Đề tài Bình đẳng giới trong sự phân công lao động ở các gia đình đô thị hiện nay ( Khảo sát trên địa bàn Hà Nội )

MỤC LỤC

PHẦN ĐỀ CƯƠNG

1. Tính cấp thiết của đề tài .1

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 5

2.1. Mục đích nghiên cứu .5

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu .5

3. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu 5

3.1. Đối tượng nghiên cứu .5

3.2. Khách thể nghiên cứu 6

3.3. Phạm vi nghiên cứu 6

4. Phương pháp nghiên cứu 6

4.1. Phương pháp nghiên cứu định lượng .6

4.2. Phương pháp nghiên cứu định tính .6

4.3. Phương pháp thu thập dữ liệu .7

4.4. Phương pháp quan sát .7

PHẦN NỘI DUNG

Chương I. Cơ sở lý luận

1.Cơ sở lý luận .7

1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề bình đẳng giới

trong gia đình .7

1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề bình đẳng giới trong gia đình.8

1.3. Quan điểm của Đảng, nhà nước về vấn đề bình đẳng giới trong gia

đình .9

2.Các phương pháp tiếp cận .10

2.1. Lý thuyết cơ cấu chức năng 10

2.2. Lý thuyết giới 11

2.3. Lý thuyết nữ quyền .11

ChươngII. Vấn đề bình đẳng giới trong sự phân công lao động ở các gia

đình đô thị hiện nay

1.Bình đẳng giới trong hoạt động sản xuất 12

1.1. Bình đẳng giới trong lao động sản xuất và lao động tái sản xuất 12

1.2. Bình đẳng giới trong cách tiếp cậnvề mặt kinh tế 15

1.3.Bình đẳng giới trong vấn đề tạo quyền sử dụng giữa nam và nữ

trong gia đình .18

2. Bình đẳng giới trong hoạt động chăm sóc gia đình và sinh đẻ .21

2.1. Vai trò của người phụ nữ trong gia đình . .21

2.2. Bình đẳng giới trong cách tiếp cận nguồn lực văn hóa, giáo

dục 24

2.3. Bình đẳng giới trong cách tiếp cận nguồn lực y tế, sức khỏe 26

3. Bình đẳng giới trong hoạt động cộng đồng .27

Chương III.Nguyên nhân và giải pháp

1. Nguyên nhân dẫn đến vấn đề bất bình đẳng giới trong gia đình .29

2. Giải pháp nhằm xóa bỏ tình trạngbất bình đẳng giới .30

Chương IV. Kết luận và khuyến nghị

1. Kết luận .30

2. Khuyến nghị .31

pdf33 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4547 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bình đẳng giới trong sự phân công lao động ở các gia đình đô thị hiện nay ( Khảo sát trên địa bàn Hà Nội ), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là sự thể hiện phân công lao động theo giới. Vai trò giới chính là thể hiện sự phân công lao động theo giới, trong từng thời gian cụ thể vai trò có sự biến đổi, do phân công lao động theo giới cũng biến đổi theo. 2.3. Lý thuyết nữ quyền Lý thuyết nữ quyền cho rằng nam giới và nữ giới trải nghiệm thực tế cuộc sống và cảm nhận về đời sống gia đình rất khác nhau. Từ quan điểm giới, gia đình không phải là một đơn vị hài hòa, hợp tác, dựa trên cơ sở lợi ích chung và giúp đỡ lẫn nhau, gần giống quan điểm tiếp cận xung đột mà đây là nơi diễn ra sự phân công lao động theo giới, quyền lực và cơ hội tiếp cận nguồn lực không ngang nhau và luôn bất lợi cho phụ nữ. Chương II. Bình đẳng giới trong sự phân công lao động ở các gia đình đô thị hiện nay 1. Bình đẳng giới trong hoạt động sản xuất 1.1. Bình đẳng giới trong lao động sản xuất và lao động tái sản xuất Bàn về vấn đề bình đẳng theo giới giữa nam và nữ trong gia đình, tác giả Trần Thị Kim Xuyến với tác phẩm “Gia đình và những vấn