Đề tài Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội giai đoạn 1998 - 2001

Phần mở đầu 1

Chương 1: lý luận chung về bảo hiểm gián đoạn kinh doanh 3

1.1. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH 3

1.1.1. Sự ra đời của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh 3

1.1.2. Vai trũ kinh tế xó hội của bảo hiểm giỏn đoạn kinh doanh 5

1.2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH 7

1.2.1. Đặc điểm của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh 7

1.2.2. Nội dung cơ bản trong hợp đồng bảo hiểm nói chung và trong hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh nói riêng 10

1.2.2.1 . Hợp đồng bảo hiểm 10

1.2.2.1.1. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm 10

1.2.2.1.2. Điều kiện pháp lý áp dụng trong hợp đồng bảo hiểm 10

1.2.2.1.3. Kết cấu và nội dung của hợp đồng bảo hiểm 12

1.2.2.2. Hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh 13

1.2.2.2.1. Một số khái niệm về doanh thu, chi phí cố định, chi phí biến đổi, lợi nhuận thuần, lợi nhuận gộp 13

1.2.2.2.2. Đối tượng bảo hiểm 14

1.2.2.2.3. Số tiền bảo hiểm 14

1.2.2.2.4. Phạm vi bảo hiểm: 15

1.2.2.2.5. Điều khoản loại trừ 16

1.2.2.2.6. Phớ bảo hiểm 17

1.2.2.2.6. Thời hạn và phương thức bồi thường 18

Chương 2 Thực tiễn triển khai nghiệp vụm bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại công ty bảo hiểm Hà nội từ năm 1998 - 2001 20

2.1. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM HÀ NỘI 20

2.1.1. Giới thiệu chung về Cụng ty bảo hiểm Hà Nội 20

2.1.2. Sự ra đời và phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội 23

2.2. MỘT SỐ THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN KHI TIẾN HÀNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH TẠI BẢO VIỆT HÀ NỘI 24

2.2.1. Những thuận lợi cơ bản 24

2.2.2. Những khó khăn trước mắt và lâu dài 27

2.3. THỰC TRẠNG TèNH HèNH THỰC HIỆN NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH TẠI BẢO VIỆT HÀ NỘI 28

2.3.1. Cụng tỏc khai thỏc bảo hiểm 29

2.3.2. Công tác đề phũng và hạn chế tổn thất 32

2.3.3. Công tác giám định và bồi thường 35

2.3.4. Đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh 38

CHƯƠNG 3 43

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH TẠI BẢO VIỆT HÀ NỘI 43

3.1. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH TẠI BẢO VIỆT HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2001 - 2005 43

3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH TẠI BẢO VIỆT HÀ NỘI 44

3.2.1. Tăng cường công tác khai thác 44

3.2.2. Nõng cao cụng tỏc tổ chức nhõn sự 49

3.2.3. Nâng cao hiệu quả công tác giám định và bồi thường 51

3.2.4. Thực hiện tốt cụng tỏc an toàn, đề phũng, hạn chế tổn thất. 52

3.2.5. Hoàn thiện cụng tỏc quản lý tài chớnh 52

KẾT LUẬN 55

 

