanh Ren, 1998). Chất hữu cơ làm cho nước ngấm vào đất thuận lợi hơn, khả năng giữ nước cao hơn, việc bốc hơi mặt đất ít đi nhờ vậy mà tiết kiệm nước được tưới. Phân hữu cơ có tác dụng làm đất thông thoáng tránh sự tạo váng và tránh sự xói mòn. Cải thiện lý hóa tính và đặc tính sinh học của đất, làm đất tơi xốp, thoáng khí , ổn định pH, giữ ẩm cho đất, tăng khả năng chống hạn cho cây trồng… Tạo điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động của các vi sinh vật hữu ích trong đất, giúp bộ rễ và cây trồng phát triển tốt. Góp phần đẩy mạnh quá trình phân giải các hợp chất vô cơ, hữu cơ thành nguồn dinh dưỡng dễ tiêu N, P, K, vi lượng… để cây trồng hấp thụ, qua đó giảm các tổn thất do bay hơi, rữa trôi gây ra. Phân hủy các độc tố trong đất, tiêu diệt các loại mầm bệnh, các loại vi sinh vật gây hại, làm giảm mầm mống sâu bệnh trong đất. Góp phần làm sạch môi trường, cho nông sản sạch, an toàn trong tiêu dùng, chất lượng cao ( Vũ Hữu Yêm, 1995). Ngoài ra, phân hữu cơ còn đóng vai trò quan trọng trong việc phục hồi và nâng cao độ phì nhiêu đất thoái hóa, khối lượng phân hữu cơ vùi vào đất càng lớn thì độ phì nhiêu hồi phục càng nhanh (Lê Hồng Tịch, 1997). Tác dụng đến đặc tính sinh học của đất Trong quá trình phân giải, phân hữu cơ cung cấp thêm thức ăn cho vi sinh vật, cả thức ăn khoáng và thức ăn hữu cơ, nên khi vùi phân hữu cơ vào đất tập đoàn vi sinh vật trong đất phát triển nhanh, cả giun đất cũng phát triển mạnh. Bón phân chuồng, phân rác vào đất còn làm phong phú thêm tập đoàn vi sinh vật trong đất. Một số chất có hoạt tính sinh học (phytohormone) được hình thành lại tác động đến việc tăng trưởng và trao đổi chất của cây (Đỗ Thị Thanh Ren, 1998). Thông qua hoạt động của vi sinh vật chất hữu cơ phân hủy biến thành mùn, mùn có khả năng kiên kết những hạt đất phân tán làm cho đất có cấu trúc tốt, thoáng khí, tăng độ xốp, đất dễ cày bừa, giữ phân và giữ nước tốt hơn. Khi bón phân hữu cơ một cách có hệ thống sẽ cải thiện những tính chất lý – hóa cũng như sinh học, chế độ nước, chế độ nhiệt của đất (Lê Văn Khoa và ctv, 1996). Bón phân hữu cơ vào đất làm tăng dung tích hấp thụ NH4+ . Bón từ 6-15 tấn hữu cơ khả năng hấp thu NH4+ tăng lên 15-24%, dung tích hấp thu tăng. Bón phân hữu cơ làm tăng hiệu quả của khoáng hóa. Khối lượng phân hữu cơ vùi vào trong đất càng nhiều thì độ phì nhiêu phục hồi càng nhanh (Ngô Ngọc Hưng, 2004). Chức năng vệ sinh, bảo vệ Tăng cường phân hủy sinh học nông dược dư tồn trong đất thông qua việc kích thích hoạt động vi sinh vật trong đất. Hấp phụ các chất làm ô nhiễm đất như tạo phức với kim loại nặng. một số nông dược (Phạm Tiến Hoàng, 2003). Tác dụng cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng Phân hữu cơ cung cấp chất dinh dưỡng cho cây nhờ chất acid humic (Hoàng Minh Châu , 1998). Theo Nguyễn Bảo Vệ, 1996 các chất hữu cơ cũng là nguồn dinh dưỡng cung cấp cho cây do mùn bị phân hủy (Akio Inoko, 1984) và hòa tan các chất vô cơ trong đất. Chất hữu cơ không chỉ là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng mà còn có tính chất bền vững đến tiềm năng, năng suất cao nhất cho phép của đất nhờ con đường khoáng hóa và cải tạo tinh chất lý – hóa đất (Wolfgangn Flaig, 1984). Và theo Nguyễn Lân Dũng (1968) nguồn đạm bổ sung