Đề tài Bàn về quản lý thu chi chi Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2003 – 2008

Mục lục:

Lời mở đầu

Chương I: BHXH và quỹ BHXH

I. BHXH:

1. Khái niệm:

2. Đối tượng, chức năng, bản chất:

Đối tượng:

Chức năng:

Bản chất:

3. Những nguyên tắc về BHXH:

4. Những quan điểm cơ bản về BHXH:

II. Quỹ BHXH:

1. Khái niệm:

2. Nguồn quỹ BHXH:

3. Mục đích sử dụng quỹ:

4. Mối quan hệ giữa BHXH với chính sách kinh tế - xã hội:

Mối quan hệ giữa BHXH với chính sách kinh tế:

Mối quan hệ giữa BHXH với chính sách xã hội:

Chương II: Thực trạng quỹ BHXH tỉnh Thanh Hóa gia đoạn 2003 – 2008

I. Giới thiệu về BHXH tỉnh Thanh Hóa:

II. Thực trạng quỹ BHXH tỉnh Thanh Hóa:

1. Thực trạng thu chi:

Thực trạng thu:

Thực trạng chi:

2. Cân đối thu chi ở BHXH tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2003 - 2008:

 

 

 

 

 

 

 

 

doc36 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1805 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bàn về quản lý thu chi chi Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2003 – 2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2/CP ngày 26/01/1995, trong đó văn bản này đều quy định quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau đây: Người sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ tiền lương của những người tham gia BHXH trong đơn vị. Trong đó, 10% để chi trả các chế độ hưu trí, tử tuất và 5% để chi trả các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. + Người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng để chi trả các chế độ hưu trí và tử tuất. + Nhà nước đóng và hổ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động. + Các nguồn khác. Mức đóng góp BHXH thực chất là phí BHXH. Phí BHXH là yếu tố quyết định sự cân đối thu chi quỹ BHXH. Vì vậy, quỹ này phải được tính toán một cách khoa học. Trong thực tế, việc tính phí BHXH là một nghiệp vụ chuyên sâu của BHXH và người ta thường sử dụng các phương pháp toán học khác nhau để xác định. Khi tính phí BHXH, có thể có những căn cứ tính toán khác nhau: + Dựa vào tiền lương và thang lương để xác định mức trợ cấp BHXH, từ đó có cơ sỡ xác định mức đóng phí. + Quy định mức phí BHXH trước rồi từ đó xác định mức hưởng. + Dựa vào nhu cầu khách quan của người lao động để xác định mức hưởng, rồi từ mức hưởng BHXH này có thể xác định mức phí phải đóng. Mặc dù chỉ thuần tuý mang tính kỹ thuật nhưng xác định phí BHXH lại khá phức tạp vì nó liên quan đến cả người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Liên quan đến khả năng cân đối thu nhập của người lao động và điều kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, khi xác định phí BHXH vẫn phải đảm bảo các nguyên tắc: Cân bằng thu chi, lấy số đông bù số ít và có dự phòng. Mức phí xác định phải được cân đối với mức hưởng, với nhu cầu BHXH và điều chỉnh sao cho tối ưu nhất. Phí BHXH xác định theo công thức: P = f1 + f2 + f3 Trong đó: P – Phí BHXH F1 – Phí thuần tuý trợ cấp BHXH F2 – Phí dự phòng F3 – Phí quản lý Mục đích sử dụng quỹ: Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu để chi trả cho các mục đích sau đây: + Chi trợ cấp cho các chế độ BHXH; + Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH; + Chi đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH; Trong 3 nội dung chỉ tiêu nêu