Đề tài Bảo tồn phố cổ Hà Nội – thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU

Chương I. Mở đầu

1. Lý do nghiên cứu đề tài .5

2. Phương pháp nghiên cứu 7

3. Phạm vi nghiên cứu 8

4. Kế hoạch nghiên cứu .9

Chương II. Lý luận chung

1. Bảo tồn và những quan niệm về bảo tồn .10

2. Bảo tồn di sản .12

3. Giá trị của bảo tồn di sản .13

4. Các nguyên tắc của công việc bảo tồn .14

5. Kế hoạch bảo tồn .15

6. Kinh nghiệm từ Nhật Bản 16

Chương III. Thực trạng Phố cổ Hà Nội

Phần1. Tổng quan về phố cổ Hà Nội .18

1. Đặc điểm về vị trí địa lý, dân số .18

1.1. Vị trí địa lý .18

1.2. Dân số .19

1.2.1. Mật độ dân số 19

1.2.2. Đặc điểm của các hộ gia đình 21

a. Nguồn gốc dân cư và thời gian cư trú

b. Qui mô hộ gia đình

2. Đặc điểm kinh tế - văn hoá - xã hội 21

2.1. Đặc điểm kinh tế 21

2.2. Đặc điểm văn hoá – xã hội . 22

2.2.1. Giáo dục .22

2.2.2. Đời sống .22

2.2.3. Giá trị văn hoá 23

3. Giá trị kiến trúc, cảnh quan .25

Phần2. Thực trạng Phố cổ Hà Nội .26

Chương IV. Giải pháp và kiến nghị

1. Giải pháp trước mắt - kiến nghị . .36

2. Giải pháp mang tính chiến lược .39

KẾT LUẬN.

PHỤ LỤC.

TÀI LIỆU THAM KHẢO.

 

 

 

 

