Đề tài Bàn về những cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam trong quá trình hội nhập sau khi Trung Quốc gia nhập WTO

 

Lời mở đầu 1

Phần I : Hội nhập và các nhân tố ảnh hưởng tới hội nhập quốc tế 2

1.1 Khái niệm về hội nhập 2

1.2 Các giai đoạn của quá trình hội nhập 2

1.3 Những lợi ích kinh tế chủ yếu thu được từ hội nhập 3

1.4 Một số nguyên tắc chung khi tham gia hội nhập quốc tế 5

1.5 Những nhân tố ảnh hưởng tới hội nhập quốc tế của Việt Nam 6

Bảng 1 : so sánh về sức cạnh tranh 6

Phần II : Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam 13

2.1 Khái niệm và cách phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ 13

2.2 Các tiêu thức xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ 14

Bảng 2 : Các tiêu thức chủ yếu để xác định doanh 15

2.3 Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế quốc dân 15

2.3.1 SMEs tạo công ăn việc làm cho người lao động 15

2.3.2 SMEs tạo ra thu nhập bảo đảm đời sống của người lao động 16

2.3.3 Doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng tận dụng các nguồn lực xã hội 16

2.3.4 SMEs có tác dụng quan trọng đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta. 17

2.4 Những ưu điểm và hạn chế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong quá trình hội nhập 18

2.4.1 Những ưu điểm 18

2.4.2 Những hạn chế 19

Phần III : Những cơ hội và thách thức đặt ra đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam sau khi Trung Quốc ra nhập WTO. 21

3.1 ý nghĩa và ảnh hưởng của kinh tế khu vực và thế giới từ sau khi Trung Quốc ra nhập WTO 21

3.2 Những cơ hội và thách thức đối với các SMEs Việt Nam 22

3.2.1 Những thách thức 22

3.2.2 Những cơ hội 27

3.3 Một vài kiến nghị 28

3.3.1 Về phía các doanh nghiệp vừa và nhỏ : 29

3.3.2 Về phía Nhà nước : 30

3.3.3 Về phía người tiêu dùng trong nước : 31

3.3.4 Vấn đề nâng cao ý thức của cộng đồng 32

Kết luận 33

Tài liệu tham khảo 34

 

 