trên thì chi trả trợ cấp BHXH theo các chế độ là lớn nhất và quan trọng nhất. Bao gồm các chế độ BHXH: Chăm sóc y tế Trợ cấp ốm đau Trợ cấp thất nghiệp Trợ cấp tuổi già Trợ cấp tai nạn và bệnh nghề nghiệp Trợ cấp gia đình Trợ cấp sinh đẻ Trợ cấp khi tàn phế Trợ cấp cho người còn sống ( trợ cấp mất người nuôi dưỡng) Khoản chi này được thực hiện theo luật định và phụ thuộc vào phạm vi trợ cấp của từng hệ thống BHXH. Về nguyên tắc, có thu có chi, thu trước chi sau. Vì vậy, quỹ chỉ chi cho các chế độ trong phạm vi có nguồn thu. Thu của chế độ nào thì chi ở chế độ đó. l Mối quan hệ giữa BHXH với chính sách kinh tế - xã hội: Mối quan hệ giữa BHXH với chính sách kinh tế: Mối quan hệ giữa chính sách BHXH với chính sách kinh tế được thể hiện ở chỗ hai loại chính sách này có giới hạn hợp lí. Nếu không xác định được giới hạn hợp lí này sẽ dẫn đến hoặc là xây dựng một hệ thống BHXH không phù hợp khả năng và trình độ phát triển của nền kinh tế làm cho chính sách BHXH thực thi không cao, tác động tiêu cực đến nền sản xuất xã hội. Hoặc nếu chỉ tập trung phát triển kinh tế, coi trọng yếu tố năng suất lao động mà không đầu tư thoả đáng cho chính sách xã hội trong đó có chính sách BHXH sẽ làm mất ổn định xã hội. Bởi vậy thực hiện tốt chính sách BHXH sẽ tạo điều kiện để giải phóng năng lực sản xuất, tạo năng suất lao động cao, sản xuất ổn định. Mối quan hệ giữa chính sách BHXH với chính sách kinh tế còn thể hiện thông qua mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế tự thân nó không dẫn tới tiến bộ xã hội và càng không dẫn tới công bằng xã hội một cách trực tiếp, mặc dù tăng trưởng kinh tế ở một mức độ nào đó có thể thúc đẩy tiến bộ xã hội. Tăng trưởng kinh tế phải qua khâu phân phối mới đưa các chính sách BHXH nói riêng và phúc lợi xã hội nói chung tới các tầng lớp dân cư. tăng trưởng kinh tế là một điều kiện quan trọng để thực hiện chính sách BHXH có hiệu quả. Ngược lại khi xem xét chính sách BHXH dưới góc độ một chính sách kinh tế khi hoạch định chính sách BHXH không hợp lí, xây dựng mức đóng BHXH không phù hợp sẽ làm nâng giá thành sản phẩm lên cao, hiệu quả sản xuất kinh doanh giảm, hạn chế tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên giữa tăng trưởng kinh tế và chính sách BHXH cũng có sự mâu thuẫn. Qúa trình nâng cao hiệu quả kinh tế thường xuất hiện các hiện tượng cố tình không thực hiện chính sách BHXH cho người lao động như đóng BHXH không đứng mức thu nhập, kí hợp đồng lao động ngắn hạn, trang bị bảo hộ lao động không đảm bảo gây ra tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp. Việc giải quyết hài hoà mối quan hệ này phụ thuộc vào bản chất chế độ chính trị xã hội và năng lực quản lí của Nhà nước trong việc tạo điều kiện tối ưu sự kết hợp sự phát triển kinh tế với việc thoả mãn ngày càng cao nhu cầu của xã hội gắn liền tiến bộ xã hội với sự phát triển toàn diện con người. Mối quan hệ giữa BHXH với chính sách xã hội: Chính sách xã hội là một vấn đề rộng lớn, được cụ thể hoá và thể chế hoá bằng pháp luật, phản ánh lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng xã hội nói chung và từng nhóm xã hội nói riêng, nhằm mục đích cao nhất là thoả mãn những nhu cầu ngày càng tăng về đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân... chính sách xã hội bao trùm lên mọi cuộc sống của con