doc55 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5944 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bảo tồn phố cổ Hà Nội – thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhật phân ra các loại nhà có giá trị khác nhau. Với những ngôi nhà có giá trị, Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí để bảo tồn nguyên dạng, những ngôi nhà không nhiều giá trị thì được phép thay đổi bên trong nhưng không được làm ảnh hưởng đến kiến trúc tổng thể của ngôi nhà. Nhật Bản cũng đưa ra các quy chế cụ thể đối với từng loại công trình. Đây không phải là cách làm của riêng Nhật Bản mà là cách chung của các nước trên thế giới. Nhà nước và chính quyền địa phương có chính sách, định hướng bảo tồn, nhưng phải có sự hợp tác của người dân trực tiếp sinh sống ở nơi đó. Cộng đồng giữ vai trò quan trọng nhất trong việc bảo tồn, giữ gìn đô thị cổ. Ở Nhật Bản, người dân lập tổ chức chuyên cho các hoạt động bảo tồn, họ tự làm phiếu điều tra để khảo sát ý kiến và đề xuất lên chính quyền thành phố, người dân và chính quyền cùng góp vốn để tu bổ nhà truyền thống, thực hiện nghiêm túc các quy định bảo tồn. Chương III THỰC TRẠNG PHỐ CỔ HÀ NỘI Trong chương này, nhóm nghiên cứu sẽ phân tích kết quả của những cuộc khảo sát. Mục tiêu của những nghiên cứu này là đưa ra bức tranh chân thực nhất về Phố cổ Hà nội. Điều này sẽ được thể hiện chi tiết qua hai phần chính: Phần 1 sẽ là tổng quan về Phố cổ Hà nội- đây là những thông tin cơ bản mà nhóm nghiên cứu có thể tìm được thông qua báo chí, những trang web và những nghiên cứu khảo sát gần đây nhất. Phần 2 nhóm nghiên cứu sẽ đi sâu phân tích thực trạng Phố cổ Hà nội dựa trên những mẫu phiếu điều tra, những cuộc phỏng vấn, những nghiên cứu thực địa… Phần 1: Tổng quan về phố cổ Hà Nội Từ website tương thích vào lúc 7pm ngày 15/2/2009 Đặc điểm về vị trí địa lý, dân số: Vị trí địa lý: Theo quyết định số 70 BXD/KT-QH ngày 30 tháng 3 năm 1995 của Bộ Xây dựng, khu Phố cổ Hà nội có phạm vi được xác định như sau: - Phía Bắc là phố Hàng Đậu - Phía Tây là phố Phùng Hưng - Phía Nam là các phố Hàng Bông, Hàng Gai, Cầu Gỗ và Hàng Thùng - Phía Đông đường Trần Quang Khải và đường Trần Nhật Duật Bản đồ khu phố cổ Khu phố cổ Hà Nội thuộc địa bàn quận Hoàn Kiếm với tổng diện tích khoảng 100 ha, có 76 tuyến phố thuộc 10 phường: Phường Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Buồm, Hàng Bồ, Hàng Bông, Hàng Gai, Hàng Mã, Đồng Xuân, Cửa Đông, Lý Thái Tổ. Mặc dù các phố cổ của Hà Nội còn nằm cả bên ngoài khu vực này, nhưng do đây là khu vực tập trung phố cổ nhiều nhất và còn giữ được những đặc trưng nên chỉ khu vực theo quy định trên được gìn giữ, bảo tồn là khu phố cổ. 1.2 Dân số: 1.2.1 Mật độ dân số: Theo những tài liệu nghiên cứu thì đầu những năm 90, dân số tại Phố cổ tăng lên là do số lượng dân từ các nơi khác nhập cư vào đây tăng cao. Dân số tại Phố cổ giai đoạn này khoảng 80.000 dân. Lý do chính của quá trình tăng dân số nhanh trong giai đoạn này vì Phố Cổ là khu vực nội thành đầu tiên của Hà nội. Nơi đây tập trung đông dân cư và có các hoạt động kinh tế rất sôi động, tạo nên sức hấp dẫn lớn đối với người dân ở các quận huyện và các tỉnh thành khác. Trong giai đoạn tiếp theo, dân số ở đây bắt đầu giảm dần bởi một số hộ dân đã chuyển đi nơi khác sinh sống. Trong giai đoạn từ năm 1999 đến 2000 đã có 2.799 hộ dân đã chuyển khỏi Phố Cổ. Đến nay dân số tại Phố cổ khoảng 60.372 người, tập trung đông nhất tại Phường Hàng Buồm với 9.175 người , Đồng Xuân: 8.811 người và Hàng Bồ: 8.085 người. Vào năm 2000, mật độ dân số Phố Cổ là 740,58 người/ha, gấp hai lần mật độ dân số trong Quận Hoàn Kiếm(324,19 