đề của gia đình hiện 12 đại”, nhà xuất bản thống kê, 2001 đã cho thấy sự biến đổi xã hội đến vai trò giới trong gia đình, vai trò nam và nữ trong gia đình. Từ đó cho thấy vai trò sản xuất của lao động nam nữ, vai trò đóng góp kinh tế, vai trò nam và nữ trong công việc gia đình, vai trò quyền lực nam và nữ trong gia đình và sự ảnh hưởng của kinh tế thị trường đến vai trò kép của phụ nữ. Qua khảo sát trên địa bàn Hà Nội, thì quan hệ giữa nam và nữ trong cộng đồng thoạt nhìn cũng theo kiểu truyền thống. Đối với việc phân công lao động và trách nhiệm trong mối quan hệ vợ chồng, xã hội truyền thống đặt ra nhiều kỳ vọng đối với những đôi vợ chồng: Phụ nữ thì phải “công, dung, ngôn, hạnh”, “ xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử, phu xướng phụ tùy”, giữ gìn trinh tiết, nam giới thì “ tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, luôn giữ địa vị làm chủ trong gia đình và rất nhiều các ràng buộc khác trong mối quan hệ với họ hàng, hàng xóm,… Những quy định của xã hội truyền thống đã mang tính áp đặt đối với gia đình theo tiêu chí xây dựng gia đình hạnh phúc như người chồng thường lo những việc lớn trong gia đình như là trụ cột của kinh tế, lo toan chuyện nghề nghiệp kiếm sống, quyết định hôn nhân cho con cái, mua đất xây dựng nhà cửa. Trong khi đó, phụ nữ thường đảm nhiệm các công việc nội trợ, sinh con đẻ cái, quán xuyến công việc trong gia đình. Đây được coi là điều hiển nhiên trong xã hội truyền thống, khi nam giới là tượng trưng cho sức mạnh, có điều kiện giao tiếp, hiểu biết nhiều và do vậy, đóng góp cho gia đình nhiều hơn. Tuy nhiên ngày nay, vấn đề bình đẳng giới trong gia đình có phần nào cởi mở hơn. Người vợ trong gia đình có thể vừa làm nội trợ vừa tham gia vào lĩnh vực sản xuất vì nhu cầu sản xuất của xã hội, vì sự bình đẳng giữa vợ và chồng trong việc đóng góp thu nhập vào hộ gia đình, thì trong lĩnh vực nội trợ cũng cần đến sự chia sẻ của người chồng. Kết quả phân tích cho thấy người vợ vẫn là người làm chính các công việc nội trợ và làm thêm các công việc lao động sản xuất khác trong gia đình như: buôn bán, làm công chức…. Đây là một lĩnh vực của đời sống gia đình thể hiện sự bất bình đẳng giới. Người phụ nữ gắn liền với vai trò người vợ, người mẹ, người nội trợ trong gia đình và phải chịu gánh nặng kép. Tuy 13 nhiên, việc nắm giữ nhiều vai trò trong công việc gia đình cùng với sự đảm bảo trách nhiệm theo sự phân công lao động xã hội thì việc nội trợ cũng mang lại nhiều bất lợi cho người phụ nữ. Đối với những người bị buộc phải làm thêm, ngày làm việc của họ sẽ bị kéo dài hơn, đồng thời đối với những người có nghề nghiệp chuyên môn, những trách nhiệm gia đình có thể là sự cản trở đối với tiến bộ nghề nghiệp. Trong khi đó, người đàn ông lại ít tham gia vào các công việc nội trợ trong gia đình. Họ chỉ chú tâm vào các việc lớn trong gia đình và các công việc ngoài xã hội, kiếm được thu nhập mà ít quan tâm đến công việc nội trợ trong gia đình. Theo kết quả điều tra xã hội học của trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ tiến hành năm 2002 thì trong gia đình hiện nay, người vợ là người làm chính các công việc nhà. Tỷ lệ này đặc biệt cao trong các công việc như: Nấu ăn: 77.8%; mua thực phẩm: 86.9%; giặt quần áo: 77.6%; chăm sóc con cái: 43.4%. Người