doc58 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1149 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội giai đoạn 1998 - 2001, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng ty giám định, điều tra tổn thất có uy tín trên toàn thế giới như Lloyd's, Commercial Union (UK), AIG, CIGNA (Mỹ), Tokyo Marine, Yasuda Mitsui Marine (Nhật), Muniche (Đức),... Trong vài năm gần đây, Bảo Việt Hà Nội đã nhận được sự cộng tác, giúp đỡ tận tình của các công ty này trong việc đánh giá, chấp nhận rủi ro, thanh tra và xử lý khiếu nại. 2.1.2. Sự ra đời và phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội Mặc dù bảo hiểm hoả hoạn là một nghiệp vụ bảo hiểm xuất hiện từ rất xa xưa trong lịch sử phát triển của bảo hiểm, nhưng tại Việt Nam nói chung và tại Bảo Việt Hà Nội nói riêng, mãi đến ngày 17/1/1989 nghiệp vụ bảo hiểm cháy (hay bảo hiểm hoả hoạn) mới chính thức được triển khai theo quyết định số 06-TC-QĐ của Bộ Tài chính. Ngay sau khi được triển khai, nghiệp vụ bảo hiểm này đã khẳng định ngay vai trò quan trọng của nó qua việc doanh thu phí bảo hiểm tăng đều đặn qua các năm và ngày càng chiếm tỉ trọng lớn trong tổng doanh thu phí của tất cả các nghiệp vụ. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tuy là một nghiệp vụ mở rộng phạm vi của bảo hiểm cháy và đóng vai trò không kém phần quan trọng so với bảo hiểm cháy nhưng thực chất nó lại không ra đời vào thời điểm bảo hiểm cháy bắt đầu được triển khai. Phải cho tới năm 1994, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh mới bắt đầu được đưa vào thử nghiệm. Từ khi đưa vào triển khai, số đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy do Bảo Việt Hà Nội kí được với khách hàng vẫn chưa nhiều, chủ yếu là với các công ty liên doanh và các công ty 100% vốn nước ngoài. Hầu hết các đơn bảo hiểm được cấp thông qua môi giới. Chúng ta có thể xem qua tỉ trọng của doanh thu bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội thông qua bảng sau: Bảng 1: Tỉ trọng doanh thu bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội giai đoạn 1998 - 2001 Năm Doanh thu bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy(tr. đ) Doanh thu toàn công ty (tr. đ) Tỷ lệ doanh thu bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy/ doanh thu toàn công ty (%) 1998 399 79.068 0,50 1999 505 87.653 0,58 2000 650 74.887 0,87 2001 895 75.800 1,18 Nguồn số liệu: Phòng bảo hiểm cháy và rủi ro hỗn hợp - Bảo Việt Hà Nội. Số liệu bảng 1 cho thấy tỷ lệ doanh thu bảo hiểm gián đoạn kinh doanh chiếm một tỉ lệ rất khiêm tốn so với tổng doanh thu của Bảo Việt Hà Nội. Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận thấy rằng doanh thu của nghiệp vụ này ngày càng tăng cả về số tương đối lẫn số tuyệt đối. Trong khi nhiều nghiệp vụ bảo hiểm khác như bảo hiểm trách nhiệm dân sự xe cơ giới, bảo hiểm xây dựng lắp đặt,.. đang có xu hướng giảm dần doanh thu khai thác do phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các công ty bảo hiểm khác thì nghiệp vụ bảo hiểm này lại đang mang lại cho Bảo Việt Hà Nội doanh thu ngày càng tăng hơn qua các năm triển khai. Điều đó chứng tỏ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là một nghiệp vụ đầy tiềm năng, hứa hẹn mang lại nguồn thu không nhỏ cho Bảo Việt Hà Nội. Hơn thế, với mục tiêu giữ khách hàng, đáp ứng đầy đủ yêu cầu của khách hàng trong thời buổi cạnh tranh gay gắt như hiện nay, cùng với mục tiêu tăng trưởng và hiệu quả, ngoài việc củng cố, hoàn thiện, tiếp tục phát triển các nghiệp vụ truyền thống có doanh thu cao, Bảo Việt Hà Nội đã và đang tìm cách phát triển các nghiệp vụ khó khai thác như bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy. 2.2. Một số thuận lợi và khó khăn khi tiến hành triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội 2.2.1. Những thuận lợi cơ bản Khởi xướng từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986), Việt Nam đã thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường dưới sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Có thể nói đây là sự "cởi trói" tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi cho các đơn vị phát huy tiềm năng, thế mạnh của mình để mở rộng và thúc đẩy sản xuất phát triển. Đại hội Đảng toàn quốc VI được đánh giá là sự kiện làm "hồi sinh" nền kinh tế xã hội Việt Nam, một bước ngoặt của công cuộc đổi mới toàn diện đưa đất nước từ chỗ bế tắc dần dần đi vào thế ổn định và khởi sắc. Từ đó đến nay, Việt nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong phát triển kinh tế xã hội như giữ vững nền kinh tế tăng trưởng và ổn định, khống chế chỉ số lạm phát ở mức vừa phải, tăng đầu tư trong nước và nước ngoài, tăng thu nhập doanh nghiệp, nâng cao đời sống người dân về kinh tế cũng như về văn hoá xã hội,... Điều kiện kinh tế, xã hội càng phát triển, người dân không còn chỉ lo nghĩ đến cái ăn, cái mặc mà họ đã nghĩ xa hơn, đó là làm sao để có cuộc sống ổn định. Đây chính là nền tảng cho ngành bảo hiểm Việt Nam phát triển. Trong vài năm gần đây, trên thế giới xảy ra không biết bao nhiêu biến động cả về kinh tế lẫn chính trị, ảnh hưởng đến nền kinh tế của hầu hết các quốc gia, đặc biệt là các nước phát triển cao như Nhật, Hàn quốc, Thái Lan, Argentina,... Đặc biệt vụ khủng bố xảy ra trên nước Mỹ vào ngày 11/9/2001 đã làm cho kinh tế của rất nhiều quốc gia trên thế giới lao đao và năm 2001 được đánh giá là một năm u tối trong lịch sử kinh tế thế giới. Trong bối cảnh như vậy, Việt Nam là một trong số ít quốc gia vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong vài năm qua, năm 2001 tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta là hơn 6%. Hơn nữa, đầu năm 2002, Việt Nam đã nhận danh hiệu "Thủ đô Hà Nội - thành phố an ninh nhất thế giới" do UNESCO công nhận. Điều đó khẳng định rằng trong khi nền kinh tế, chính trị thế giới có nhiều biến động phức tạp, rối ren thì Việt Nam vẫn là quốc gia có nền kinh tế, chính trị ổn định, tạo môi trường an toàn thu hút đầu tư. Tất cả những điều đó đã tạo cơ hội thuận lợi cho ngành bảo hiểm nước nhà phát triển, từ việc khai thác tới việc sử dụng tạm thời nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư. Đặc biệt, khi đầu tư phát triển thì nhu cầu bảo toàn vốn kinh doanh càng được chú trọng và điều đó tạo cơ sở vững chắc cho bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tồn tại và phát triển. Bên cạnh đó, do thực hiện xoá bỏ nhanh chóng cơ chế tập trung bao cấp, đổi mới cơ chế quản lý, thực hiện giao vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước, làm cho việc bảo toàn và phát triển vốn trở nên rất khó khăn và nặng nề. Đặc biệt với Thông tư 82/TCLN ngày 31/12/1991 hướng dẫn thực hiện Chỉ thị số 332/HĐBT của Bộ Tài chính hướng dẫn "Nhà nước sẽ không cho ghi giảm vốn trong trường hợp tài sản bị tổn thất do những rủi ro mà các công ty bảo hiểm trong nước đã triển khai hoặc những loại hình tương tự". Chính vì vậy, các doanh nghiệp đã thấy được yêu cầu cấp thiết phải mua bảo hiểm để tạo nguồn bù đắp cho những thiệt hại có thể xảy ra nhằm đảm bảo khả năng ổn định kinh doanh. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh, với mục tiêu giúp các doanh nghiệp ổn định sản xuất kinh doanh, chắc chắn sẽ nhanh chóng tìm được chỗ đứng của mình nếu công ty bảo hiểm biết khai thác triệt để nghiệp vụ này trong nền kinh tế cạnh tranh như hiện nay. Hơn nữa, việc ra đời Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 cùng các Nghị định, Thông tư nhằm cụ thể hoá và hướng dẫn thi hành Luật kinh doanh bảo hiểm đã tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động bảo hiểm được thực hiện qui củ hơn, tránh được nhiều hiện tượng tiêu cực trong hoạt động bảo hiểm như trước. Đặc biệt với việc Bộ Tài chính thông qua Thông tư số 71/2001/TT-BC ngày 28/8/2001 qui định tỉ lệ chi hoa hồng cho từng nghiệp vụ bảo hiểm chỉ trong hạn mức cho phép đã tránh tình trạng nổi cộm trong hoạt động bảo hiểm trước đây, đó là hiện tượng trả hoa hồng cao quá mức dẫn đến nguy cơ không đảm bảo hiệu quả kinh doanh của các công ty bảo hiểm. Nói cách khác, sự ra đời của Luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn đã tạo ra một môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động bảo hiểm. Ngoài ra, cùng với sự trưởng thành của công ty qua nhiều năm hoạt động trong thị trường cạnh tranh, đội ngũ cán bộ công nhân viên đã có nhiều cơ hội để tự hoàn thiện chuyên môn cũng như phong cách làm việc nhằm đáp ứng xu thế phát triển chung. Bảo Việt Hà Nội trong những năm đổi mới, song song với việc đào tạo lại cán bộ, đã và đang tuyển dụng đội ngũ cán bộ giỏi chuyên môn, nhanh nhạy với cơ chế thị trường. Chủ trương phát triển nhân tố con người của Bảo Việt Hà Nội có thể được coi là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn trong tình hình hiện nay giúp cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm tiến những bước xa hơn. Từ những vấn đề nêu trên có thể thấy rằng thị trường bảo hiểm Việt Nam rất có nhiều tiềm năng phát triển. Đây là cơ hội tốt nhất cho công ty Bảo hiểm Hà Nội triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm của mình trên địa bàn thủ đô, một trung tâm kinh tế quan trọng nhất của đất nước, và các khu vực lân cận. Kinh tế và hoạt động kinh doanh càng phát triển sẽ là điều kiện thuận lợi để công ty phát triển các nghiệp vụ bảo hiểm chưa mấy phổ biến, trong đó có bảo hiểm gián đoạn kinh doanh. Mặc dù có những thuận lợi như vừa đề cập ở trên, nhưng nhìn chung ngành bảo hiểm nước ta cũng đang phải đối mặt với không ít khó khăn. 2.2.2. Những khó khăn trước mắt và lâu dài Kinh tế nước ta tuy có nhiều dấu hiệu đáng mừng trong những năm qua nhưng do điểm xuất phát của nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường là một nước nghèo, trình độ dân trí không cao, ý thức người dân còn rất kém lại vấp phải những mặt trái của kinh tế thị trường nên đã gặp không ít khó khăn trong quá trình phát triển kinh tế nói chung và phát triển ngành bảo hiểm nói riêng. Việc chuyển đổi cơ chế đã làm cho nhiều doanh nghiệp không thích ứng kịp thời với sự thay đổi, lâm vào tình trạng làm ăn thua lỗ, không có hiệu quả, dẫn đến phá sản, tạo gánh nặng cho một nền kinh tế đang yếu kém. Hơn thế, khi chuyển sang cơ chế mới, lãnh đạo một số đơn vị, xí nghiệp do mang nặng tư tưởng bao cấp cũ, họ chưa thấy rõ được trách nhiệm phải bảo toàn vốn tốt nhất bằng con đường tham gia bảo hiểm. Một số đơn vị kinh doanh khác thì mặc dù đã nhận thức rõ được những khó khăn, phức tạp trong việc bảo toàn đồng vốn kinh doanh của mình sao cho an toàn nhất nhưng họ lại không có những hiểu biết nhất định về việc kinh doanh bảo hiểm và họ cảm thấy bi quan, không tin tưởng vào hoạt động của các công ty bảo hiểm nên chỉ tham gia một cách dè dặt hoặc không dám tham gia bảo hiểm. Mặt khác, về phía công ty bảo hiểm, do bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy là một nghiệp vụ mới, công việc xác định chính xác số tiền bảo hiểm, giá trị bảo hiểm, số tiền thiệt hại về lợi nhuận gộp là rất khó khăn, nên trong quá trình khai thác rất khó cho cán bộ bảo hiểm giải thích cho khách hàng hiểu và tin tưởng vào loại hình bảo hiểm này. Thêm vào đó, tuy công ty bảo hiểm Hà Nội có một đội ngũ cán bộ khá đông đảo nhưng trình độ chuyên môn lại không cao so với các công ty bảo hiểm khác. Điều này đã được minh chứng rất rõ trong nhiều