người/ha). Những Phuờng có mật độ dân số cao nhất là phường Hàng Gai (963, 55 người/ha), Hàng Bồ (892,77 người/ha). Cũng theo kết qủa nghiên cứu của đoàn nghiên cứu HAIDEP, năm 2005, mật dộ dân số tại khu Phố cổ là 603 nguời/ha, cao hơn rất nhiều lần so với mật độ dân số của Hà nội là 36 người/ha. Những năm gần đây, dân số tại Phố cổ đã giảm nhưng mật độ dân số tại đây vẫn rất cao vì các lý do sau đây : Đây là một khu kinh doanh buôn bán sầm uất và sôi động tại Hà Nội. Với lợi thế vị trí trung tâm, nơi có lượng khách du lịch ghé thăm khá cao, lưu lượng người qua lại đông, việc mở rộng diện tích kinh doanh ngày càng gia tăng. Các ngôi nhà trong phố cổ đã được xây dựng từ khá lâu, đã xuống cấp, lại bị hạn chế về chiều cao và hầu hết không được mở rộng về diện tích. Tuy nhiên những người dân ở đây hầu hết là những người Hà Nội gốc, gia đình sống tại đây qua nhiều thế hệ, nên họ không muốn chuyển ra ngoài. Hơn nữa, ở đây họ có cơ hội kinh doanh, buôn bán với nguồn thu nhập cao giúp họ duy trì được cuộc sống ổn định. 1.2.2 Đặc điểm của các hộ gia đình : Nguồn gốc dân cư và thời gian cư trú: Cùng với sự giao thương buôn bán và sự phát triển thịnh vượng, vào thế kỷ 18, có một lượng người Trung Quốc đã đến làm ăn sinh sống ở đây tạo thành những phố có rất đông người Hoa sinh sống như Hàng Buốm, Lãn Ông, Tạ Hiền..v..v. - Giai đoạn 1954 đến 1998 dân số Hà nội tăng gấp 6,68 lần và số dân cư tập trung tại Phố Cổ khá đông. Tuy nhiên, những năm 1960, 1970 một bộ phận lớn dân cư ở đây rời Hà nội đến các vùng kinh tế phía Nam. Giai đoạn năm 1979, 1980 đại bộ phận người dân Trung Quốc sống tại Phố Cổ cũng trở về nước. Sau những năm 1970, cư dân còn lại ở Phổ Cổ là những người dân làm các nghề truyền thống hoặc buôn bán lâu đời và các cán bộ nhà nước, các hộ dân thuộc diện chính sách được phân nhà về đây. Như vậy, dân cư Phố Cổ có nguồn gốc từ các làng nghề xung quanh Hà Nội đến đây sinh sống. Họ định cư ở đây để vừa sản xuất, vừa buôn bán các sản phẩm thủ công (nghề thủ công được truyền lại qua nhiều thế hệ trong gia đình). Bên cạnh những gia đình đã sinh sống lâu đời, tại đây còn có các hộ dân nhập cư từ đầu những năm 1950, những năm 1990 và những gia đình có công với nước được Nhà Nước cho định cư vào khoảng những năm 1970, 1980. - Dân cư tại Phố cổ rất đa dạng và không đồng nhất, có nhiều sự biến động trong cấu trúc dân cư. Sự đa dạng và những biến động về cấu trúc dân cư cần được quan tâm trong quá trình hoạch định các chính sách về tái định cư - Do cấu trúc dân cư rất đa dạng nên cần phân cấp quản lý và tổ chức các hoạt động cộng đồng mang tính phường hội để thông qua đó củng cố các mối liên kết xã hội và nâng cao ý thức cộng đồng trong việc bảo tồn, gìn giữ các giá trị văn hóa. Đặc biệt cần nâng cao vai trò của người già trong cộng đồng dân cư ở đây. Qui mô hộ gia đình: - Cấu trúc gia đình hiện đại chiếm ưu thế trong Phố Cổ. Theo điều tra của HIS, trung bình mỗi gia đình ở đây có 4,2 thành viên. Về cơ bản, cấu trúc gia đình hạt nhân vẫn được duy trì với 33,9% gia đình có 4 thành viên. Ngoài ra, gia đình có từ 3 hoặc 5 thành viên trở lên chiếm tỉ lệ tương ứng là 19,44% và 19,08%. Tuy vẫn còn hộ gia đình có từ 9 đến 12 thành viên nhưng số hộ này chiếm tỉ lệ khiêm tốn 2,23%. Đặc điểm kinh tế-văn hoá-xã hội : Đặc điểm kinh tế: Phố cổ Hà Nội được hình thành từ thế kỷ 15, bao gồm 36 phố phường. Mỗi phường là khu tập trung dân cư sản xuất và buôn bán các nghề thủ công. Khu phố Cổ Hà Nội là khu thương mại, chợ và buôn bán lẻ lâu đời nhất còn tồn tại ở Việt Nam. Phố Cổ là linh hồn, là trái tim và là di sản của Thủ đô Hà Nội, cùng với vẻ duyên dáng của Khu phố