đàn ông có tham gia vào các công việc gia đình nhưng với tỷ lệ rất thấp, chỉ chiếm dưới 5%. Như vậy, phần lớn công việc gia đình vẫn do người vợ đảm đương. Tuy nhiên, có sự khác biệt giữa các vùng nông thôn và thành phố. Nếu như những người vợ ở nông thôn làm việc nhà với tỷ lệ: Nấu ăn: 82.1%; mua thực phẩm: 87.3%; giặt quần áo: 80.8%; chăm sóc con: 52.4% thì những người vợ ở thành phố làm các công việc trên với tỷ lệ tương ứng là: 76.3% / 84.9% / 55.9% / 30.3%. Kết quả nghiên cứu trên cho thấy những người vợ nông thôn làm việc nhà với tỷ lệ cao hơn hẳn so với những người vợ ở thành phố. Nghĩa là sự bất bình đẳng giới trong công việc gia đình có sự chênh lệch giữa các khu vực… Các số liệu trên cho thấy, vấn đề bất bình đẳng giới trong sự phân công lao động trong gia đình giữa nam và nữ, giữa người vợ và người chồng vẫn đang tồn tại ở các gia đình Việt Nam. Bởi từ trước đến nay, mọi người đều nhìn nhận việc tề gia nội trợ là công việc gắn liền với người phụ nữ, đó là nghĩa vụ, là trách nhiệm của người phụ nữ trong gia đình. Chính nhìn nhận này đã làm cho nỗi vất vả của người phụ nữ tăng lên, trong khi người phụ nữ vẫn phải tham gia công việc ngoài xã hội như nam giới. Phân tích tình hình giới ở Việt Nam cho thấy tình hình tương 14 tự. Bất luận chủ hộ là nam hay là nữ , phụ nữ đều phải làm việc nội trợ gấp hai lần nam giới. Phân công lao động nội trợ có lẽ là một trong những lĩnh vự bất bình đẳng nhất giữa nam và nữ. Vì thế, thậm chí người phụ nữ có nhiều khả năng độc lập kinh tế và quyền ra quyết định nhiều hơn thì họ vẫn có ít thời gian nghỉ ngơi hơn bởi những vai trò truyền thống về giới vẫn chưa thay đổi được bao nhiêu. (J.Desai, 1995). Tại nơi tôi đang sống, theo tôi nghĩ thì vấn đề bất bình đẳng giới vẫn còn tồn tại, nhưng không đáng kể. Như gia đình tôi chẳng hạn, cả tôi và chồng tôi cùng đi làm công chức như nhau, nhưng khi tan sở về thì tôi phải bỏ thời gian để chăm sóc con cái, và đến công việc nội trợ. Còn chồng tôi, anh ấy cũng công việc như thế nhưng thời gian bỏ ra trong công việc gia đình thì ít hơn so với tôi.( PVS nữ, 27 tuổi, Q. Ba Đình, Hà Nội ). Rất khó nhìn nhận vấn đề bất bình đẳng trong các gia đình tại địa phương tôi, bởi mỗi nhà mỗi cảnh. Như gia đình tôi, công việc nội trợ chủ yếu là do vợ tôi làm. Còn tôi chỉ phụ giúp được phần nào hay phần đấy thôi, thỉnh thoảng tôi trông con bởi tôi rất bận với công việc ở cơ quan, còn công việc của tôi trong gia đình là sửa chữa các thiết bị bị hỏng hóc như sửa điện, xây lại mái tôn bị hỏng,…( PVS nam, 30 tuổi, Q. Cầu Giấy, Hà Nội ). Ở Việt Nam đã có những cố gắng suốt gần năm thập kỷ nhằm xây dựng “ Gia đình xã hội chủ nghĩa, vợ chồng bình đằng”. Ông Vũ Mạnh Lợi nhận xét rằng trong hàng triệu gia đình, cuộc sống vẫn trôi đi theo những nguyên tắc không thành văn được mọi người ngầm chấp nhận. Ở Việt Nam cũng như ở các nơi khác, nhiều người tin rằng địa vị thứ yếu của người phụ nữ trong gia đình chủ yếu bắt nguồn từ vao trò kinh tế phụ thuộc của họ. Song, ông Lợi kết luận “ nhiều thế hệ phụ nữ kế tiếp nhau trong hàng chục năm ròng đã từng có những đóng góp quan trọng và phần nhiều vào đời sống gia đình, nhưng địa vị của họ trong gia đình không được cải thiện so với nam giới tương ứng với những đóng góp đó. Sự giải phóng phụ nữ 15 