cho đất chủ yếu dựa vào nguồn phân hữu cơ và sự cố định đạm của các vi sinh vật sống trong đất. Ngoài ra, bản thân phân hữu cơ có chứa các nguyên tố N, P, K, Ca, Mg và nhiều nguyên tố vi lượng cần thiết cho cây trồng (Trần Thành Lập, 1998 ). Bảng 4 Hàm lượng NPK có trong các loại phân hữu cơ tự nhiên (tính theo % chất khô), (Tạ Thu Cúc, 1996). Loại phân N P2O5 K2O 1. Phân chuồng Phân lợn 0,45 – 0,60 0,41 0,26 – 0,55 Phân trân bò 0,29 – 0, 55 0,17 – 0,35 0,8 – 1,0 Phân gà 1,15 – 1,63 0,54 – 1,4 0,85 – 2,4 2. Phân cá 4 – 10 3 – 9 0,3 – 1,5 3. Khô dầu Khô dầu lạc 7 – 7,2 1,5 – 1,6 1,3 – 1,4 Khô dầu bông 4 – 6,5 2 – 3 1,5 – 2 4. Phân xanh Muồng lá tròn 2,7 – 3 0,4 – 0,7 1 – 1,3 Điền thanh 2,6 0,28 1,7 Bèo hoa dâu 4,7 – 5 0,6 – 1 1,5 5. Than bùn Tây Ninh 0,38 0,03 0,37 Củ Chi 0,09 0,15 0,31 Mộc Hóa 0,16 – 0,91 0,15 0,31 U Minh 0,25 0,07 – 0,1 0,25 – 0,30 Lợi ích của việc bón phân hữu cơ Qua những phân tích về mặt bất lợi về lý, hóa cũng như sinh học đất do sự suy giảm độ phì nhiêu của đất. Hướng lâu dài để cải thiện và phục hồi dần cấu trúc đất, tăng cường độ phì nhiêu về mặt dinh dưỡng và sinh học đất, chống chịu các nguồn sâu bệnh từ đất là là tăng cường hàm lượng chất hữu cơ trong đất. Các loại phân hữu cơ như phân chuồng, phân xanh, rơm rạ, tàn dư thực vật… đóng vai trò quan trọng trong việc phục hồi và nâng cao độ phì nhiêu của đất bị thoái hóa. Khối lượng phân hữu cơ vùi vào đất càng lớn thì độ phì nhiêu hồi phục càng nhanh. Các lợi ích của việc bón phân hữu cơ Lợi ích thứ nhất: cải thiện và ổn định kết cấu của đất. Đây là điều kiện tiên quyết làm cho đất tơi xốp, thoáng khí, từ đó: - Làm cho nước thấm vào đất thuận lợi, hạn chế đóng váng bề mặt, hạn chế chảy tràn làm rửa trôi chất dinh dưỡng, ổn định nhiết độ đất, tăng cường hoạt động của sinh vật đất ( Vũ Hữu Yêm, 2005). Chất hữu cơ có khả năng hấp phụ lượng nước gấp 5 lần khối lượng của nó, do đó tăng cường khả năng giữ nước của đất để cung cấp cho nhu cầu của cây, gíup vận chuyển chất dinh dưỡng dễ dàng đến rễ cây trồng, ngoài ra còn giúp điều hoà nhiệt độ đất. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các loại cây trồng cạn như hoa màu, rau cải và cây ăn trái. Việc thiếu nước tạm thời trong những ngày nóng, tháng khô sẽ làm năng suất cây trồng giảm đáng kể, nhất là rất quan trọng trên các loại đất cát (Vũ Hũu Yêm, 1995). - Giúp đất thoát nước tốt, cải thiện tình trạng ngập úng, dư thừa nước. Điều nầy rất quan trọng đối với các loại cây trồng không chịu úng như rau, màu trồng trên các loại đất sét nặng. Khả năng thoát nước tốt của đất đặc biệt quan trọng trong hạn chế sự phát triển của các bệnh có nguồn gốc từ đất mà nguyên nhân là do tình trạng đất quá khô hay quá ẩm, pH đất thấp và sự phát triển kém của quần thể các vi sinh vật có lợi trong đất. - Trên đất sét nặng, do đó việc bón bổ sung chất hữu cơ làm đất tỏi xốp sẽ giúp rễ cây trồng phát triển tốt, tăng cường sự thu hút chất dinh dưỡng cho cây là yếu tố rất quan trọng để gia tăng năng suất cây trồng. Lợi ích thứ hai: cung cấp nguồn chất dinh dưỡng tổng hợp cho đất, làm chất dinh dưỡng trở nên dễ hữu dụng cho đất, tăng cường giữ phân cho đất: - Phân hữu cơ cung cấp đầy đủ các dưỡng chất cho cây trồng như đạm, lân, kali, Ca, Mg, S, các nguyên tố vi lượng, các