Pháp, phố Cổ đã trở thành một nét rất riêng biệt của đất Hà Thành. Trong thời gian chịu ách đô hộ của Pháp, Hà Nội cũng có những thay đổi về mặt kinh tế xã hội như những thành phố thuộc địa khác. Nền kinh tế Phố Cổ chủ yếu phát triển dựa trên sự kết hợp thương mại và hoạt động thủ công mà trong đó thương mại đóng vai trò chủ đạo. Đây là một sự hết hợp giữa mạng lưới các chợ và những làng nghề thủ công. Đó là những làng nghề thủ công đã được chuyên môn hóa và đơn giản hóa nếu không tính đến những yếu tố phi thương mại và phi công nghiệp. Ngoài ra, mạng lưới chợ còn thu mua những mặt hàng thủ công đã thành phẩm hoặc mới gia công một số phần. Tại đây, những mặt hàng này sẽ được hoàn chỉnh và đem ra bán. Về mặt địa lí, những tuyến phố trong Phố Cổ khá hẹp và trên các phố đều có chợ. Mạng lưới chợ, bến sông, các tuyến phố nội thị và các phường đóng vai trò thiết yếu trong sự phát triển kinh tế của Hà Nội. Việt Nam đã có những bước tiến và thay đổi sâu sắc trong thời gian vừa qua. Điều này đã tác động và biến khu phố Cổ trở thành trung tâm kinh tế sôi động nhất với nhiều công ty tập trung nhiều nhất tại đây. - Hiện nay có khoảng 1.400 doanh nghiệp đăng kí kinh doanh trong địa bàn Phố Cổ và ước tỉnh khoảng 10.000 hộ kinh tế gia đình kinh doanh đa dạng các ngành nghề. Ngoài ra còn có hàng nghìn người (bao gồm người dân Phố Cổ và người ngoại tỉnh) tham gia vào các hoạt động kinh tế không chính thức. - Các hoạt động kinh tế đặc trưng của Khu phố Cổ là thương mại, du lịch và dịch vụ. Những hoạt động này không chỉ đóng một vai trò quan trọng đối với người dân Hà Nội mà còn có ảnh hưởng đến quá trình giao thương với các vùng xung quanh Hà Nội và các tỉnh phía Bắc - Sự phát triển nhanh của kinh tế Phố Cổ đã đóng góp nhiều nguồn tài chính cho ngân sách Chính phủ và địa phương. - Sự phát triển nhanh của thành phần kinh tế tư nhân đã tạo nhiều việc làm cho người dân Phố Cổ Đặc điểm văn hoá - xã hội: 2.2.1 Giáo dục: Phố cổ là nơi sinh sống chủ yếu của những người Hà Nội gốc, những gia đình tri thức và có truyền thống lâu đời, những gia đình công chức. Tuy đã có những sự di chuyển về dân số, song vẫn còn rất nhiều gia đình như vậy vẫn sinh sống tại phố cổ. Do vậy, có thể nói đây là một khu dân trí cao. Theo điều tra khảo sát của HIS, tỉ lệ người có học vị Thạc sĩ/ Tiến sĩ trong khu Phố Cổ là 1,6% cao hơn tỉ lệ của toàn thành (1,5%). Tương tự, tỉ lệ người tốt nghiệp đại học trong khu Phố Cổ là 21,9%; trong khi toàn Hà Nội thì tỉ lệ là 17,1%. Ngoài ra, số sinh viên các trường Đại học và Cao đẳng tại đây chiếm 1,7% và số học sinh trung học chiếm tới 1,8% dân số Phố Cổ. 2.2.2 Đời sống: Quận Hoàn Kiếm là trung tâm của thành phố Hà Nội, trong quận có tới 7 bệnh viện lớn. Ngoài ra, mỗi phường trong quận cũng có trạm y tế riêng cung cấp các dịch vụ y tế cho dân cư Phố Cổ. Đây là điều kiện thuận lợi cho người dân Phố Cổ đến khám chữa bệnh. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, các trang thiết bị y tế tại các Trung tâm y tế của Quận còn nghèo nàn về chất lượng lẫn số lượng, công tác khám chữa bệnh khá hạn chế. Do vậy, dân cư trong Quận nói chung và dân cư trong Phố Cổ nói riêng đều đến khám chữa bệnh tại các bệnh viện lớn. Trung tâm Y tế Quận và các trạm y tế phường vì thế không phát huy được vai trò chăm sóc sức khỏe ban đầu, trong khi đó các bệnh viện lớn luôn trong tình trạng quá tải. Vấn đề này đang thu hút sự quan tâm và đầu tư của Quận. Quận Hoàn Kiếm đã đề xuất một kế hoạch dài hạn trong khoảng thời gian từ năm 2001-2010 đảm bảo cung cấp khám chữa bệnh ban đầu với chất lượng tốt, đầu tư cải tạo và nâng cấp trạm y tế của 18 phường và đầu tư