người. Trong hệ thống các chính sách xã hội thì BHXH là một chính sách quan trọng. Chính sách BHXH và các chính sách xã hội khác có mối quan hệ biện chứng với nhau, các chính sách này hỗ trợ lẫn nhau để giải quyết các vấn đề xã hội. Thực hiện tốt các chính sách xã hội sẽ góp phần thực hiện tốt chính sách BHXH và ngược lại thực hiện tốt chính sách BHXH sẽ góp phần thực hiện tốt các chính sách xã hội khác. Chẳng hạn như chính sách tiền lương là cơ sở để xác định mức đóng BHXH, vì vậy mức tiền lương phải đảm bảo đủ trang trải các nhu cầu cơ bản của người lao động và phần đóng BHXH do đó chính sách tiền lương hợp lí sẽ góp phần thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội . Chính sách việc làm có liên quan đến chính sách BHXH được thể hiện khá rõ nét, số người làm việc ngày càng nhiều và mức thu nhập ổn định sẽ tạo cho BHXH có nguồn thu ổn định; ngược lại chính sách giảm biên chế, chính sách giảm lao động làm việc trong các doanh nghiệp như quyết định 176/HĐBT, quyết định 111/CP... dẫn đến tăng số người về nghỉ chế độ...làm tăng nguồn chi BHXH như hiện nay ngân sách hàng năm phải cấp bù rất lớn. Ngoài ra chính sách BHXH cũng có tác động lớn đến chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình, chính sách đối với những người tham gia chiến trường B,C,K. Chương II: Thực trạng quỹ BHXH tỉnh Thanh Hóa gia đoạn 2003 – 2008 Giới thiệu về BHXH tỉnh Thanh Hóa: Trên cơ sỡ của việc thành lập BHXH Việt Nam. BHXH tỉnh Thanh Hoá được thành lập theo QĐ số 137/QĐ – TCCB ngày 15/06/1995 và bổ sung thêm chức năng, nhiệm vụ thực hiện chế độ BHXH, BHYT theo QĐ 1620/QĐ – TCCB; Quyết định 195/QĐ – TCCB ngày 17/12/2002 của Tổng Giám Đốc BHXH Việt Nam. Như vậy từ thời điểm này, ngoài việc đảm bảo các chế độ BHXH cho người lao động, cơ quan BHXH còn được giao thêm nhiệm vụ quản lý thực hiện chế độ BHYT cho cán bộ công nhân viên chức và các đối tượng khác trong xã hội. Đặc biệt ngày 26/09/2002 Quốc Hội khoá XI kỳ họp thứ 9 thông qua luật BHXH cơ sỡ pháp lý vững chắc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia BHXH. Nội dung của luật thể hiện đầy đủ chủ trương chính sách xã hội quan điểm của đảng nhà nước trong lĩnh vực BHXH. Sự hình thành và phát triển của BHXH Thanh Hoá luôn luôn gắn liền với sự hình thành và phát triển của BHXH Việt Nam. Sau gần 15 năm kể từ ngày thành lập cho đến nay BHXH tỉnh Thanh Hoá đã có nhiều chuyển biến mới, trụ sở của BHXH tỉnh năm trên đại lộ Lê Lợi nơi đặt trụ sở của rất nhiều cơ quan chính quyền quan trọng trong tỉnh. Thực trạng quỹ BHXH tỉnh Thanh Hóa: 1. Thực trạng thu chi: Thực trạng thu: Nhờ những nỗ lực của các cán bộ của phòng thu cũng như những cán bộ của BHXH tỉnh trong thời gian qua BHXH tỉnh Thanh Hóa đạt được những thành quả: Một là: Quản lý đối tượng tham gia BHXH Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao, trong những năm qua hoạt động quản lý thu BHXH trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa luôn hướng vào mục tiêu tăng nhanh đối tượng tham gia BHXH ở mọi thành phần kinh tế phù hợp với ưu cầu hội nhập và phát triển kinh tế xã hội của địa phương thực hiện thu đúng, thu đủ, kịp thời và quản lý và thực hiện cải cách hành chính, nâng cao chất lượng phục vụ đối tượng tham gia BHXH, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động. Bám sát vào mục