dường như chỉ dừng lại ở những cái mà cơ chế xã hội mới đem lại ( như trong lĩnh vực y tế, giáo dục, các quyền luật định khác )”. Nhưng trong bối cảnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa hiện nay thì sự phân công lao động đã có sự thay đổi. Nếu như trước đây, người chồng giữ vai trò trụ cột về kinh tế, còn người vợ làm nội trợ thì ngày nay, người phụ nữ Việt Nam vừa làm công việc nội trợ gia đình vừa kiêm luôn vai trò nắm giữ kinh tế của gia đình. Vì vậy sự phân công lao động theo giới đưa tới việc nam giới là nguồn lao động chính và nữ giới là người quản lý và thực hiện công việc gia đình. Tuy nhiên, khi được hỏi về quan niệm về sự phân công lao động trong gia đình của những người chủ hộ thì chính người phụ nữ lại luôn nhận phần trách nhiệm cao hơn về mình. Trong gia đình tôi, vợ tôi làm công việc nội trợ chính. Đó là chăm sóc con cái, làm bếp và dọn dẹp nhà cửa. Còn tôi thì chỉ phụ giúp vợ tôi thôi. Thỉnh thoảng 2 vợ chồng tôi cùng dọn dẹp nhà cửa, cùng chăm con và tôi thì sửa chữa máy móc và công việc ngoài xã hội chiếm của tôi cũng khá nhiều thời gian. Rất may, vợ tôi có thể hiểu và thông cảm được cho tôi. ( PVS nam, 37 tuổi, Q. Đống Đa, Hà Nội ). Điều này cho thấy cả nam và nữ đều đồng ý công việc gia đình của người vợ đều cần có sự chia sẻ của người chồng. Vì ngày nay người phụ nữ ngoài việc nội trợ, chăm sóc gia đình, họ còn trực tiếp tham gia sản xuất nên họ không thể làm tốt cùng một lúc cả công việc gia đình và công việc ngoài xã hội nếu không có sự chia sẽ, giúp đỡ của người chồng. 1.2. Bình đẳng giới trong cách tiếp cận nguồn lực về mặt kinh tế Nói đến hoạt động sản xuất, chúng ta không thể không nói đến cách tiếp cận các nguồn lực trong gia đình. Trước hết phải kể đến cách tiếp cận nguồn lực về mặt kinh tế. Như chúng ta đều biết, khi con người có vị trí bình đẳng thì con người mới phát huy được hết những tiềm năng ẩn kín để cống hiến cho sự phát triển xã hội, và cho sự giàu mạnh cũng như hạnh phúc của gia đình. Nói đến bình đẳng không thể không nói đến người phụ nữ. Thật vậy, người phụ nữ trong nửa thế kỷ qua đã xả thân vì nước, vì gia đình thì cũng chính là họ xả thân để vươn tới vị trí bình đẳng 16 của giới họ trong gia đình và xã hội. Phụ nữ cũng có thể làm được các công việc lớn kiếm được thu nhập cao, đảm bảo cho kinh tế gia đình trong cả hai lĩnh vực sản xuất và lao động gia đình. Vậy mà khi tìm hiểu ai là người có mức thu nhập cao nhất trong gia đình thì khoảng 50% gia đình đánh giá hai người ngang nhau, chỉ có 15% đánh giá rằng người vợ có thu nhập cao hơn người chồng. Sự đánh giá kể trên đã thể hiện một cách nhìn nhận thiếu công bằng trong sự định giá lao động và khả năng kinh tế của người phụ nữ. Mặc dù thế, nhưng phần lớn các hộ gia đình vẫn cho rằng nam giới kiếm thu nhập cao hơn và đảm bảo kinh tế cho gia đình hơn so với phụ nữ bởi nam giới tham gia vào các tổ chức xã hội và hoạt động cộng đồng như tập đoàn, đội sản xuất, là người tiếp cận các nguồn lực kinh tế để tiếp thu, học hỏi và phát triển kinh tế cho gia đình mình vì nam giới đóng vai trò trụ cột trong gia đình. Gia đình tôi thì kinh tế chủ yếu là do chồng tôi làm, kinh tế của tôi chỉ phụ thuộc vào mặt hàng bán rong thôi, nên cũng chẳng kiếm được là mấy. Lương của chồng tôi cũng chỉ hơn 2 triệu 