doc36 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1316 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bàn về những cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam trong quá trình hội nhập sau khi Trung Quốc gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
an tâm hơn đến đào tạo nguồn nhân lực thì không thể thích ứng với tình hình mới. Hiện nay chúng ta đang thiếu một cách trầm trọng các công nhân kĩ thuật, các nhà quản lý có trình độ chuyên môn cao đặc biệt là trong sản xuất Công nghiệp do những bất cập trong công tác đào tạo và hướng nghiệp. Nhân tố con người chính là nhân tố quyết định trong phát triển kinh tế trong khi nhận thức về vấn đề này chưa đầy đủ, nền giáo dục còn lạc hậu quá nhiều so với Thứ sáu, phải nói rằng Công nghệ của chúng ta còn quá yếu kém, lạc hậu. Trình độ công nghệ của Việt Nam hiện tại tụt hậu khoảng 25 - 30 năm so với Tháilan dẫn đến chi phí cho đầu vào cao hơn từ 30% - 50% so với các đối tác ASEAN khác. Đấy là so sánh với các nước trong khu vực, các nước có trình độ sản xuất khá gần với ta còn như vậy thì nếu so sánh với các nước phát triển ở phương Tây hay Mĩ thì chúng ta sẽ xếp ở hàng thứ bao nhiêu? Và liệu bao giờ chúng ta mới có thể đuổi kịp họ? Tuy rằng nước ta được thiên nhiên ưu đãi với nhiều nguồn tài nguyên phong phú đa dạng nhưng nền Công nghiệp của Việt Nam lại không phát triển đầy đủ, các ngành Công nghiệp chủ yếu là công nghiệp nhẹ và khai khoáng xuất khẩu sản phẩm thô, hàm lượng kĩ thuật trong sản phẩm không cao. Công nghiệp nhẹ với các mặt hàng chủ lục và có ưu thế trong xuất khẩu là hàng may mặc,đồ da giày, thực phẩm ... Còn công nghiệp khai khoáng thì trình độ công nghệ thấp dẫn đến sự khai thác không hợp lý và lãng phí các nguồn lực. Khả năng chế biến nguyên liệu thô khai thác được gần như là không có. Các mỏ dầu khí của ta ở thềm lục địa có trữ lượng lớn đã được Nga hỗ trợ ban đầu rất nhiều trong việc khai thác nhưng chúng ta cũng mới chỉ dừng ở việc xuất khẩu dầu thô với giá rẻ. Hay trong xuất khẩu cà phê cũng vậy, Việt Nam chỉ dừng ở việc xuất khẩu cà phê hạt chứ chưa có đủ trình độ sản xuất cà phê bột, như vậy chúng ta xuất khẩu cà phê hàng năm vào hàng cao trên thế giới nhưng lại phải nhập khẩu àa phê bột từ nước ngoài với giá cao. Như vậy vấn đề tiềm ẩn trong hội nhập kinh tế AFTA là liệu các nước kém phát triển có trở thành nhà cung cấp nguyên liệu thô như thời kì thuộc địa hay không? Không những thế việc phân bố các khu công nghiệp cũng còn nhiều điều bất hợp lý cần phải xem xét và điều chỉnh lại. Thứ bảy, nhận thức của các nhà quản lý doanh nghiệp về vấn đề hội nhập còn hạn chế. Phần lớn, các doanh nghiệp chưa chuẩn bị chu đáo cho quá trình hội nhập, chưa đưa ra được các chính sách, chiến lược thích ứng để tham gia AFTA hay WTO Khảo sát 66 doanh nghiệp của Báo Sài Gòn Tiếp Thị mới đây cũng cho thấy : chỉ có hơn 1/2 doanh nghiệp có các cuộc họp chính thức bàn luận về AFTA ; hơn 1/2 doanh nghiệp có giao nhiệm vụ chính thức cho các cá nhân hay bộ phận trong công ty nghiên cứu về AFTA. Ngành dệt, da, may, tuy có nhiều doanh nghiệp nghiên cứu về AFTA sớm nhất, nhưng có gần 1/3 tổng số doanh nghiệp cho biết chưa xác định được chính sách và biện pháp đối với AFTA. Tuy nhiên có một số các doanh nghiệp thành công và đã chuẩn bị đầy đủ cho hội nhập . Đó là số doanh nghiệp tìm cách đương đầu hội nhập từ rất sớm và đến nay thì khá bình tĩnh, tự tin, điển hình là Vinamilk. Ngay từ những năm cuối 1999 - 2000, Vinamilk đã có ý thức đưa các sản phẩm sữa, bột dinh dưỡng ... vào các thị trường ASEAN để làm quen trước khi họ vào đến mình. Còn tại sân nhà, Vinamilk đã liên tục đưa ra các sản phẩm mới, chất lượng cao