tiêu trên, BHXH Thanh Hóa có nhiều biện pháp tổ chức thực hiện nhằm tăng nhanh số người tham gia BHXH. Nhưng việc thực hiện gặp nhiều khó khăn, do trong gần 50 năm hoạt động BHXH ở nước ta thực hiện theo cơ chế bao cấp, người lao động hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH mà chưa phải thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH; thông lệ này đã đi vào tiềm thức của từng người, nếu là cán bộ công chức nhà nước thì đương nhiên được hưởng tiền lương và các chế độ phúc lợi khác. Do đó khi chính sách đổi mới thực hiện quan hệ hữu cơ giữa nghĩa vụ đóng góp với quyền lợi hưởng thụ thì gặp nhiều khó khăn cả về nhận thức và tổ chức thực hiện. Trong những năm qua, BHXH tỉnh Thanh Hóa đã tập trung thực hiện có hiệu quả nhiều biện pháp như: chủ động phối hợp với các ban, nghành chức năng kịp thời xử lý các vướng mắc ở cơ sở, tạo điều kiện để các đơn vị sử dụng lao động tham gia thực hiện tốt chế độ, chính sách BHXH cho người lao động. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền chế độ, chính sách BHXH theo cơ chế mới. Kết hợp chặt chẽ đăng ký thu, nộp BHXH với việc cấp sổ BHXH và thực hiện các chế độ BHXH. BHXH tỉnh đã tham mưu cho Ban Thường vụ Tỉnh ủy có Chỉ thị 11 CT/TU( ngày 12/03/2007) và Chủ tịch UBND tỉnh có chỉ thị 15/CT-UBND ( ngày 8/6/2007) về tăng cường lãnh đạo thực hiện các chế độ BHXH, tạo ra bước phát triển vững chắc cho sự nghiệp BHXH ở địa phương. Đến cuối năm 2008 trên địa bàn có gần 17 vạn lao động tham gia BHXH khu vực nhà nước chuyển biến khá, nếu năm đầu tiên thực hiện mở rộng đối tượng theo Nghị định 01/2003/NĐ-CP mới có 271 doanh nghiệp với 12.129 lao động tham gia BHXH, thì đến năm 2008 có 1.527 đơn vị tham gia với số lao động 58.248 tham gia BHXH. Quản lý đối tượng tham gia BHXH là một trong những vấn đề mấu chốt của nghiệp vụ thu BHXH, là nội dung cơ bản của quản lý thu trong đó mở rộng, phát triển đối tượng tham gia BHXH được đặc biệt quan tâm. Theo báo cáo hàng năm của BHXH tỉnh Thanh Hóa, cho thấy năm1995 mới có 711 đơn vị sử dụng lao động và số lao động tham gia BHXH là 83.723. Cùng với quá trình phát triển kinh tế-xã hội của địa phương, số lao động tham gia và số thu BHXH cũng tăng dần đặc biệt tăng đột biến từ năm 2003 và cơ cấu trong các lĩnh vực cũng thay đổi. Tình hình lao động tham gia BHXH tại Thanh Hóa (2003 – 2008) Đơn vị: Người Các năm Loại hình Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Tổng số lao động 128.397 133.266 137.727 139.990 147.170 166.321 Trong đó: - HCSN 66.604 68.627 70.426 70.609 72.217 74.227 - DNNN 38.236 34.993 28.869 20.550 18.360 17.112 - Xã, phường. 11.428 10.836 10.784 10.876 11.237 11.566 - NCL 3.368 4.584 5.340 6.333 7.758 8.111 - DNNQD 7.664 12.151 19.510 27.736 32.706 39.434 - DN FDI 615 960 758 818 1.245 1.467 - HTX 482 1.041 1.635 2.304 2.656 3.121 - Hộ SXKD 74 405 764 991 11.283 (Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa, báo cáo tổng kết công tác BHXH các năm từ 2003 – 2008) Tình hình đơn vị sử dụng lao động tham gia BHXH (2003 – 2008) Các năm Loại hình Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Tổng số đơn vị 3.308 3.592 4.025 4.356 4.929 5.234 Trong đó: - HCSN 2.220 2.223 2.281 2.307 2.535 2.738 - DNNN 188 168 130 102 87 67 - Xã , phường 629 633 634 634 634 638 - NCL 48 155 158 146 188 198 - DNNQD 137 233 367 513 680 802 - DNFDI 2 3 5 6 11 18 - HTX 84 177 263 321 354 401 - Hộ SXKD 80 111 120 187 327 372 ( Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa, báo cáo tổng kết công tác BHXH các năm từ 2003 – 2008) Qua số liệu ở các biểu trên cho thấy đối tượng tham gia BHXH ngày càng tăng, năm sau cao hơn năm trước cơ cấu các loại hình tham gia BHXH thay đổi doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng mạnh cả về số đơn vị và lao động trong khi đó doanh nghiệp nhà nước giảm dần và khu vực hành chính sự nghiệp, đảng đoàn thể nhìn chung ổn định, tuy có tăng, nhưng không đáng kể. Nguyên nhân chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, quy mô sản xuất giảm, nhiều doanh nghiệp phá sản. Đối với lực lượng lao động khu vực hành chính sự nghiệp không giảm điều đó cho thấy việc thực hiện cải cách hành chính công còn hạn chế, chưa phản ánh đúng chủ trương của Đảng, Nhà nước về tinh giảm biên chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước. Hai là: Quản lý tiền lương đóng BHXH Tiền lương, tiền công trả cho người lao động là trách nhiệm của người sử dụng lao động. Đối với công chức, viên chức làm việc trong khu vực nhà nước do Nhà nước trả lương, người lao động làm việc ngoài khu vực nhà nước do người sử dụng lao động quy định và tiền lương này được hạnh toán vào giá thành sản phẩm. Trách nhiệm của cơ quan BHXH là căn cứ vào các quy định của Nhà nước về chế độ tiền lương và các quyết định nâng lương của cấp có thẩm quyền để thu BHXH đúng quy định, trường hợp nâng lương không đúng quy định, cơ quan BHXH từ chối thu BHXH yêu cầu đơn vị sử dụng lao động thực hiện. BHXH tỉnh Thanh Hóa thường xuyên phối hợp với các sở ban nghành để nắm vững phân cấp quản lý lao động, tiền lương làm cơ sở cho việc thống kê phân loại xác định các mức thu tỷ lệ thu và phương thức thu của từng nhóm đối tượng. Trên cơ sở nắm chắc tổng quỹ lương của từng đơn vị và tiền lương của người lao động, nên trong những năm qua mặc dù Nhà nước thường xuyên thay đổi chế độ tiền lương và đối tượng tham gia BHXH biến động lớn, nhưng việc thu nộp BHXH được thực hiện không có sự Đơn vị:Triệu đồng Các năm Loại hình Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 HCSN 669.208 688.939 806.750 1.120.470 1.372.993 1.454.231 DNNN 301.465 274.060 298.529 290.422 291.768 292.123 Khu vực ngoài NN 90.229 128.320 213.576 389.330 529.025 613.475 Trong đó: DNFDI 16.945 20.179 22.328 26.686 29.640 30.867 DNNQD 54.234 83.228 152.923 301.530 415.176 478.142 HTX 736 3.097 6.087 10.423 14.690 18.789 NCL 18.314 21.637 30.954 46.395 63.736 77.145 Hộ SXKD 179 1.284 4.296 5.783 8.532 Tổng quỹ lương đóng BHXH của người lao động và người sử dụng lao động trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa ( 2003 – 2008 ) Đơn vị:% Các năm Loại hình Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 HCSN 63.07 63.13 61.17 62.24 62.58 62.89 DNNN 28.41 25.11 22.63 16.13 13.3 10.2 Khu vực ngoài NN 8.52 11.76 16.2 21.63 24.12 27.01 Trong đó: DNFDI 1.59 1.8 1.69 1.48 1.35 1.12 DNNQD 5.11 7.6 11.6 16.75 18.9 21.12 HTX 0.07 0.28 0.46 0.58 0.67 0.80 NCL 1.75 2.06 2.35 2.58 2.94 3.01 Hộ SXKD 0.02 0.1 0.24 0.26 0.96 Tỷ trọng số thu BHXH trong các lĩnh vực Chỉ tiêu Thời kỳ Tổng hệ số ( hệ số ) Tổng quỹ lương ( Tr.đ ) Số tiền đóng BHXH ( Tr.