Đề tài Bài chuẩn bị thí nghiệm truyền số liệu -Trường đại học Bách Khoa TP Hồ Chí Minh - Bài số 3

Static routing là việc chúng ta sử dụng các Static Route để dẫn đường

cho gói tin. Định tuyến tĩnh (Static Routing) là người quản trị mạng phải

nhập các thông tin về đường đi cho router. Khi cấu trúc mạng có xảy ra

bất kỳ sự thay đổi nào thì chính người quản trị mạng phải xóa hoặc thêm

các thông tin về đường đi cho router. Đường đi như vậy được gọi là

đường cố định. Đối với hệ thống mạng lớn thì công việc bảo trì bảng

định tuyến cho router như vậy tốn rất nhiều thời gian. Nhưng đối với hệ

thống mạng nhỏ, ít có thay đổi thì công việc này đỡ mất công hơn.

Chính vì định tuyến tĩnh đòi hỏi người quản trị phải cấu hình mọi thông

tin về đường đi cho router nên nó không có tính linh hoạt như định tuyến

động (Dynamic Routing).

pdf6 trang | Chia sẻ: lethao | Lượt xem: 4131 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Bài chuẩn bị thí nghiệm truyền số liệu -Trường đại học Bách Khoa TP Hồ Chí Minh - Bài số 3, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Câu 2 Phụ thuộc vào loại giao thức  RIP tính metric dựa trên hop count  Metric của IGRP là tổ hợp của các thành phần : bandwidth, delay, load, reliability. Mặc định của metric là bandwidth và delay. Ta có thể tưởng tượng liên kết dữ liệu (data link) như là một cái ống thì bandwidth như là chiều rộng của ống còn delay như là chiều dài của ống. Nói cách khác bandwidth là thước đo khả năng mang thông tin và delay là độ trễ cần thiết để một bít truyền đến đích. Bandwidth: được biểt diễn với đơn vị là kbps, là một thông số được sử dụng để IGRP sử dụng để chạy thuật toán Bellman-Ford. Nó là một thông số tĩnh có thể thay đổi bởi người quản trị không liên quan gì đến bandwidth thật của đường truyền. BW = [10000000/(bandwidth in Kilobits per second)] Delay: giống như bandwidth là một thông số tĩnh có thể được cấu hình bằng tay. Delay = [Delay in 10s of microseconds] Reliability: là một thông số động, được biểu diễn bởi một số 8bit. được tính số lượng gói tin đến đích mà không bị hỏng. Reliability có giá trị 255 có nghĩa là 100% gói tin không bị hỏng, giá trị nhỏ nhất là 1. Load: là một phần băng thông sử dụng trên đường truyền, được biểu diễn bởi một số 8 bit. Load có giá trị là 255 nghĩa là sử dụng 100%, 1 là giá trị nhỏ nhất. Mặc định: K1 = 1, K2 = 0, K3 = 1, K4 = 0, K5 = 0. Các hăng số trên có thể được thay tuỳ theo mục đích của người quản trị. Nên vì vậy theo mặc định thì metric = bandwidth + delay * Nhớ đổi bandwidth thành Kbps rồi mới đưa vào công thức nhé, rất nhiều người quên nên đưa cả Mbps vào Câu 3 Static Routing và Dynamic Routing. 1. Static routing là việc chúng ta sử dụng các Static Route để dẫn đường cho gói tin. Định tuyến tĩnh (Static Routing) là người quản trị mạng phải nhập các thông tin về đường đi cho router. Khi cấu trúc mạng có xảy ra bất kỳ sự thay đổi nào thì chính người quản trị mạng phải xóa hoặc thêm các thông tin về đường đi cho router. Đường đi như vậy được gọi là đường cố định. Đối với hệ thống mạng lớn thì công việc bảo trì bảng định tuyến cho router như vậy tốn rất nhiều thời gian. Nhưng đối với hệ thống mạng nhỏ, ít có thay đổi thì công việc này đỡ mất công hơn. Chính vì định tuyến tĩnh đòi hỏi người quản trị phải cấu hình mọi thông tin về đường đi cho router nên nó không có tính linh hoạt như định tuyến động (Dynamic Routing). 