nhưng giá thành thấp so với các sản phẩm nhập, để " đuổi " đối thủ. Mạng lưới phân phối của Vinamilk phủ kín cấp xã. Công ty TNHH Kinh Đô, ngoài việc phủ kín thị trường nội địa, xuất khẩu sang các thị trường ASEAN ... mới đây còn dự định đầu tư một nhà máy sản xuất ngay trên đất Mĩ. Đây là một số doanh nghiệp tiêu biểu thích hợp cho quá trình hội nhập, các kinh nghiệm của mô hình này cần phải được nhân rộng, phổ biến cho các doanh nghiệp khác học tập và chuẩn bị cho tiến trình hội nhập thật tốt. Phần II : Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam 2.1 Khái niệm và cách phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là vấn đề được Nhà nước quan tâm đặc biệt. Vì sự thành đạt của một quốc qia phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của các doanh nghiệp. Mà trong giai đoạn đầu phát triển của cơ chế thị trường thì doanh nghiệp qui mô vừa và nhỏ có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Để nhận biết doanh nghiệp vừa và nhỏ một cách có cơ sở khoa học, chúng ta hãy đi từ việc xác định doanh nghiệp nói chung. Doanh nghiệp là một tổ chức kinh doanh, thực hiện các hoạt động sản xuất, cung ứng trao đổi hàng hoá trên thị trường theo nguyên tắc tối đa hoá lợi ích của người tiêu dùng, thông qua đó tối đa hoá lợi ích của chủ sở hữu tài sản của doanh nghiệp. Hiện nay người ta phân loại doanh nghiệp theo nhiều cách khác nhau, tuỳ theo tính chất hoạt động, ngành kinh tế kỹ thuật, nguồn vốn sở hữu, quy mô doanh nghiệp và tính chất quản lý. Theo ngành nghề kĩ thuật, có doanh nghiệp công nghiệp, nông-lâm-ngư nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ Theo hình thức sở hữu, có hình thức doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân Theo cấp quản lý, có doanh nghiệp trung ương, doanh nghiệp địa phương. Theo qui mô, trình độ sản xuất kinh doanh, có doanh nghiệp quy mô lớn, doanh nghiệp quy mô vừa, doanh nghiệp quy mô nhỏ. Ngoài ra, còn các cơ sở sản xuất kinh doanh không chính thức thành lập doanh nghiệp thuộc loại doanh nghiệp “siêu nhỏ”. Theo tính chất hoạt động, tức là theo yêu cầu xã hội và cơ chế thị trường, có doanh nghiệp sản xuất hàng hoá công cộng, không nhằm mục tiêu lợi nhuận là hàng đầu như công ty môi trường đô thị, công ty công viên và có những doanh nghiệp nhằm mục tiêu lợi nhuận tối đa. Việc phân loại các loại hình doanh nghiệp chỉ mang tính chất tương đối vì trên thực tế có rất nhiều doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh mang tính chất tổng hợp, đa ngành hoặc có sự đan xen nhiều chủ sở hữu về tư liệu sản xuất. 2.2 Các tiêu thức xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ Thuật ngữ “doanh nghiệp vừa và nhỏ” ở các nước phương Tây gọi là SME (Small and Medium Enterprise), có nghĩa là các cơ sở sản xuất kinh doanh có qui mô tương đối nhỏ. Nhưng nếu muốn nói một cách chính xác rằng qui mô không lớn lắm đến đâu hoặc qui mô như thế nào thì gọi là “nhỏ” cần phải dựa vào những tiêu thức để xem xét. Việc xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ của một nước thường được cân nhắc đối với từng giai đoạn phát triển kinh tế, tình hình làm việc nói chung trong cả nước và tính chất nền kinh tế hiện hành của nước đó. Việc xác định các doanh ngiệp vừa và nhỏ không có tính chất cố định mà có xu hướng thay đổi theo tính chất những hoạt động của nó, mục đích của việc xác định và mức độ phát triển doanh nghiệp. Tiêu chuẩn được sử dụng để xác định doanh nhgiệp vừa và nhỏ là : Thứ nhất, tổng vốn đầu tư được huy động vào sản xuất kinh doanh, giá trị tài sản cố định, giá trị bằng tiền của sản phẩm bán hoặc dịch vụ, lợi nhuận, vốn bình quân cho một lao động, doanh thu Để tiện cho việc so sánh quốc tế người