đ ) Ghi chú 01/2003 – 9/2005 ( 290.000 đ ) 2.885.452,0 836.781 167.356 Thời điểm 09/2005 10/2005 – 9/2006 ( 350.000 đ ) 3.796.773,9 1.328.870 265.770 Thời điểm 09/2006 10/2006 – 12/2007 ( 450.000 đ ) 3.727.753,4 1.677.481 335.496 Thời điểm 12/2007 Từ 01/2008 ( 540.000 đ ) 3.654.251,9 1.973.295 394.659 Thời điểm 12/2008 Sự biến động tiền đóng BHXH qua các thời kỳ của nhóm đối tượng hưởng lương từ ngân sách ( Bảng 2.4, 2.5, 2.6. nguồn: BHXH tỉnh Thanh Hóa, Báo cáo tổng kết công tác BHXH các năm từ 2003 – 2008) Qua các bảng trên ta thấy ở khối hành chính sự nghiệp số thu đóng vào quỹ BHXH vẫn tăng đều qua các năm song tỷ trọng của nó trong quỹ BHXH tương đối ổn định. Đối với loại hình doanh nghiệp nhà nước số thu năm 2003 là 301, 465 tỷ đồng thì đến năm 2008 giảm chỉ còn 292,123 tỷ đồng, tuy nhiên tỷ trọng số thu BHXH lại giảm qua các năm từ 28,1% năm 2003 xuống còn 10,2% năm 2008. Tổng thu BHXH từ khu vực ngoài nhà nước tăng nhanh qua các năm từ 90,229 tỷ năm 2003 lên 613,75 tỷ năm 2008, sự tăng này kéo theo sự tăng tỷ trọng số thu BHXH từ 8,52% năm 2003 lên 27,01% năm 2008. Sự tăng lên này là do sự tăng nhanh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh năm 2003 số thu BHXH từ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mới là 54,234 tỷ thì đến năm 2008 con số đó đã là 478,142 tỷ đồng thời tỷ trọng số thu BHXH cũng tăng nhanh từ 5,11% năm 2003, 11,6% năm 2005 và đến 21,12% năm 2008. Ba là: Quản lý nguồn thu BHXH Nguồn thu như trình bày ở trên được hình thành từ sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và sự hổ trợ của Nhà nước. Sự hỗ trợ của Nhà nước đóng BHXH cho người lao động bằng 15% tổng quỹ tiền lương của đơn vị đối với cán bộ, công chức hành chính sự nghiệp. Việc quản lý nguồn thu BHXH trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong những năm qua đảm bảo theo đúng quy định Thực hiện nghiêm ngặt quy trình thu nộp BHXH: căn cứ vào danh sách lao động và tổng quỹ tiền lương của đơn vị đã được đăng ký với cơ quan BHXH trên cơ sở đó BHXH tỉnh xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện. Việc thu nộp BHXH thực hiện bằng chuyển khoản, trường hợp thu bằng tiền mặt thì chậm nhất sau 3 ngày cơ quan BHXH nộp vào tài khoản đảm bảo đúng quy định.Với phương thức thu nộp BHXH như vậy luôn đảm bảo an toàn, thuận tiện, quản lý chặt chẽ được nguồn thu. Thường xuyên phối hợp với hệ thống Kho bạc nhà nước và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn trên địa bàn toàn tỉnh để cập nhật số tiền thu nộp BHXH của các đơn vị sử dụng lao động. Trên cơ sở đó, định kỳ hằng tháng cơ quan BHXH thực hiện Thông báo bằng văn bản tình hình lao động tham gia và thu nộp BHXH đến từng đơn vị tham gia BHXH. Kết quả thu BHXH trong các năm ( 2003 – 2008 Các năm Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Kế hoạch thu ( tỷ. đ ) 262,0 268,0 352 450,5 612,0 714,4 Thực hiện ( tỷ. đ ) 264,078 268,424 368,003 482,918 645,181 716,447 Tỷ lệ đạt (%) 100,8% 100,2% 104,5% 107,2% 105,4% 100,3% ( Nguồn: BHXH tỉnh Thanh Hóa, Báo cáo tổng kết công tác BHXH các năm từ 2003 – 2008) Biểu số liệu trên cho thấy, số thu BHXH bắt buộc của Thanh Hóa liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước và tăng đều từ năm 2004 đến năm 2008. Riêng năm 2005 tăng đột biến từ 1,65% ( năm 2004 ) lên 16,7% năm 2008, cao