vụ nhân viên tư vấn sai cho khách hàng mua nhầm loại bảo hiểm đã gây khó khăn cho công tác bồi thường khi xảy ra tổn thất, gây nghi ngờ cho khách hàng. Đối với bảo hiểm gián đoạn kinh doanh thì vấn đề còn khó khăn hơn rất nhiều vì tính trừu tượng thể hiện trong loại bảo hiểm này cao hơn rất nhiều so với các loại bảo hiểm khác. Một khó khăn nữa phải kể đến là hoạt động bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy ra đời đúng thời kỳ Chính phủ mới ban hành Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 và tiếp sau đó là Nghị định 74/CP ngày 14/6/1997 cho phép nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế kể cả doanh nghiệp nước ngoài tham gia kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam, phá vỡ thế độc quyền của Bảo Việt. Vì vậy, nghiệp vụ này từ khi mới ra đời đã phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các công ty bảo hiểm trong và ngoài nước. Hơn nữa, hầu hết các hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh mà Bảo Việt Hà Nội kí được từ trước tới nay đều khai thác được từ đối tác liên quan đến nước ngoài là chủ yếu. Các công ty bảo hiểm nước ngoài hoạt động tại Việt Nam đã và đang giành giật số khách hàng này về phía họ bằng lợi thế về ngôn ngữ, bề dày kinh nghiệm cũng như khả năng tài chính khổng lồ của các công ty bảo hiểm đó. Điều đó đặt ra thách thức lớn cho Bảo Việt Hà Nội cần phải đổi mới tư duy, cung cách phục vụ khách hàng tốt hơn thì mới có khả năng cạnh tranh trong việc khai thác nghiệp vụ bảo hiểm đầy tiềm năng như nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy. 2.3. Thực trạng tình hình thực hiện nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội Trong hoạt động kinh doanh hiện nay, công ty Bảo Việt Hà Nội triển khai hoạt động của mình trên tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm theo các khâu truyền thống như sau: w Khâu khai thác w Khâu đề phòng và hạn chế tổn thất w Khâu giám định và bồi thường w Khâu đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động kinh doanh Cả bốn khâu trên có quan hệ chặt chẽ với nhau và bổ sung cho nhau, chỉ cần một khâu nào đó hoạt động kém hiệu quả sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến cả quá trình hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Chính vì vậy, để có thể tìm ra biện pháp nhằm nâng cao hoạt động kinh doanh của một nghiệp vụ nào đó, nhất thiết chúng ta phải phân tích từng khâu hoạt động của nghiệp vụ đó. Trong phần này, thực trạng triển khai từng khâu của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội sẽ được xem xét một cách cụ thể. 2.3.1. Công tác khai thác bảo hiểm Trên thực tế, nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh được coi là một nghiệp vụ bảo hiểm mới tại Bảo Việt Hà Nội. Loại hình nghiệp vụ này từ ngày triển khai cho tới nay tại Bảo Việt Hà Nội hầu như chỉ có các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp lớn chuyên kinh doanh khách sạn tham gia. Còn đại đa số các cơ quan, doanh nghiệp chỉ tham gia bảo hiểm cháy và dừng lại ở đó. Vì thế mà số đơn bảo hiểm đã cấp và số phí bảo hiểm thu được của nghiệp vụ bảo hiểm này so với các nghiệp vụ bảo hiểm khác còn rất khiêm tốn. Chúng ta có thể thấy rõ thực trạng đó qua bảng số liệu sau: Bảng 2: Kết quả khai thác của nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội thời gian 1998-2001 Đơn vị : triệu đồng Năm Số đơn BH cấp Số tiền bảo hiểm Doanh thu phí Doanh thu phí từ hợp đồng kí với doanh nghiệp trong nước Số tiền Tăng giảm so với năm trước Số tiền Tăng giảm so với năm trước Số tiền Tăng giảm so với năm trước Số tuyệt đối Tỉ lệ % Số tuyệt đối Tỉ lệ % Số tuyệt đối Tỉ lệ % 1998 30 266.000 _ _ 399 _ _ _ _ _ 1999 42 336.700 70.700 26,6 505 106 26,6 24 _ _ 2000 51 433.300 96.600 28,7 650 145 28,7 38 14 58,3 2001 76 597.000 163.700 37,8 895 245 37,8 23 -15 -39,0 Tổng 199 1.633.000 _ _ 2.449 _ _ 85 _ _ Nguồn: Phòng bảo hiểm cháy và rủi ro hỗn hợp - Bảo Việt Hà Nội Qua bảng trên, ta thấy số hợp đồng kí kết cũng như doanh thu phí từ nghiệp vụ này quả là quá khiêm tốn. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng kết quả đó cũng đưa ra một dấu hiệu khả quan cho thấy đây là một nghiệp vụ tiềm năng phát triển trên thị trường Việt Nam. Nếu như năm 1998, Bảo Việt Hà Nội mới chỉ nhận bảo hiểm cho 30 đơn vị thì đến năm 2001 số đơn vị tham gia bảo hiểm đã tăng lên hơn gấp đôi so với con số đó, lên tới 76 đơn vị. Bên cạnh đó, số phí thu được cũng tăng từ 399 triệu năm 1998 lên 895 triệu năm 2001 và số tiền bảo hiểm tăng từ 266 tỷ đồng năm 1998 đến năm 2001 là 597 tỷ đồng. Nguyên nhân của sự tăng này là do số lượng các nhà đầu tư vốn vào Việt Nam ngày càng tăng, các nhà đầu tư đã quá quen với tập quán tham gia bảo hiểm nên khi vào Việt Nam tiến hành hoạt động kinh doanh họ rất mong muốn được bảo hiểm cho rủi ro gián đoạn kinh doanh khi chẳng may tổn thất xảy ra, do đó trong khi tham gia bảo hiểm cháy họ đã yêu cầu Bảo Việt Hà Nội bán kèm cho họ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy. Cũng phải nói rằng con số tăng lên đó phụ thuộc chủ yếu vào nguyên nhân từ phía bên ngoài, còn thực tế Bảo Việt Hà Nội cũng không hề chú ý đến công tác khai thác nghiệp vụ này lắm. Chính vì vậy, Bảo Việt Hà Nội đã để ngỏ hoàn toàn thị trường các doanh nghiệp trong nước. Sau khoảng chục năm triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy, số lượng hợp đồng khai thác được từ các doanh nghiệp trong nước quá ư là ít ỏi. Năm 2000 có thể coi là năm đỉnh điểm về doanh thu phí từ các hợp đồng kí với các doanh nghiệp trong nước, nhưng con số đó chỉ dừng ở 38 triệu đồng, một con số không có ý nghĩa gì đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại một công ty bảo hiểm lớn như Bảo Việt Hà Nội. Vậy tại sao tại các nước phát triển, người dân lại có thói quen mua bảo hiểm gián đoạn kinh doanh và doanh thu của hoạt động này lại chiếm tỉ lệ cao trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài? Đơn cử như "tại công ty bảo hiểm Berkshire Hathaway (Mỹ), tỉ trọng của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh chiếm tới hơn 9% trong số các nghiệp vụ bảo hiểm triển khai" [5, 65], tương đương với tỉ trọng của những nghiệp vụ bảo hiểm có doanh thu lớn nhất tại Bảo Việt Hà Nội hiện nay như bảo hiểm xây dựng và lắp đặt, bảo hiểm hoả hoạn. Sở dĩ một nghiệp vụ bảo hiểm rất được coi trọng và có doanh thu cao ở các quốc gia phát triển như nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy lại gặp khó khăn tại thị trường bảo hiểm Việt Nam như vậy là do nhiều nguyên nhân, trong đó có cả nguyên nhân chủ quan lẫn nguyên nhân khách quan. Về phía nguyên nhân khách quan thì chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng bảo hiểm nói chung là một ngành rất mới tại Việt Nam so với những ngành tài chính khác. Người dân Việt Nam hầu hết đều chưa hiểu về bảo hiểm và chưa nhận thức rõ tầm quan trọng của việc tham gia bảo hiểm, vì vậy việc khai thác bảo hiểm gián đoạn kinh doanh lại càng khó khăn hơn do đặc điểm của nó là phụ thuộc vào loại bảo hiểm khác, cụ thể ở đây là bảo hiểm hoả hoạn. Thêm vào đó, tài liệu hướng dẫn tham khảo về hoạt động bảo hiểm này hầu như không có tại Việt Nam, nếu có thì may ra là những tài liệu nước ngoài chưa được dịch ra, vì vậy ngay cả những cán bộ bảo hiểm lâu năm trong ngành bảo hiểm nước nhà cũng cảm thấy lúng túng khi phải tiếp xúc với nghiệp vụ này. Vì vậy, việc triển khai nghiệp vụ này tại Bảo Việt Hà Nội chủ yếu dựa trên kinh nghiệm triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống khác, do đó chắc