ta thường qui đổi ra loại tiền thông dụng trong giao dịch quốc tế như USD Thứ hai, số lao động được sử dụng thường xuyên, tiêu thức này rất thuận tiện cho việc so sánh quốc tế bởi nó không dễ dàng chịu ảnh hưởng của những khác biệt giữa các quốc gia về mức thu nhập hay những thay đổi trong giá trị đồng tiền nội địa hiện hành qua các thời kỳ khác nhau. Tuỳ thuộc và điều kiện cụ thể của mỗi nước mà người ta quan tâm đến độ lớn của mỗi tiêu thức lao động, tổng vốn đầu tư hoặc doanh thutrong các ngành, nhóm ngành khác nhau. Hàn Quốc là một nước công nghiệp trẻ, đạt được nhiều thành công chính là từ các Smes, có những tiêu chuẩn phân loại các Smes như sau : Trong lĩnh vực chế tạo, khai thác, xây dựng, doanh nghiệp có dưới 300 lao động thường xuyên và tổng vốn đầu tư dưới 600.000 USD đựơc coi là các Smes, dưới 20 lao động được coi là nhỏ. Trong lĩnh vực thương mại, doanh nghiệp dưới 20 lao động thường xuyên và doanh thu dưới 500.000 USD/năm (nếu là bán lẻ) và dưới 250.000USD/năm (nếu là bán buôn) được coi là các Smes, dưới 5 lao động thường xuyên gọi là nhỏ. Đối với nước ta, khái niệm “doanh nghiệp vừa và nhỏ” đã được các địa phương, các ngành vận dụng một cách khác nhau. Tại Hội thảo “ Phát triển các xí nghiệp vừa và nhỏ theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” tổ chức tại Trung tâm triển lãm Giảng Võ, Hà Nội, đã xuất hiện nhiều cách xác định về doanh nghiệp vừa và nhỏ như sau : Bảng 2 : Các tiêu thức chủ yếu để xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam Phạm vi xác định Qui mô doanh nghiệp Vốn ( tỷ đồng ) Lao Động (Người) Doanh thu hàng năm ( tỷ đồng ) Thành phố Hồ Chí Minh Loại vừa > 1 > 100 > 10 Loại nhỏ < 1 < 100 < 10 Ngân hàng công thương Việt Nam Loại vừa và nhỏ < 18 < 500 < 20 Đồng Nai Loại vừa - - < 100 Loại nhỏ - - Các chuyên gia kinh tế Loại vừa > 0,3 > 50 - Loại nhỏ 0,1 – 0,3 5 - 50 - (-) Không có số liệu Nguồn : Thông tư Liên bộ Bộ lao động –Thương binh và xã hội Tham luận Hội thảo khoa học về doanh nghiệp vừa và nhỏ 2.3 Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế quốc dân 2.3.1 SMEs tạo công ăn việc làm cho người lao động Xét trên góc độ giải quyết việc làm thì doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn đóng vai trò quan trọng hơn các doanh nghiệp lớn, đặc biệt trong thời kì suy thoái kinh tế. Lịch sử phát triển kinh tế của các nước công nghiệp phát triển cũng như thời kỳ đầu đổi mới của Việt Nam đã chỉ ra rằng : khi nền kinh tế suy thoái, các doanh nghiệp lớn phải giảm lao động để giảm chi phí sản xuát tới mức có thể tồn tại và phát triển được , vì cầu của thị trường thấp hơn cung của thị trường. Nhưng đối với các doanh ngiệp vừa và nhỏ do đặc tính linh hoạt, uyển chuyển dễ thích ứng với sự thay đổi của thị trường nên nó vẫn có thể hoạt động được, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ. Do đó, doanh nghiệp vừa và nhỏ không những không giảm lao động mà vẫn có thể thu hút thêm lao động Hội đồng doanh nghiệp nhỏ thế giới cho rằng : “ doanh nghiệp vừa và nhỏ là liều thuốc cuối cùng chữa trị bệnh thất nghiệp khi mà nền kinh tế suy thoái”. 2.3.2 SMEs tạo ra thu nhập bảo đảm đời sống của người lao động ở Việt Nam tính đến 31/02/1995 cả nước đã có 12.190 công ty, doanh nghiệp tư nhân được hình thành theo luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân, trong đó có 8694 doanh nghiệp tư nhân, 104 công ty cổ phần, 3392 công ty trách nhiệm hữu hạn. Ngoài ra còn có hàng triệu các cơ sở kinh daonh dịch vụ, vận tải hộ cá thể. Chỉ tính riêng trong lĩnh vực công nghiệp, thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch, vận tải, xây dựng, thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã thu