nhât là vào năm 2007 tăng 35,85%. Là do các nhân tố tác động chủ yếu, lao động tăng 12,5% tiền lương thực tế tăng 20,8% và tiền lương tối thiểu do Nhà nước điều chỉnh tăng 66,7% tốc độ tăng trưởng bình quân 19,03%. Bốn là: Giải quyết nợ đọng tiền đóng BHXH Bên cạnh phát triển đối tượng tham gia, thực hiện tốt thu nộp, BHXH tỉnh Thanh hóa còn thực hiện có hiệu quả việc thu nợ tiền đóng BHXH. Trước năm 2003, ở Thanh Hóa thường xuyên có số nợ BHXH của các đơn vị sử dụng lao động bình quân 20 – 25 ngày lương. Điều đáng chú ý là không những các doanh nghiệp ngoài nhà nước mà kể cả doanh nghiệp nhà nước và đơn vị hành chính, sự nghiệp cũng nợ đọng BHXH. Từ năm 2003 trở đi, do áp dụng nhiều biện pháp từ vận động, tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục đến tổ chức kiểm tra, thanh tra liên nghành, kiến nghị xử lý..đặc biệt vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng chính quyền trong công tác BHXH được thể hiện rõ nét, nên nợ BHXH do chậm đóng từng bước được thu hẹp, nhưng nợ đọng vẫn cao năm 2003 là 6,5 ngày; năm 2004 là 8,6 ngày; năm 2005 là 11,5 ngày và đến năm 2008 là 13 ngày, tương đương với 27,3 tỷ đồng. Tình hình giải quyết nợ tồn đọng BHXH ở BHXH tỉnh Thanh Hóa (2003 – 2008) Các năm Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Số nợ (tỷ.đ) 6,1 9,0 16,0 17,0 23,5 27,3 T.hiện thu nợ (tỷ.đ) 1,4 2,7 4,9 5,3 8,6 10,8 Tỷ lệ thu nợ (%) 23,0 30,0 30,6 31,2 36,6 38,8 (Nguồn: BHXH tỉnh Thanh Hóa, báo cáo tình hình nợ đọng) Thực trạng chi: Từ 01/9/1995 đến nay, việc quản lý chi BHXH do một cơ quan thực hiện là BHXH tỉnh Thanh Hóa. Quản lý chi BHXH gồm có hai phần: quản lý chi chế độ BHXH ngắn hạn ( chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe ) và quản lý chi chế độ BHXH dài hạn ( chế độ hưu trí, mất sức lao động, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ) Về quản lý chi BHXH ngắn hạn. Trước 31/12/2006 ( trước khi thực hiện Luật BHXH ), định kỳ hàng quý, cơ quan BHXH cấp ứng 2% quỹ lương trích nộp BHXH của đơn sử dụng lao động để họ trực tiếp chi trả cho các chế độ ngắn hạn ở đơn vị mình. Từ ngày 01/01/2007 ( từ khi Luật BHXH có hiệu lực thi hành ), đơn vị sử dụng lao động được chủ động giữ lại 2% quỹ lương trích nộp BHXH để trực tiếp chi trả các chế độ ngắn hạn cho người lao động trong đơn vị, nếu thiếu sẽ được cơ quan BHXH, cấp bổ sung sau khi xét duyệt quyết toán. Trong cả hai phương thức trên, đơn vị sử dụng lao động có trách nhiệm tập hợp các chứng từ ( như giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng BHXH, giấy ra viện, giấy khai sinh..) để quyết toán với cơ quan BHXH sau khi đã chi trả chế độ BHXH cho người lao động. Thời gian đầu, việc quản lý chi các chế độ ngắn hạn gặp một số hạn chế do các đơn vị sử dụng lao động và người lao động chưa thích ứng với cơ chế mới là thực thanh, thực chi trên cơ sở có đóng, có hưởng. Các đơn vị sử dụng lao động chưa làm quen với việc quản lý ngày công ốm đau, thai sản và lập các hồ sơ thủ tục để được cơ quan quản lý BHXH giải quyết xét thưởng BHXH. Tuy nhiên, chỉ trong một thời gian ngắn, những vướng mắc, hạn chế trong nhận thức của chủ sử dụng lao động và người lao động về cơ chế quản lý mới về quản lý BHXH đã được tháo gỡ. Đặc biệt từ những năm 2003 đến nay BHXH tỉnh Thanh Hóa đã được thực hiện nhiều biện pháp tích cực như tuyên truyền phổ biến chỉ đạo hướng dẫn nghiệp vụ thực hiện phân cấp chi chế độ BHXH ngắn hạn gắn với phân cấp quản lý thu BHXH. Hàng năm, đã có hàng ngàn người lao động được nhận trợ cấp ốm đau, thai sản, và nghỉ dưỡng sức với tổng số tiền bình quân 32,392 tỷ đồng. Chỉ tính riêng năm 2008 đã có 28. 