kích thích tố sinh trưởng, các vitamin cho cây trồng. Tuy nhiên đây là sự cung cấp toàn diện các chất dinh dưỡng cùng một lúc, bền do đó có ý nghĩa quan trọng nếu so với việc bón phân hóa học, chỉ cung cấp một số các nguyên tố dinh dưỡng nhất định. Đặc biệt là sự cung cấp toàn diện các nguyên tố vi lượng, các vitamine từ phân hữu cơ có ý nghĩa trong việc gia tăng phẩm chất nông sản, làm trái cây ngọt hơn vì tránh được hiện tượng bón dư thừa chất đạm, làm giảm lượng đường trong trái; làm trái cây ngon hơn vì những chất hữu cơ trong quả là kết quả của các qúa trình sinh hoá trong cây khi có đầy đủ các men điều khiển. Các men nầy thường được tạo thành khi có đầy đủ các nguyên tố vi lượng. Sự mất cân đối khi bón các nguyên tố vi lượng có thể ảnh hưởng sự tạo thành các men nầy do đó ảnh hưởng phẩm chất hạt. Bón phân vi lượng không đúng liều lượng có thể gây sự mất cân đối trong dinh dưỡng cây trồng ( Hoàng Minh Châu, 1998). Sự cung cấp dưỡng chất từ từ với một lượng nhỏ sẽ không gây hiện tượng mất cân đối dưỡng chất như đối với phân hóa học Điều này cũng làm hạn chế nguy cơ bón dư thừa phân đạm, do đó hạn chế sự phát triển của sâu bệnh hại như đối với phân hóa học. Chất mùn của đất có khả năng tạo kết hợp vói các chất khoáng trong đất nhất là các nguyên tố vi lượng ở dạng liên kết dễ hữu dụng đối với cây trồng, bảo vệ các nguyên tố vi lượng không bị phản ứng với các chất khác thành những dạng không hữu dụng đối với cây trồng do đó có tác dụng tăng cường hiệu quả của phân hóa học bón vào, làm cho phân lân chậm tan trở nên dễ tan hơn. Ngoài ra khi độ phì nhiêu của đất gia tăng, có thể giảm lượng phân hoá học sử dụng. - Lợi ích quan trọng nữa của phân hữu cơ mà phân hóa học đơn thuần không thể có là giúp gia tăng chất mùn cho đất, làm tăng khả năng giữ chất dinh dưỡng cho đất, tăng khả năng điều chỉnh của đất khi bón dư thừa phân hóa học, khắc phục các ảnh hưởng xấu như cháy lá, sót rễ, lốp đỗ., hạn chế sự rửa trôi chất dinh dưỡng, không gây ô nhiễm môi trường. Bón phân hữu cơ cho đất còn làm tăng khả năng chống chịu của đất khi bị chua hoá đột ngột do ảnh hưởng của bón phân hoá học, làm đất ít chua hơn (Vũ Hữu Yêm, 1995). Lợi ích thứ ba: Tăng cường hoạt động vi sinh vật trong đất, tăng cường “sức khoẻ” của đất. Phân hữu cơ còn là nguồn thực phẩm cần thiết cho sự họat động của các sinh vật đất. Các qúa trình chuyển hoá , tuần hoàn chất dinh dưỡng trong đất, sự cố định đạm, sự nitrat hoá, sự phân huỷ các tồn dư thuốc bảo vệ thực vật, vv… được thực hiện do hoạt động của các sinh vật đất. Đất sẽ gần như trở thành "đất chết" nếu hệ sinh vật đất không họat động được, các chất thải, dư thừa thực vật, thuốc trừ sâu, bệnh không được phân huỷ nếu không có một quần thể vi sinh vật đa dạng và phong phú. Việc bón phân hữu cơ có bổ sung thêm các nguồn vi sinh vật đất như Trichoderma sẽ làm giảm các tác nhân gây bệnh thối rễ trên cà chua, ớt, bổ sung các nguồn vi sinh vật cố định đạm, vi sinh vật phân giải lân sẽ giúp tăng cường nguồn phân đạm cố định được và giúp hoà tan các hợp chất lân kém hoà tan trong đất thành những dạng lân dễ hữu dụng cho cây trồng. Do đó, bên cạnh bón phân hóa học, khoáng vi lượng thì việc dùng phân chuồng để bón lót cho rau màu là hết sức cần thiết. Nói chung, bón