hút được 3.5 triệu lao động, chiếm 11% tổng số lao động xã hội cả nước, đã đầu tư 4150 tỷ đồng trong tổng số 9100 tỷ đồng đầu tư của khu vực này. Khảo sát 49 doanh nghiệp ở thị xã Hà Đông cuối năm 1999, cho thấy thu nhập bình quân của người lao động trong các doanh nghiệp như sau : 10% số doanh nghiệp có thu nhập dưới 200.000 Đ/tháng, 18% số doanh nghiệp có thu nhập từ 200.000 - 300.000 Đ/tháng, 51% các doanh nghiệp có thu nhập từ 300.000 - 400.000 Đ/tháng, 21% số doanh nghiệp có thu nhập từ 400.000 – 450.000 Đ/tháng. Tính chung cho các doanh nghiệp, thì thu nhập bình quân của người lao động đạt 350.000 Đ/tháng. Điều đó phản ánh năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vừa và nhỏ cao hơn sản xuất cá thể và hộ gia đình nông nghiệp thuần tuý. 2.3.3 Doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng tận dụng các nguồn lực xã hội Thứ nhất, Về tiền vốn, doanh nghiệp vừa và nhỏ thường khởi sự ban đầu bằng nguồn vốn hạn hẹp của cá nhân, sự tài trợ bên ngoài là hết sức hạn chế. Do dễ khởi sự bằng nguồn vốn ít ỏi nên doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ được đông đảo nhân dân tham gia hoạt động, qua đó thu hút được nguồn vốn trong nhân dân vào sản xuất kinh doanh. Ước tính trên 400.000 doanh nghiệp công nghiệp ở mọi thành phần kinh tế đã thu hút khoảng 25.000 tỷ đồng, chưa kể phần thu hút hàng ngàn tỷ đồng nhàn rỗi khác phục vụ cho nhu cầu ngắn hạn về vốn của doanh nghiệp. Thứ hai, Về lao động, doanh nghiệp vừa và nhỏ thường nhằm vào mục tiêu sản xuất kinh doanh phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, sử dụng nhiều lao động, ít vốn. Do đó, phần lớn lao động trong khu vực này không đòi hỏi phải có trình độ cao, phải đào tạo nhiều thời gian và chi phí tốn kém, chỉ cần bồi dưỡng hoặc đào tạo ngắn ngày là người lao động có thể tham gia sản xuất trong doanh nghiệp. Thứ ba, Về mặt kỹ thuật, doanh nghiệp Smes thường lựa chọn kỹ thuật phù hợp với trình độ lao động và khả năng về vốn, họ kết hợp kỹ thuật thủ công với kỹ thuật mà quảng đại quần chúng lao động có thể nhanh tróng tiếp thu và làm chủ trong sản xuất. Họ ít sử dụng những thiết bị tiên tiến hiện đại đòi hỏi vốn lớn, đào tạo sử dụng lâu, tốn kém kinh phí. Do đó, phần lớn các trang thiết bị của các Smes là sản phẩm trong nước. Thứ tư, Về nguyên vật liệu, doanh nghiệp Smes với nguồn vốn ít, lao động thủ công là chủ yếu, do vậy nguồn nguyên liệu được sử dụng chủ yếu là tại chỗ, thuộc phạm vi địa phương, dễ khai thác, sử dụng, qua đó cũng tạo điều kiện giải quyết việc làm trong khu vực, rất ít doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu nhập ngoại. Cuộc khảo sát 1000 doanh nghiệp nhỏ cho thấy 80% nguồn nguyên vật liệu cung ứng cho các doanh nghiệp là ở tại địa phương. 2.3.4 SMEs có tác dụng quan trọng đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta. Quá trình phát triển doanh nghiệp Smes cũng là quá trình cải tiến máy móc thiết và thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm để đáp nhu cầu thị trường, đến một mức độ nào đó nhất định sẽ dẫn đến đổi mới công nghệ, làm cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước diễn ra không chỉ ở chiều sâu mà cả ở chiều rộng. Doanh nghiệp Smes phát triển làm cho công nghiệp và dịch vụ phát triển dẫn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng ngày một tốt hơn, đặc biệt là ở vùng nông thôn. 2.4 Những ưu điểm và hạn chế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong quá trình hội nhập 2.4.1 Những ưu điểm Doanh nghiệp vừa và nhỏ có những lợi thế rõ ràng, đó là khả năng thoả mãn nhu cầu có hạn trong những thị trường chuyên môn hoá, khuynh hướng sử dụng nhiều lao động với trình độ kỹ thuật trung