567 lượt người ốm, với số ngày nghỉ 270.430 ngày, được nhận tổng số tiền 12,247 tỷ đồng, 6.245 người nghỉ hưởng thai sản, số ngày nghỉ 578.079 ngày được nhận số tiền 25,879 tỷ đồng, hàng ngàn lượt người được nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khỏe với số tiền là 4,314 tỷ đồng. Kết quả chi trả hai chế độ BHXH ngắn hạn ( ốm đau, thai sản ) từ (2003 – 2007) Đơn vị: Triệu đồng Đơn vị Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Cấp tỉnh 43.111 4.451 4.446 7.085 9.184 10.118 Cấp huyện 13.828 14.352 16.342 26.167 31.263 32.322 Tổng 17.939 18.803 20.788 33.252 40.077 42.440 Nguồn: BHXH tỉnh Thanh Hóa, Báo cáo tổng kết công tác BHXH các năm từ ( 2003 – 2008) Về quản lý chi các chế độ dài hạn. Từ 01/9/1995, việc quản lý chi các chế độ BHXH dài hạn do cơ quan BHXH thực hiện. Số đối tượng hưởng BHXH liên tục tăng qua các năm. Tại thời điểm tháng 9/1995 số đối tượng đang hưởng BHXH dài hạn do các ngành bàn giao là 117.694 người, đên quý I/2008 số đối tượng này đã là 130.718 người. Trong đó, hiện đang hưởng trợ cấp tại các huyện miền núi là 11,47% ở các huyện vùng biển 27,68% các huyện vùng trung du 16,14% các huyện đồng bằng 23,18% và tại thị xã, thành phố là 21,53%. Kinh phí chi trả cho các đối tượng ở các huyện miền núi chiếm 11,54% ở các huyện ven biển 36,3% các thị xã thành phố 19.7% trên tổng kinh phí toàn tỉnh. Số còn lại ở các huyện đồng băng, trung du. Trước năm 1995, việc chi trả cho các đối tượng hưởng BHXH dài hạn thông qua 630 Ban đại diện chi trả xã, thị trấn. Nguồn kinh phí để cấp phát chi trả cho đối tượng chủ yếu do sở Tài chính – Vật giá cân đối từ ngân sách của tỉnh. Chính vì vậy, việc chi trả rất chậm trễ và không kịp thời. Có thời kỳ do không làm tốt công tác lập dự toán, quản lý đối tượng không chặt chẽ, nhất là các đối tượng đã chết hoặc hết hạn thưởng nên tình trạng tham ô, lạm dụng nguồn quỹ đã xảy ra gây bất bình trong xã hội. Từ ngày 01/9/1995, do cơ chế quản lý BHXH thay đổi, nguồn kinh phí để chi trả các chế độ BHXH được BHXH Việt Nam đảm bảo đầy đủ kịp thời, bên cạnh đó BHXH tỉnh Thanh Hóa đã có nhiều đổi mới trong tổ chức quản lý chỉ đạo kiểm tra giám sát đặc biệt là chỉ đạo BHXH cấp huyện linh hoạt trong việc áp dụng các hình thức chi trả trực tiếp, gián tiếp, tích cực ứng dụng công nghệ thông tin trong việc lập danh sách chi trả thực hiện tốt công tác lập dự toán, công tác quản lý đối tượng quản lý kinh phí, đến khâu vận chuyển tiền mặt tư Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT về địa điểm chi trả. Kịp thời phát triển và xử lý các sai phạm trong quản lý đối tượng và chi trả BHXH như khai tăng tuổi đời và thời gian công tác để hưởng BHXH, cắt giảm không kịp thời, đối tượng ký nhận thay đổi nhận hộ...quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của từng cấp quản lý trong công tác quản lý đối tượng, kinh phí BHXH nên công tác chi trả các chế độ BHXH dài hạn đã đạt được nhiều t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc110666.doc
Tài liệu liên quan