trang thiết bị để thực hiện chương trình y tế mục tiêu; nâng cấp và cải tạo Trung tâm Y tế Quận và cơ sở Y tế tại phố Hàng Lược; di chuyển hoặc xây mới trạm y tế phường Hàng Bạc và phòng khám tại 167 Phùng Hưng. Tổng ngân sách dự kiến trong giai đoạn này là 49,5 tỷ. 2.2.3 Giá trị văn hoá: Khu 36 phố phường xưa nổi tiếng là đất “ngàn năm văn vật”; Nơi đây, không chỉ đã từng là một trung tâm kinh tế mà còn là một trung tâm văn hoá đa dạng; văn hoá ẩm thực phong phú. Đình, đền, chùa, miếu...là những công trình kiến trúc in đậm dấu ấn văn hoá đặc trưng của vùng đất này. Bên cạnh đó là những di sản văn hoá phi vật thể: ca dao, truyện cổ, tín ngưỡng, tâm linh, cách sống, phong cách làm ăn, buôn bán...tại nơi đây. Ca dao tục ngữ chỉ là truyền miệng, tuy nhiên người đời đã ghi chép lại và in ra các ca dao tục ngữ. Tín ngưỡng, lễ nghi, thờ phụng, cúng bái, là vô thể, song chúng diễn ra ở nhà thờ, đình, đền, miếu một cách hữu hình. Hà Nội 36 phố phường không chỉ đơn thuần là sự hiện diện của những văn hoá vật thể, những công trình kiến trúc mà còn là khía cạnh văn hoá phi vật thể, đó chính là cái hồn của phố cổ.  Hà Nội là đất Kinh Đô ngàn năm văn hiến, nơi hội tụ kết tinh, tinh tuý của mọi miền. Di sản văn hoá phi vật thể Hà Nội có trữ lượng khá lớn, nó đã phản ánh một cách phong phú, đa dạng và chân thực truyền thống sinh hoạt văn hoá của người Hà Nội. Một số loại hình của bộ phận di sản này trong những năm qua đã được sưu tầm, nghiên cứu như làng nghề phố nghề, sinh hoạt lễ hội, nghề, phong cách sống, ẩm thực...Văn hoá phi vật thể Hà Nội là tổng hoà các yếu tố giao lưu, hội nhập, dung hoà, tiếp biến, cởi mở, linh hoạt, để tạo nên bản sắc Thăng Long - Hà Nội. Văn hoá ẩm thực của người Hà Nội là một nét văn hoá mà cho đến nay đó vẫn là một trong những điểm thu hút khách du lịch ở khắp mọi nơi trên thế giới. Trong kho tàng văn hoá phi vật thể Hà Nội các giá trị về văn hoá ẩm thực chiếm một vị trí đáng kể. Chính những giá trị này đã góp phần sâu sắc để định hình nên bản sắc văn hoá Hà Nội, phong vị Hà Nội như đã được nhắc đến khá nhiều. Những món ăn đặc sản như chả cá Lã Vọng, Xôi lúa Tương Mai, cốm Vòng, bánh cuốn Thanh Trì, rượu Mơ...Những quán ăn với cách bài trí thanh lịch, những tiếng rao đêm đầy ấn tượng của Hà Nội xưa, những thói quen trong cách ăn uống...tất cả đã góp phần làm cho Hà Nội trở thành khó quên đối với những ai đã từng một lần đặt chân tới nơi đây. Phố Cổ là nét đặc trưng của Hà Nội. Năm 2004, “Khu Phố Cổ Hà Nội” được xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia. Và đến nay thành phố Hà Nội đã có chủ trương đưa khu Phố Cổ Hà Nội vào lộ trình trở thành di sản thế giới, đó sẽ trở thành niềm tự hào của cả dân tộc Việt Nam, cũng như sẽ là nguồn động lực, nguồn cổ vũ để tất cả mọi người giải quyết tốt việc bảo tồn, gìn giữ, tôn tạo và phát huy các giá trị của di sản này. Giá trị kiến trúc, cảnh quan: Phố Cổ Hà nội với lịch sử lâu đời luôn là niềm tự hào về một di sản kiến trúc quí báu mang đậm bản sắc truyền thống văn hoá của dân tộc và xứng đáng tượng trưng cho cốt cách linh hồn của Thủ đô ngàn năm văn hiến. Khu Phố Cổ Hà nội với những kiến trúc đặc trưng, mang đậm nét văn hoá nhưng từ 15 năm nay với sự ảnh hưởng của nền kinh tế phát triển sau thời kì đổi mới, các loại kiến trúc tự phát đã làm phã vỡ không gian Phố Cổ. Hiện nay với nhận thức được giá trị của khu Phố Cổ, thành phố Hà nội đang đưa các biện pháp để quản lý việc trùng tu khu Phố Cổ và nâng cao giá trị văn hoá lịch sử của khu Phố Cổ, cùng hoà nhịp với sự phát triển kinh tế của khu Phố Cổ. Kiến trúc đô thị là biểu hiện văn hoá vật chất của cộng đồng được hình thành qua quá trình phát triển liên tục và tuân theo qui luật tiếp biến văn hoá. Vì vậy, nhận diện bản sắc văn hoá đô thị, có một phần quan trọng thông qua các giá trị của kiến trúc đô thị.   