bình thấp, đặc biệt là sự mềm mại và nhanh tróng thích nghi với các nhu cầu và thay đổi của kinh tế thị trường, doanh nghiệp Smes có thể bước vào các thị trường mới mà không hút sự chú ý các doanh nghiệp lớn, và sẵn sàng phục vụ ở các nơi xa xôi nhất hoặc các khoảng trống vừa và nhỏ của thị trường. Chính vì vậy, nó có nhiều điểm mạnh : Thứ nhất, Dễ dàng khởi sự và năng động nhạy bén với thị trường. Doanh nghiệp Smes chỉ cần một số vốn hạn chế, một mặt bằng nhỏ hẹp đã có thể khởi sự doanh nghiệp. Vòng quay sản phẩm nhanh do đó có thể sử dụng vốn tự có, hoặc vay bạn bè, người thân dễ dàng, tổ chức quản lý gọn nhẹ dễ quyết định, khi nhu cầu thị trường thay đổi hoặc doanh nghiệp gặp khó khăn, thì dễ dàng thay đổi tình thế, nội bộ dễ thống nhất. Thứ hai, Dễ phát huy bản chất hợp tác. Các Smes chỉ tiến hành một hoặc một vài công đoạn trong quá trình sản xuất một sản phẩm hoàn chỉnh, mà các công đoạn sản xuất phải kết hợp với nhau để hoàn thành một sản phẩm hoàn chỉnh đưa ra tiêu thụ trên thị trường, do đó các doanh nghiệp phải tự hoàn thiện bản thân mình và tiến hành hợp tác sản xuất, nếu không sẽ bị đào thải. Thứ ba, Thu hút nhiều lao động, hoạt động hiệu quả với chi phí cố định thấp. Các Smes, do nguồn vốn ít vì vậy đầu tư vào tài sản cố định cũng ít, họ thường tận dụng lao động thay thế cho vốn, đặc biệt là các nước có lực lượng lao động dồi dào và gía công lao động thấp như nước ta, để tiến hành sản xuất kinh doanh phục vụ dân sinh, và thường họ đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao. Thứ tư, Không có hoặc ít có xung đột giữa nguời lao động và người sử dụng lao động. Do qui mô vừa và nhỏ, sự ngăn cách giữa người lao động và người sử dụng lao động không lớn, và bản thân người chủ, người sử dụng lao động luôn sát với công việc của người lao động, do vậy nếu có xung đột, mâu thuẫn cũng dễ dàng giải quyết. Thứ năm, Có thể phát huy tiềm lực của thị trường trong nước. Sự phát triển của các Smes ở giai đoạn đầu là phương thức tốt để sản xuất thay thế nhập khẩu. Các nước đang phát triển như nước ta, chỉ cần lựa chọn một số mặt hàng để sản xuất thay thế nhập khẩu với mức chi phí và vốn đầu tư thấp, kỹ thuật không phức tạp, sản phẩm phù hợp với sức mua của người dân, từ đó nâng cao năng lực sản xuất và sức mua của thị trường. Thứ sáu, Về tiềm năng phát triển. Qua thực tế sản xuất kinh doanh, mạng lưới các Smes trên khắp mọi miền của đất nước đã đào tạo, sàng lọc các nhà doanh nghiệp, và là nơi đào tạo hữu hiệu nhất. Mặt khác, quá trình phát triển của Smes là quá trình tích tụ vốn, tìm kiếm mở mang thị trường,để phát triển thành doanh nghiệp lớn. Các Smes có một lợi thế là mới phát triển, quy mô nhỏ bé, tồn tại trong mọi thành phần kinh tế và đang trong quá trình chuyển hoá, do đó có nhiều thuận lợi để phát triển, nó chưa chịu ảnh hưởng lớn của độc quyền và cạnh tranh quyết liệt với nhau cho nên nhu cầu của thị trường còn rộng lớn. Do đó, nếu tận dụng hết khả năng của mình thì chắc chắn các Smes Việt Nam sẽ là một lực lượng nòng cốt cho sự phát triển của kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập nhiều khó khăn và thử thách. 2.4.2 Những hạn chế Sản xuất-kinh doanh của các doanh nghiệp Smes đạt hiệu quả thấp diễn ra có tính chất phổ biến trong tất cả các ngành, các loại hình sở hữu, nguyên nhân chính là do giá cả, chất lượng sản phẩm không đáp ứng được yêu cầu của thị trường trong và ngoài nước. Loại trừ các yếu tố bên ngoài như buôn lậu tràn lan, sự độc quyền có ảnh hưởng đến giá cả, chất lượng sản phẩm không đáp ứng được yêu cầu của thị trường trong và ngoài nước của các Smes, thì các yếu tố của môi trường kinh tế – xã hội và bản thân doanh nghiệp Smes tác động