phân hữu cơ là một giải pháp lâu dài để tăng cường độ màu mở tự nhiên của đất và việc bón phân hóa học chỉ là biện pháp trước mắt để bổ sung chất dinh dưỡng cho cây trồng. Nếu chỉ chú ý bón phân hóa học thì về lâu dài đất sẽ bị bạc màu, cằn cỗi, sức sản xuất của đất sẽ giảm dù lượng phân hóa học được bón tăng cường. Việc bón phân hữu cơ kết hợp bón phân hoá học là biện pháp cần được thực hiện để bồi dưỡng sức sản suất của đất, nâng cao năng suất cây trồng một cách ổn định. Ở những nước Châu Á như Trung Quốc, Thái Lan, Nhật, Triều Tiên nền nông nghiệp hữu cơ đã được khởi xướng như là một giải pháp để giảm thiểu việc sử dụng phân hóa học, để duy trì sức sản xuất của đất, có ý nghĩa bảo vệ môi trường, xây dựng nền nông nghiệp bền vững. Nhiều chương trình chứng nhận sản phẩm từ nền nông nghiệp hữu cơ cũng đã được tiến hành ở các nước này (Ngô Ngọc Hưng, 2004). Kỹ thuật sử dụng phân hữu cơ Việc sử dụng phân hữu cơ hợp lý sẽ làm cho phân hữu cơ phát huy hết ưu điểm và khắc phục được nhược điểm của phân hữu cơ. Muốn sử dụng phân hữu cơ hợp lý cần phân tích thành phần và những đặc tính của phân về mặt sinh học, hóa học và vật lý học. Có phân tích thỏa đáng mới quyết định được việc dùng phân như thế nào? Chế biến ra sao? Và bón cho đối tượng nào? (bón cho rau, cây ăn quả hay cây ngũ cốc…) Mỗi loại đối tượng cần có mức hoai mục khác nhau ( Vũ Hữu Yêm, 1995). Trong điều kiện thâm canh, riêng phân hữu cơ không đủ cung cấp dinh dưỡng cho đất. Muốn tăng năng suất và phát huy được hiệu lực của phân hữu cơ nên phối hợp phân hữu cơ và phân hóa học. Khi sử dụng phân hữu cơ chú ý nguồn bệnh, cỏ dại và ô nhiễm môi trường để có biện pháp khắc phục. Bằng biện pháp ủ nóng trước, nguội sau đưa nhiệt độ đống phân lên trên 50oC các nguồn bệnh sẽ bị tiêu diệt, hạt cỏ sẽ mất sức nảy mầm, trứng ruồi muỗi sẽ ung hết, phân sử dụng được an toàn hơn. Phân ủ hoai có mùi đất nên không còn hấp dẫn ruồi muỗi nữa. Khi vùi phân hữu cơ phải chú ý trộn đảo thật đều vào đất, tránh gây hiện tượng khử mạnh cục bộ. Vùi đều vào đất còn tránh được việc bay mất NH3 khi bón phân hoai (Vũ Hữu Yêm, 1995). Sử dụng phân hữu cơ trong canh tác rau màu Theo Ngô Ngọc Hưng (2004) thì nguồn phân hữu cơ sử dụng có thể là: + Nguồn rơm rạ tại chỗ. Điều này có ý nghĩa như một sự hoàn trả chất dinh dưỡng trở lại cho đất. Có 2 cách để sử dụng nguồn rơm rạ này. * Biện pháp đốt rơm rạ: hầu hết chất đạm, bị mất đi một cách hoang phí khi đốt, quần thể thiên địch trên ruộng lúa như các con ăn mồi bị giảm . Do đó, biện pháp này chỉ nên sử dụng hạn chế sau nhiều vụ canh tác. * Nên sử dụng biện pháp vùi rơm rạ để hoàn trả chất dinh dưỡng lại cho đất. Có thể vùi rơm rạ bằng cách cày vùi khi chuẩn bị làm đất . Hoặc sử dụng rơm ủ nhanh có tưới thêm dung dịch nấm Tricô-Đại Học Cần Thơ để phân hủy và ủ nhanh ngoài đồng từ 35-40 ngày. Việc sử dụng nguồn rơm rạ mục sau khi trồng nấm rơm cũng là một biện pháp khả thi. + Nguồn phân chuồng gia súc từ chuồng trại chăn nuôi gia đình đã được ủ hoai. + Chất thải từ hầm ủ biogas. Các nguồn phân hữu cơ nầy sau khi được ủ hoai có thể dùng để bón lót cho lúa, rau màu. Hiện nay, có rất nhiều loại loại phân hữu cơ được bán trên thị trường. Đó là các loại phân hữu cơ ủ từ phân chuồng, phân heo, phân gia súc, bã