Khu Phố Cổ là thành phần quan trọng trong hệ thống trung tâm lịch sử của Hà Nội - nơi tập trung cao nhất mọi hoạt động của đô thị, là hình ảnh đại diện các giá trị văn hoá đô thị của Hà Nội. Phố cổ Hà nội với lịch sử lâu đời luôn là niềm tự hào về một di sản kiến trúc quí báu mang đậm bản sắc truyền thống văn hoá của dân tộc và xứng đáng tượng trưng cho cốt cách linh hồn của Thủ đô ngàn năm văn hiến. Các giá trị văn hoá của khu Phố cổ Hà nội được nhận biết đồng thời qua các đặc trưng hình thái kiến trúc, cảnh quan đô thị và qua ý nghĩa tượng trưng của kiến trúc đô thị vốn được tạo thành bởi phương thức tổ chức, đặc thù về hoạt động kinh tế xã hội và văn hoá của cộng đồng dân cư. Phần 2: Thực trạng phố cổ Hà Nội Nhóm nghiên cứu đã gửi 200 mẫu phiếu điều tra cho các hộ gia đình sinh sống bên trong khu Phố cổ, 156 phiếu điều tra đã được phản hồi chiếm tỷ lệ 78%. Bên cạnh đó nhóm nghiên cứu đã có những cuộc phỏng vấn nhanh với rất nhiều du khác nước ngoài, 100 mẫu phiếu điều tra đã được gửi trong lúc phỏng vấn với kết quả là có 95% du khách hào hứng trả lời. Lý do của những phiếu điều tra không được trả lời là do “tôi quá bận”, “tôi không có ý kiến”. Nghiên cứu đầu tiên ta thấy dưới đây là nghiên cứu về thời gian sống của những người dân tại phố cổ Hà Nội. Như bạn thấy trong Hình 1 dưới đây hầu hết những người dân trả lời rằng họ đã sống ở Phố cổ trên 20 năm chiếm tỷ lệ khoảng 71%, đây là những người dân sống lâu đời trong khu phố cổ. Câu trả lời với khoảng thời gian sống từ 1 tới 10 năm chiếm tỷ lệ chỉ 9 %. Phần lớn những người được phỏng vấn là của người gốc Hà nội, họ đã sinh sống ở đây và trở thành một phần của những con phố cổ ấy. Việc sống lâu đời trong các khu phố cổ tạo nên một nét văn hóa riêng cho khu phố cổ của Hà nội, đây không chỉ là vẻ lâu đời về kiến trúc mà còn là bề dầy về thời gian gắn bó của người dân với Phố cổ. Hình 1 ( Biểu đồ về thời gian sống của người dân tại phố cổ Hà Nội qua khảo sát) Tiếp theo là nghiên cứu về số người ở từng hộ gia đình, Hình 2 cho thấy, thông thường là từ 3 đến 5 người trong 1 hộ. Con số này chiếm 62%. Và các hộ gia đình có hơn 5 người dân là 22%. Kết hợp với các con số ở Hình 3 ở dưới, chúng ta có thể thấy một vấn đề là diện tích quá hẹp, trong khi những người trong mỗi hộ gia đình đang khá đông đúc. Vì vậy, các hộ dân đang sinh sống ở khu phố khu vực Hà Nội cũ bị sống khá bó buộc trong những căn nhà nhỏ hẹp. Theo những nghiên cứu mà chúng tôi tìm hiểu được thì hầu hết những ngôi nhà ở phố cổ ban đầu được dùng làm các của hàng, làm nghề thủ công và tiểu thương hộ gia đình.Tuy vậy, hiện nay phần lớn họ đã trở thành dân cư,với 2 hay 3 thế hệ cùng sống chung dưới 1 mái nhà. Trong nhiều trường hợp, một số lượng lớn người cùng sử dụng chung nhà tắm và khu vệ sinh. Với số lượng người ra tăng không ngừng khu phố cổ ngày càng trở nên chật hẹp.Sự ra tăng dân số trong các hộ dân tại phố cổ làm ảnh hưởng tới đời sống của người dân,nhu cầu về không gian sống không gian sinh hoạt được mở rộng. Phố cổ Hà nội với lối kiến trúc cổ ngày càng trở nên chật hẹp dẫn tới các nhu cầu về mở rộng kiến trúc, mở rộng khu buôn bán. Do không gian chập hẹp người dân sống trong các khu đều cố gắng mở rộng tối đa các diện tích xung quanh nên các khu diện thích chung càng bị thu hẹp. Sự ra tăng dân số cũng là nguyên nhân gây sự lộn xộn cho khu phố cổ ở Hà nội không chỉ có nhà ở mà các tập tục văn hóa cũng dần mai một. Hình 2 ( Biểu đồ về số lượng thành viên trong gia đình tại phố cổ Hà Nội qua khảo sát) Khi được hỏi về diện tích của những căn nhà,hầu hết cảm giác là không hài lòng với diện tích nhà của họ. Nó quá nhỏ và hẹp. Hình 3 biểu thị diện tích nhà của những người được phỏng vấn chủ yếu là từ 15m2 tới 25m2, chiếm 42%. Diện tích nhà của những người dân trong khu phố cổ từ 25m2 tới 35m2 chiếm 36%. Dù sao đi nữa, đây quả là 1 tin đáng buồn. Chúng ta có thể nhìn ở trong hình vẽ rằng, chỉ có 9% những người được hỏi sở hữu diện thích lớn hơn 35m2. Đã khi nào bạn hỏi ngôi nhà của bạn rộng bao nhiêu và như thế có thật thoải mái cho tất cả các thành viên trong gia đình sống hay không? Thử hình dung xem một gia đình có 3 người mà sống trong một căn hộ chỉ 10-15m2 thì sẽ thế nào nhỉ? Vậy mà tại phố cổ nơi được coi là trung tâm của Hà Nội lại có rất nhiều những gia đình như thế. Những bức ảnh mà nhóm nghiên cứu ghi lại được không khỏi khiến chúng ta giật mình. Hình 3 ( Biểu đồ về diện tích nhà ở tại phố cổ Hà Nội qua khảo sát) Nhà chật quá, thôi đành Nhà chật nên bữa ăn “Sàn thủng” một cách giao treo xe đạp lên vậy. cũng phải chia làm nhiều ca lưu với nhà dưới Cấu trúc gia đình hiện đại chiếm ưu thế trong Phố Cổ. Theo điều tra của HIS, trung bình mỗi gia đình ở đây có 4,2 thành viên. Về cơ bản, cấu trúc gia đình hạt nhân vẫn được duy trì với 62,05% gia đình có 4-5 thành viên. Ngoài ra, gia đình có từ 1-3 và trên 5 thành viên chiếm tỉ lệ tương ứng là 16,45% và 21,5%. Nhìn vào bảng 1 sẽ thấy sự chênh lệch giữa quy mô gia đình với diện tích căn hộ, trong 26 hộ gia đình có số thành viên từ 1-3 người đã được khảo sát, không có hộ nào có diện tích nhà trên 35m2, cũng với số thành viên như vậy thì có tới 13 gia đình có diện tích từ 10-15m2. Có tới 46 căn hộ được khảo sát có 4-5 thành viên sống trong những căn hộ chỉ có diện tích từ 15-25m2, có nghĩa là mật độ là 3,75-5m2 /người. Hầu hết những người dân ở đây đều cảm thấy không hài lòng về không gian và diện tích sống quá nhỏ hẹp này. 10-15m2 16-25m2 26-35m2 Trên 35m2 Tổng cộng 1-3 người 13 12 1 - 26 4-5 người 6 46 43 3 98 Trên 5 người 1 9 13 11 32 Tổng cộng 20 67 57 14 156 Bảng 1 Phố cổ HN được hình thành từ thế kỷ thứ15. Hầu hết các căn hộ ở Phố cổ được xây dựng rất kiên cố và có tuổi thọ rất lâu dài. Một nửa số căn nhà đã khảo sát có tuổi thọ trên 200 tuổi, 38% số căn nhà có tuổi thọ 150-200 tuổi và 12% là những căn nhà từ100-150 năm tuổi thọ. Với những nét kiến trúc rất riêng biệt, những ngôi nhà ở phố cổ đã tạo nên những nét văn hoá không chỉ của riêng khu phố này mà còn là một nét đặc trưng mỗi ai đó nhắc đến đất Hà Thành. Những du khách trong và ngoài nước khi dạo quanh khu phố cổ đều cảm thấy tò mò và thích thú về những ngôi nhà ấy (Hình 4). Hình 4 ( Biểu đồ về tuổi thọ ngôi nhà của các gia đình tại phố cổ Hà Nội qua khảo sát) Do thời gian sử dụng đã lâu nên hầu hết các ngôi nhà tại đây đã bị xuống cấp. Bên cạnh đó thì việc bảo tồn không theo một quy hoạch tổng thể thống nhất nào nên vẫn chưa thực sự hiệu quả. Có đến 50% số người được phỏng vấn cho rằng ngôi nhà của họ đang trong tình trạng xấu, 35% cho rằng những ngôi nhà đang xuống cấp nghiêm trọng, chỉ có 15% đánh giá những ngôi nhà là khá ổn và không có ngôi nhà nào được đánh giá là rất tốt. Hình 5 ( Biểu đồ về chất lượng ngôi nhà tại phố cổ Hà Nội qua khảo sát) Khi tiến hành điều tra về mức độ hài lòng với điều kiện sống hiện tại của cư dân phố cổ, con số đưa ra làm chúng ta không khỏi giật mình, chỉ có 16% những người được hỏi thầy rằng “ tạm hài lòng” với cuộc sống ở phố cổ hiện nay trong khi đó lên tới 67 % lại cho rằng chất lượng, điều kiện sống ở phố