nhân quả với nhau dẫn đến yếu kém của nó. Theo cách phân tầng thì có 8 vấn đề ảnh hưởng trực tiếp : Một là, chi phí vận chuyển qua cao. Hai là, vai trò hợp đồng phụ nhận thức chưa đúng. Ba là, thiếu thông tin về thị trường trong và ngoài nước. Bốn là, khó khăn về tài chính. Năm là, công nghệ, kỹ thuật thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém . Sáu là, nhu cầu đào tạo của doanh nghiệp Smes chưa được đánh giá đúng. Bảy là, nguồn nguyên liệu đầu vào còn thiếu và đôi khi phải dựa vào nhập khẩu. Tám là, sản xuất nguyên vật liệu đầu vào chất lượng cao ở trong nước còn hạn chế. Chín là, hệ thống chính sách không công bằng giữa các loại hình doanh nghiệp. Đánh giá và nhận ra những mặt yếu của mình và khắc phục nó là một yếu tố quan trọng quyết định thành công. “Biết mình biết người, trăm trận trăm thắng” sẽ là lời khuyên tốt nhất cho các Smes trong giai đoạn hiện nay. Nhận thức được những khó khăn từ hội nhập và biến những cơ hội có được từ sự chuyển đổi thành hiện thực, nhất định các Smes sẽ thành công. Phần III : Những cơ hội và thách thức đặt ra đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam sau khi Trung Quốc ra nhập WTO. 3.1 ý nghĩa và ảnh hưởng của kinh tế khu vực và thế giới từ sau khi Trung Quốc ra nhập WTO Không phải ngẫu nhiên mà đại diện thương mại Mỹ Robert Zoellick đã nói trong cuộc họp tại Quata vừa qua rằng “ Với việc kết nạp Trung Quốc vào WTO, chúng ta đã thực hiện một bước quyết định trong việc định hình hệ thống kinh tế và thương mại toàn cầu”. Còn cao uỷ thương mại EU Pascal lamy thì nói rằng “Đây là một quyết định lịch sử, một bước tiến lớn nhất của WTO để trở thành một tổ chức mang tính toàn cầu”. Với dân số 1.3 tỷ người, nguồn thu nhập quốc dân 980 tỷ USD, chiếm 3,3% GDP của thế giới, khối lượng ngoại thương về hàng hoá là 474,4 tỷ USD, chiếm khoảng 8% thế giới, Trung Quốc là thị trường tiềm năng về đầu tư và xuất khẩu. Chính vì vậy, trở thành thành viên của WTO, thị trường Trung Quốc sẽ mở rộng hàng hoá của các nước thành viên khác, đồng thời hàng hoá của nước này sẽ tự do thâm nhập vào thị trường thế giới, dẫn đến những biến đổi đáng kể đến cán cân buôn bán thế giới cũng như luồng FDI. Trước hết, Trung Quốc gia nhập WTO sẽ ảnh hưởng tới kinh tế các đối tác chủ yếu của Trung Quốc như các nước OECD, ASEAN, NIE châu á và một số nước thuộc APEC. Các nghiên cứu khác nhau đêu cho thấy nền kinh tế đa số các nước này đều chịu tác động tích cực và khai thác tốt hơn những lợi thế so sánh của mình ở những mức độ khác nhau. GDP của các nước OECD sẽ tăng thêm từ 0,01 đến 0,006% nhờ quá trình tự do hoá thương mại với Trung Quốc. Riêng Mỹ, GDP giảm với mức 0,04% đến 0,02% do thâm hụt thương mại. Bù lại Mỹ tăng xuất khẩu nông sản vào thị trường Trung Quốc. Kết quả điều tra phản ứng của các doanh nghiệp đối với việc Trung Quốc gia nhập WTO ở 12 nước Châu á của tổ chức nghiên cứu rủi ro về kinh tế và chính trị (PERC) tại Singapore cho thấy mức độ tác động khác nhau : 92,3% doanh nghiệp ở hàn Quốc và 85,7% ở Nhật Bản cho rằng Trung Quốc gia nhập WTO có tác động tích cực trong khi con số này là 66,7% ở Thái Lan, 40% ở Singapore và chỉ có 5,7% ở Việt Nam, trong số này đa số là các doanh nghiệp Smes. Đối với các nước ASEAN, việc Trung Quốc gia nhập WTO ảnh hưởng ít nhiều tới nền kinh tế khu vực. Theo nghiên cứu của Ban thư ký ASEAN có thể GDP của đa số các nước đều tăng do xuất khẩu nông sản vào thị trường Trung Quốc và gia tăng xuất khẩu một số mặt hàng mà Trung Quốc mất dần lợi thế cạnh tranh ở những thị trường khác. Về lý thuyết, ASEAN có ít lý do để lo ngại về xuất khẩu khi cạnh tranh trực tiếp với hàng Trung Quốc cùng chủng loại (dệt may, dày dép) trên