2. Dynamic routing là việc chúng ta dựa vào các giao thức định tuyến động - Dynamic Routing Protocol để dẫn đường cho gói tin. Câu 4 Link-state: Linkstate không gởi routing-update, mà chỉ gởi tình trạng [state] của các cái link trong linkstate-database của mình đi cho các router khác, để rồi tự mỗi router sẻ chạy giải thuật shortest path first (bởi vậy mới có OSPF - open shortest path first) , tự build bãng routing-table cho mình . Sau đó khi mạng đả hội tụ , link-state protocol sẻ không gởi update định kỳ như Distance-vector , mà chỉ gởi khi nào có một sự thay đổi nhất trong topology mạng (1 line bị down , cần sử dụng đường back- up) Ưu điểm:  - Scalable: có thể thích nghi được với đa số hệ thống , cho phép người thiết kế có thễ thiết kế mạng linh hoạt , phản ứng nhanh với tình huống sảy ra.  - Do không gởi interval-update , nên link state bảo đảm được băng thông cho các đưởng mạng . Khuyết điểm:  - Do router phải sử lý nhiều , nên chiếm nhiều bộ nhớ lẩn CPU , -- >tăng delay .  - Một khuyết điểm khá ngộ nửa là : linkstate khá khó cấu hình để chạy tốt , những người làm việc có kinh nghiệm lâu thì mới cấu hình tốt được , do đó các kỳ thi cao cấp của Cisco chú trọng khá kỷ đến linkstate Distance Vector: RIP, IGRP. Hoạt động theo nguyên tắt "hàng xóm", nghỉa là mổi router sẻ gửi bảng routing-table của chính mình cho tất cả các router được nối trực tiếp với mình . Các router đó sau đo so sánh với bản routing-table mà mình hiện có và kiểm xem route của mình và route mới nhận được, route nào tốt hơn sẻ được cập nhất . Các routing-update sẻ được gởi theo định kỳ (30 giây với RIP , 60 giây đối với RIP-novell , 90 giây đối với IGRP) . Do đó , khi có sự thay đổi trong mạng , các router sẻ biết được khúc mạng nào down liền. Ưu điểm : Dể cấu hình . router không phải sử lý nhiều -->CPU và MEM còn rảnh để làm việc khác . Tuy nhiên nhược điểm thì hơi bị nhiều :  - Thứ nhất: hệ thống metric quá đơn giản (như rip chỉ là hop-count ) nên có thể sẩy ra việc con đường "tốt nhất" chưa phãi là tốt nhất (^-^) .  - Thứ 2: Do phải cập nhật định kỳ các routing-table , nên một lượng bandwidth đáng kể sẻ bị chiếm , làm trong thoughput sẻ mất đi (mặc dù mạng không gì thay đổi nhiều) .  - Cuối cùng và trầm trọng nhất là do các Router hội tụ chậm , sẻ dẩn đến việc sai lệch trong bảng route-->Routing LOOP!!!!!!. Câu 5  R1(config)#ip route 172.16.1.0 255.255.255.0 172.16.2.2  R1(config)#ip route 192.168.1.0 255.255.255.0 172.16.2.2  R1(config)#ip route 192.168.2.0 255.255.255.0 172.16.2.2  R2(config)#ip route 172.16.3.0 255.255.255.0 172.16.2.1  R2(config)#ip route 192.168.2.0 255.255.255.0 192.168.1.1  R3(config)#ip route 172.16.3.0 255.255.255.0 192.168.1.2  R3(config)#ip route 172.16.1.0 255.255.255.0 192.168.1.2  R3(config)#ip route 172.16.2.0 255.255.255.0 192.168.1.2 Câu 6 mô hình của bạn như sau: SW-E0----->----E1_Router1_S1------>-----S1_Router2_E0--->---LANA Khi đó thì từng miền broadcast(xác định bởi các interface của router) phải sử dụng các địa chỉ subnet khác nhau. Việc đặt địa chỉ và chia subnet như nào mình không nói ở đây vì rất nhiều tài liệu CCNA đã nói rồi. Mình chỉ xét 1 ví dụ với các địa chỉ như sau: SW_E0:192.168.1.1 /24, E1_R1:192.168.1.2/24 R1_S1: 192.168.2.1/24, S1_R2:192.168.2.2/24 R2_E0:192.168.3.1/24, LANA: 192.168.3.0/24 Như vậy, nếu sử dụng định tuyến động, chẳng hạn là RIP, thì bạn cấu hình như sau: Trên router 1: (config)#router rip (config-router)#network 192.168.1.0 (config-router)#network 192.168.2.0 Trên Router 2: (config)#router rip (config-router)#network 192.168.2.0 (config-router)#network 192.168.3.0 Nếu dùng định tuyến tĩnh bằng lệnh IP route, để xác định route đến LAN A: R1(config)#ip route 192.168.3.0 255.255.255.0 S1 hoặc R1(config)#ip route 192.168.3.0 255.255.255.0 192.168.2.2 (Cú pháp lệnh ip route: ip route destination_Network_Address subnet_mask_of_Destination_network Next_hop_Address/Local_Interface) NGược lại, trên router 2: R1(config)#ip route 192.168.1.0 255.255.255.0 S1 hoặc R1(config)#ip route 192.168.1.0 255.255.255.0 192.168.2.1

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfBài chuẩn bị thí nghiệm truyền số liệu -trường ĐH Bách Khoa TP HCM - Bài số 3.pdf