bùn mía có trộn thêm phân khoáng NPK và các nguyên tố vi lượng, cung như các loại vi sinh vật có ích. Thành phần chế biến, hàm lượng chất dinh dưỡng và cách sử dụng được ghi chú trên bao bì. Trong sử dụng thì cần chú ý các điểm sau: - Các loại phân hữu cơ có nguồn gốc từ phân gia súc, gia cầm, xác bã thực vật rơm rạ, bã bùn là nguồn phân hữu cơ rất tốt, những loại nầy cần phải sử dụng với khối lượng lớn tuy nặng công nhưng lại có tác dụng rất tốt trong cải tạo đất và cung cấp thức ăn cho vi sinh vật. Vì mục đích quan trọng của việc bón phân hữu cơ các loại phân này cung cấp thêm vào đất nhiều chất các-bon cần thiết để vi sinh vật có ích phát triển để khống chế hoạt động của các loài vi sinh vật gây hại , tác dụng liên kết các hạt đất nhỏ lại thành những hạt đất to hơn để đất xốp thoáng khí cũng như các tác dụng cung cấp thêm vào đất chất để hút nước, giữ nước và thoát nước tốt cho cây trồng. Các loại phân hữu cơ đậm đặc tuy cung cấp nhiều chất dinh dưỡng, nhẹ dễ vận chuyển nhưng do chỉ nên bón với số lượng thấp nên cung cấp lượng chất carbon thấp, tác dụng cải tạo về mặt vi sinh vật đất và vật lý đất hạn chế (Vũ Hữu Yêm, 2005). - Các loại phân có trộn thêm vi sinh vật cần chú ý hạn sử dụng, vì vi sinh vật chỉ có thể sống được trong một thời hạn nhất định ở ầm độ thấp, nếu quá thời hạn sử dụng phân không còn tác dụng về mặt vi sinh vật. Bón phân hữu cơ cho rau Đối với các loại rau ăn lá , bộ rễ ăn cạn, thời gian sinh trưởng ngắn , việc bón phân hữu cơ rất cần thiết. Trên đất thịt pha cát, bón lót phân hữu cơ sẽ giúp giữ phân, giữ nước tốt; trên đất sét nặng giúp đất tơi xốp, rễ phát triển mạnh, cung cấp thêm nhiều dinh dưỡng cho cây. Có thể bón lót từ 5-10 tấn phân chuồng /ha . Trên các loại rau an quả như dưa lê, có thể bón lót 5-10 tấn/ha, dưa hấu có thể bón lót từ 10-15 tấn/ha. Tuy nhiên tuỳ điều kiện nguồn phân có sẳn, có thể bón ít hơn 1-3 tấn, nhưng bón hằng vụ để cải tạo đất. PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP PHƯƠNG TIỆN Địa điểm khảo sát Thí nghiệm trên đất trồng rau tại phường Long Tuyền - Quận Bình Thuỷ thành phố Cần Thơ. Mẫu đất Các mẫu đất được lấy ở tầng mặt canh tác 0-10 cm, từ 10-20cm và từ 20-40cm. Các trang thiết bị hỗ trợ Các phương tiện vრ trang thiết bị phục vụ cho việၣ phân tích và xác định các chỉ tiêu vật lý và hoá học đất của phòng thí nghiệm vật lý đất và hoს học đất của Bộ môn Khoa học đấၴ và Quản lý đất đai, Khoa nჴng nghiệp và Sinh học ứng dụng, Trường Đại học Cần Thơ. Phᆰơng pháp Các bước thực hiện Bố trí thí nghiệm: Thí nghiệm đượcဠbố trí hoàn toàn ngẫu nhiên, gồၭ 2 thí nghiệm khác nhau: dưa hấu và dưa lê. Mỗi thí nghiệm đượcဠthực hiện qua hai vụ trồng : Hè Thu 2006 và Đông Xuân 2006 – 20ူ7. Mỗi lô 20 m2. * Thí nghiệm dưa hấu: + Nghiệm thức 1: không bón hữu cơ, bón phân theo nông dân (200-170-120). + Nghiệm thức 2: có bón hữu cơ vi sinh 10 tấn/ha + phân vô cơ theo khuyến cáo (150-90-100). * Thí nghiệm dưa lê: + Nghiệm thức 1: không bón hữu cơ, bón phân theo nông dân (200-170-120). + Nghiệm thức 2

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docẢnh hưởng của việc bón phân hữu cơ lên năng suất và tính chất vật lý của đất trồng dưa hấu, dưa lê ở phường Long Tuyền- quận Bình Thuỷ, thành phố Cần .DOC
Tài liệu liên quan