cùng thị trường xuất khẩu (Mỹ, EU và Bắc á). Tuy nhiên, một so sánh về 10 sản phẩm xuất khẩu hàng đầu của ASEAN và Trung Quốc cho thấy rằng hàng xuất khẩu của Trung Quốc nhìn chung có tính cạnh tranh cao hơn so với hàng Philippin, Thái Lan và Việt Nam nhưng lại ít cạnh tranh hơn so với hàng Indonesia, Malaysia và Singapore. Chính vì vậy cán cân thương mại của các nước có trình độ phát triển cao hơn trong khối sẽ thặng dư. Chỉ có Lào và Việt Nam là có thặng dư thương mại âm dù khối lượng xuất khẩu vẫn gia tăng với số dương. Có thể nói rằng, trở thành thành viên WTO, với sức mạnh kinh tế kết hợp với sức mạnh chính trị. Trung Quốc sẽ trở thành một trong những thành viên có tiếng nói quyết định, trong tương lai sẽ góp phần hình thành một trật tự kinh tế thế giới mới. 3.2 Những cơ hội và thách thức đối với các SMEs Việt Nam 3.2.1 Những thách thức Không thể phủ nhận một thực tế là nền kinh tế Việt Nam chịu tác động rất lớn từ nền kinh tế trung Quốc. Trước hết là do cơ cấu kinh tế hai nước có quá nhiều điểm tương đồng : nông nghiệp là ngành sản xuất chủ đạo, cùng đang tiến hành quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tăng cường mở cửa, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Mặt khác, với 1350km đường biên giới chung và 6 cửa khẩu, các luồng hàng hoá và dịch vụ có điều kiện thuận lợi để lưu chuyển từ thị trường Trung Quốc sang thị trường Việt Nam và ngược lại. Việc Trung Quốc gia nhập WTO đã có những tác động tới các Smes, cụ thể là : Thứ nhất, tác động tới hàng xuất khẩu của các Smes. Trung Quốc sẽ phải thực hiện cam kết giảm thuế quan và xoá bỏ hạn ngạch. Đối với sản phẩm nông nghiệp, thuế nhập khẩu giảm từ 21% xuống còn 17%, khi không còn được Nhà nước bù lỗ nữa, các nông phẩm của Trung Quốc chắc chắn sẽ tăng giá, mất dần tính cạnh tranh trên thị trường trong nước và như vậy hàng hoá của các nước thành viên WTO do được hưởng ưu đãi về thuế sẽ rẻ đi nhiều, sức cạnh tranh lớn hơn sẽ ảnh hưởng tới thị phần và sức cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam ở Trung Quốc. Ngoài ra, đang tồn tại một nguy cơ là hiện nay Trung Quốc đã tự trồng được hầu hết các loại hoa quả nhiệt đới mà từ trước tới nay do Việt Nam độc quyền như nhãn, vải thiều, thanh long, chuối, dưa hấu.Các nhà khoa học trung Quốc đã lai tạo được nhiều loại quả trái mùa. ảnh hưởng trước mắt chưa lớn nhưng về lâu dài, khi chúng ta tham gia hội nhập kinh tế, chính những nông sản này sẽ tràn vào nước ta, cạnh tranh trực tiếp với nông sản của các Smes. Với nhóm cao su tự nhiên, để xuất khẩu cao su sang Trung Quốc, các Smes phait cạnh tranh với Thái Lan, Đài Loan và Malaysia. Thao tổng công ty cao su Việt Nam( chiếm khoảng 50% sản lượng và 65% khối lượng xuất khẩu). Tuy nhiên chất lượng cao su còn kém vì sản xuất theo tiêu chuẩn SVR của liên Xô trước đây, trong khi Thái Lan, Đài Loan và Malaysia sản xuất theo tiêu chuẩn ISS của Mỹ. Rõ ràng, ngành cao su cũng đang đứng trước khó khăn cần phải vượt qua là phải giảm giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng tính cạnh tranh trên thị trường Trung Quốc. Đối với các mặt hàng còn lại như may mặc, giày dép, linh kiện điện tử và máy tính nguyên chiếc, tỉ trọng trong cơ cấu xuất sang Trung Quốc không cao. Xét trong bối cảnh hiện nay, hàng Việt Nam sẽ phải cạnh tranh gay gắt để dành dật thị phần trên thị trường Trung Quốc. Bảng 3 : Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc Đơn vị tính :% 1999 2000 2001 ( Sáu tháng đầu năm ) A. Hàng nguyên vật liệu và thực phẩm sơ chế 61,9 75,6 83,6 1. Dầu thô 38,6 48,8 52,7 2. Hải sản 6 14,5 15,9 3. Rau quả 4,2 7,8 9,8 4. Cao su 6 4

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0154.doc