cổ không đáp ứng được những nhu cầu sống tối thiểu của họ (Hình 6). Hình 6 ( Biểu đồ về sự hài lòng với điều kiện sống ở phố cổ Hà Nội) Trong số những người được hỏi cảm thấy hài lòng với điều kiện sống ở phố cổ thì có tới 88% là những người đang kinh doanh buôn bán tại phố cổ . Một lý do nữa đó là phố cổ nằm tại trung tâm của Hà Nội, họ cảm thấy rất thuận tiện trong việc giao thông đi lại, đi làm, đi học hoặc các công việc khác... tỷ lệ này lên tới 73% những người được phỏng vấn. Hình 7 ( Biểu đồ về lý do sống ở phố cổ Hà Nội qua khảo sát) Với những người cảm thấy rất bức xúc, không hài lòng về điều kiện sống ở phố cổ thì cho rằng lý do chính đó là họ đang sống trong những ngôi nhà rất chật hẹp, thiếu không gian. Thông thường mỗi gia đình thường có từ 4-5 người nhưng diện tích đất chỉ đủ cho hai người sinh hoạt thoải mái. Nhà cửa ở phố cổ hiện nay đang bị xuống cấp nặng nề, môi trường sinh hoạt mất vệ sinh trầm trọng là lý do mà 78% số người được hỏi cho rằng họ không thoả mãn với điều kiện và môi trường sống ở phố cổ. Một số người cho rằng họ lại không chịu được tiếng ồn và sự đông đúc ở đây. Nằm tại vị trí trung tâm của thủ đô Hà nội, phố cổ Hà nội thu hút rất nhiều khách du lịch, ở đây mọc lên rất nhiều nhà hàng khách sạn, các trung tâm mua sắm. Có rất nhiều lý do làm cho người dân ở đây không thấy thoải mái với cuộc sống hiện có lý do chủ yếu chiếm 93% là do diện tích quá nhỏ hẹp. Hình 8 ( Biểu đồ về lý do không thỏa mãn khi sống ở phố cổ Hà Nội qua khảo sát) Phố cổ chẳng còn là phố cổ nữa??? Vâng, một nhận xét có lẽ khiến những người dân Việt Nam cảm thấy thực sự đau lòng. Chúng ta hãy cùng xem đánh giá của Ban quản lý Phố cổ về thực trạng hiện nay Từ website tương thích lúc 9h ngày 23/3/2009 : Trên 90% di tích khu phố cổ bị lấn chiếm: Khu phố cổ có 122 di tích lịch sử và văn hóa, trong đó có 97 di tích lịch sử tôn giáo và tín ngưỡng, 25 di tích cách mạng, kháng chiến. Theo báo cáo của ngành Văn hóa Thông tin, trên 90% số di tích trong khu phố cổ đã bị lấn chiếm. Trong số 300 ngôi nhà cổ ở Hà Nội, thì chỉ có khoảng 10% ở trong tình trạng bảo quản tốt, số còn lại hoặc là xuống cấp hoặc ít nhiều bị biến thể (cải tạo, cơi nới). Số những ngôi nhà xuống cấp, thì hầu hết các hạng mục như kết cấu bộ khung nhà, phần tường, mái... đều hư hỏng. Số những ngôi nhà "biến thể" một, hai nếp (thường là nếp bên trong) lên 2 tầng, thậm chí lên 3- 4 tầng, hoặc cải tạo sân thành nơi ở chiếm số lượng khá nhiều. Bản thân nhà 47 Hàng Bạc được coi gần như "tiêu biểu" cho nhà cổ Hà Nội với những họa tiết trang trí rõ nét ở phần cổ diêm, mái ngói ta, tường hồi giật cấp... thì nếp nhà trong cùng cũng đã bị bêtông hóa thành nhà 3 tầng. Có lẽ, không một khu phố cổ nào không có sự xây dựng trái phép. Trong hai ngày đi nghiên cứu khảo sát thực địa, nhóm nghiên cứu đã ghi lại rất nhiều những bức hình của những ngôi nhà “hiện đại” mà đáng nhẽ đó phải là những ngôi nhà “cổ”. Và một sự thực đau lòng rằng, nếu cứ tiếp tục buông lỏng trong quản lý xây dựng, tiếp tục “nhẹ tay” trong việc xử lý vi phạm như thế này thì trong tương lai, khi chúng ta vào thăm Phố cổ, tìm một ngôi nhà cổ theo đúng nghĩa chắc chắn phải “mỏi mắt kiếm tìm”. Sau đây chỉ là một số trong bộ sưu tập “hoành tráng” của nhóm nghiên cứu về tình hình vi phạm xây dựng tại khu Phố cổ: Một ngôi nhà “hiện đại”nằm xen giữa hai Nhìn từ trên cao, một câu hỏi đặt ra “chúng ngôi nhà cổ tại phố Hàng Bè ta còn bao nhiêu nhà cổ để bảo tồn???” Phố “cổ” Mã Mây Sự kết hợp giữa” hiện đại” và “ cổ kính” tại Hàng Bạc Cùng ghé thăm phố

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22186.doc
Tài liệu liên quan