chắn không thể tránh được những khó khăn nhất định trong quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh sao cho có hiệu quả vì bảo hiểm gián đoạn kinh doanh mang những đặc điểm riêng mà các nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống không hề có. Về phía nguyên nhân chủ quan, trước hết phải kể đến nguyên nhân về trình độ hạn chế của nhiều cán bộ công nhân viên trong ngành bảo hiểm, đặc biệt là cán bộ khai thác hầu hết đều không được qua đào tạo một cách có bài bản về bảo hiểm và làm việc dựa trên kinh nghiệm là chính, đã dẫn đến tình trạng giải thích sai các điều khoản bảo hiểm cho khách hàng. Điều đó tất yếu gây ra những khó khăn không thể lường trước trong việc thực hiện bất cứ một khâu tiếp theo nào của hoạt động bảo hiểm khi chẳng may tổn thất xảy ra, dẫn đến việc làm mất lòng tin của khách hàng đối với công ty bảo hiểm, tạo cảm giác "bị lừa" đối với người tham gia bảo hiểm. Như vậy, chính những người cán bộ bảo hiểm đã là những người tạo ra ấn tượng đầu tiên cho những con người còn chưa hiểu biết gì về bảo hiểm rằng người bảo hiểm là "kẻ lừa đảo". Hơn nữa, nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy nói riêng là nghiệp vụ mang tính trừu tượng cao, khó triển khai vì mắc phải nhiều khó khăn trong công tác tính số tiền bảo hiểm, số tiền bồi thường,... Tại Việt Nam, nghiệp vụ bảo hiểm này không được coi ngang hàng với nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, nên chưa có sự tuyên truyền hay quảng cáo gì hết, nhân viên bảo hiểm cũng không chủ động tiếp cận khách hàng để giới thiệu sản phẩm,... Nói cách khác, hầu như khâu khai thác của nghiệp vụ bảo hiểm này không hề hoạt động. Vì thế làm cho bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy trở nên quá xa lạ đối với các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế. Phần lớn các doanh nghiệp chưa có hiểu biết gì về loại hình nghiệp vụ này, do vậy họ không tham gia. Đa số các đơn cấp được là do các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài, những doanh nghiệp này đã có thói quen sử dụng dịch vụ bảo hiểm này tại nước họ, tự yêu cầu mua thêm bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau khi đã mua bảo hiểm cháy. Tuy vậy, dù vấp phải những khó khăn như vừa đề cập, qua số liệu trên chúng ta cũng không thể phủ nhận được rằng qua các năm triển khai, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh cũng có sự tăng trưởng về số đơn vị tham gia và doanh thu phí. Điều đó thể hiện rằng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh đang dần thu hút được nhiều khách hàng hơn. Đó mới là những con số bước đầu và chắc chắn đây là một nghiệp vụ giàu tiềm năng cho công ty khai thác trong tương lai. Hơn thế nữa, vì nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy còn chưa được chú trọng tại thị trường bảo hiểm Việt Nam, nhiều công ty bảo hiểm trong nước không chú ý đến loại bảo hiểm này nên Bảo Việt Hà Nội cũng có được thuận lợi về yếu tố cạnh tranh khi triển khai nghiệp vụ. Thêm vào đó, như đã đề cập ở trên, hầu hết các hợp đồng kí được là do khách hàng tự tìm đến, yêu cầu bảo hiểm hoặc thông qua môi giới, điều đó chứng tỏ Bảo Việt Hà Nội là công ty có uy tín lớn trên thị trường bảo hiểm hiện nay, đồng thời cũng có những chính sách hợp lý đối với các tổ chức trung gian. 2.3.2. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất Mục đích của bảo hiểm không chỉ dừng lại ở việc bồi thường, ổn định tài chính cho người tham gia bảo hiểm mà còn nhằm hạn chế các thiệt hại cũng như hậu quả của chúng. Công tác đề phòng hạn chế tổn thất không những giúp cho công ty bảo hiểm tránh khỏi những vụ bồi thường cho các tổn thất gây ra bởi những rủi ro có thể hạn chế được xác suất xảy ra mà còn là một phương cách hữu hiệu để người dân biết đến bảo hiểm. Tại Bảo Việt Hà Nội, trên cơ sở số phí thu được hàng năm, công ty tiến hành trích mức chi đề phòng hạn chế tổn thất. Khoản chi này sẽ được chi vào các mục đích như tuyên truyền, hỗ trợ kinh phí, hội nghị khách hàng,... Do bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy chỉ được coi là nghiệp vụ mở rộng phạm vi bảo hiểm của bảo hiểm cháy, tổn thất chỉ xảy ra khi có rủi ro cháy xảy ra, vì vậy số chi cho công tác đề phòng và hạn chế tổn thất được tính bổ sung cho số chi đề phòng hạn chế tổn thất của nghiệp vụ bảo hiểm cháy. Tuy nhiên, số chi này vẫn được bóc tách ra vào cuối mỗi kỳ nhằm phục vụ cho công tác đánh giá kết quả kinh doanh của từng nghiệp vụ. Cụ thể nghiệp vụ này đã đóng góp vào công tác chi đề phòng, hạn chế tổn thất như sau: Bảng 3: Tình hình chi đề phòng, hạn chế tổn thất của nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội thời kỳ 1998 - 2001. Năm Tổng chi (tr.đ) Tỉ lệ % so với phí thu Chi tuyên truyền Chi hỗ trợ kinh phí Chi hội nghị Mức chi (tr.đ) Tỷ lệ %/ Tổng chi Mức chi (tr.đ) Tỷ lệ %/ Tổng chi Mức chi (tr.đ) Tỷ lệ %/ Tổng chi 1998 19,95 5,0 5,985 30,0 11,970 60,0 1,995 10,0 1999 21,21 4,2 6,363 30,0 12,726 60,0 2,121 10,0 2000 29,25 4,5 8,483 29,0 16,907 57,8 3,860 13,2 2001 35,80 4,0 10,350 28,9 20,725 57,9 4,725 13,2 Nguồn: Phòng bảo hiểm cháy và rủi ro hỗn hợp - Bảo Việt Hà Nội Như vậy, hàng năm Bảo Việt Hà Nội đã chi ra một khoản tiền nhất định cho công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Trong các khoản chi đề phòng hạn chế tổn thất thì khoản chi hỗ trợ kinh phí là khoản chi lớn nhất, chiếm khoảng 60% trong tổng chi. Khoản chi này gồm chi mua các phương tiện cần thiết tối thiểu như bình chữa cháy, còi báo động và chi cho công tác luyện tập của đội chữa cháy bán chuyên nghiệp của cơ quan và doanh nghiệp, chi thiết lập các biển báo cấm lửa,... Điều đó cho thấy công ty đã rất quan tâm đến việc phối hợp cùng các doanh nghiệp trong công tác phòng cháy chữa cháy, không những hướng dẫn cho họ cách phòng cháy, chỉ cho họ những nơi có độ rủi ro cao mà công ty còn hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp để công tác phòng cháy được tiến hành tốt hơn nhằm hạn chế tới mức tối thiểu các rủi ro có thể xảy ra ảnh hưởng tới công việc kinh doanh. Một khoản chi khác cũng chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng chi đề phòng hạn chế tổn thất là chi tuyên truyền, quảng cáo. Việc chi tuyên truyền đề phòng, hạn chế tổn thất cho bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy trong từng kỳ được tính bằng cách tách chi phí tuyên truyền theo tỉ lệ chi tuyên truyền cho bảo hiểm cháy và gián đoạn kinh doanh sau cháy. Sở dĩ có cách tính như vậy vì khi tuyên truyền, quảng cáo, Bảo Việt không bao giờ tách riêng việc tuyên truyền, quảng cáo cho bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy ra khỏi bảo hiểm cháy do thực chất thì hai nghiệp vụ bảo hiểm này có cùng rủi ro được bảo hiểm. Trong thời gian khoảng hai năm trở lại đây, chúng ta cũng nhận thấy rằng thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, Bảo Việt Hà Nội nói riêng và Tổng công ty bảo hiểm nói chung đã có nhiều chương trình đề cập tới những tổn thất mang tính hậu quả có thể phát sinh trong cuộc sống thường ngày nếu con người không biết tự bảo vệ lấy chính mình bằng những hành động cụ thể nhằm ngăn chặn rủi ro có thể xảy ra. Ngoài ra, hàng năm công ty vẫn cùng các công ty bảo hiểm khác như Vinare, Muniche,... hoặc cùng các công ty bảo hiểm trong Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam đồng tổ chức các hội nghị, thông qua đó tiến hành tìm hiểu, phân tích, đánh giá và rút ra kinh nghiệm từ thực tiễn để đề

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docD0086.doc
Tài liệu liên quan