1 tháng thôi, cũng không đủ cho sinh hoạt hàng tháng nhưng may mà có thu nhập đó của chồng tôi, nếu không thì gia đình tôi thiếu thốn nhiều lắm. (PVS nữ, 34 tuổi, Q. Ba Đình, Hà Nội ) Lương của vợ tôi cao hơn tôi, nên có thể nói là chủ chốt kinh tế trong gia đình tôi là vợ tôi. Nhưng không vì thế mà vợ tôi có thể thích làm gì thì làm được, muốn làm cái gì cũng phải thông qua tôi, tôi thấy hợp lý, đồng ý thì mới được làm. Lương cao hay thấp là do từng ngành nghề chứ không phải tôi kém cỏi hơn vợ tôi mà thu nhập của tôi thấp hơn đâu. (PVS nam, 46 tuổi, Q. Đống Đa, Hà Nội ). Bàn về vấn đề này, Tác giả Nguyễn Thị Nguyệt, nghiên cứu viên Tạp chí Quản lý Kinh tế. Với đề tài “Bất bình đẳng giới về thu nhập của người lao động ở Việt Nam và một số gợi ý giải pháp chính sách” đã tập trung nghiên cứu các vấn đề về xu hướng của bất bình đẳng trong thu nhập hiện nay, các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ bất bình đẳng trong thu nhập, và đồng thời phân tách các chỉ tiêu theo trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, vùng, ngành kinh tế để đưa ra được gợi ý giải 17 pháp phù hợp. Hay như báo cáo “Khác biệt giới trong sự chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam” đã có những bước phát hiện rất quan trọng về giới : điều tra mức sống ở Việt nam lần 2, 1997 – 1998. Báo cáo do tổ chức nông nghiệp – lương thực và chương trình phát triển liên hiệp quốc tại Hà Nội – Việt Nam xuất bản. Báo cáo này cho thấy sự khác biệt về giới khá rõ nét trong cách thức tạo thu nhập và phân bổ thời gian làm việc, trong các khu vực xã hội như giáo dục, dinh dưỡng, sức khỏe và sử dụng các dịch vụ về chăm sóc sức khỏe. Khảo sát mối quan hệ tương tác giữa lĩnh vực kinh tế và xã hội khi xác định tình trạng bất bình đẳng về mức sống. Theo kết quả nghiên cứu, ta thấy, đa số nam giới là người nắm giữ vai trò về mặt kinh tế trong gia đình. Và nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là tình trạng thiếu việc làm cho nữ giới và nữ giới không có cơ hội để phát huy khả năng ngay trong chính công việc của mình. Phụ nữ vẫn chịu nhiều thiệt thòi, bất bình đẳng thể hiện qua mức lương thấp hơn, ít nắm giữ các vị trí lãnh đạo hơn so với nam giới. Tiến sỹ Nguyễn Hữu Minh - Viện trưởng Viện Gia đình và giới - cho biết: Mức lương của phụ nữ chỉ bằng 85% so với nam giới, đặc biệt trong các ngành như nông- lâm-ngư nghiệp thì mức lương của phụ nữ chỉ bằng 67% của nam giới. Theo Tiến sỹ, nguyên nhân căn bản là nền tảng giáo dục của phụ nữ nói chung thấp hơn nam giới, khiến khả năng cạnh tranh của phụ nữ trên thị trường lao động thấp hơn. Hơn nữa, trong xã hội có rất nhiều ngành chỉ tuyển dụng lao động nam, mà ít chú trọng đến lao động nữ. Đó cũng chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng nam giới kiếm thu nhập cao hơn so với nữ giới, và nam giới là người nắm giữ kinh tế chủ chốt của gia đình. Nói đến vấn đề này, Thạc sĩ Phạm Hương Trà - giảng viên khoa Xã hội học (Học viện Báo chí và Tuyên truyền) đã đi tìm hiểu sự bất bình đẳng giới trong các quảng cáo tuyển dụng hiện nay. Kết quả nghiên cứu trên 5 tờ báo in (Thanh Niên, Lao Động, Tiền Phong, Tuổi Trẻ, Vietnam News) cho thấy, phần lớn các quảng cáo tuyển dụng không phân biệt đối xử một cách trực tiếp dựa trên yêu cầu về giới tính, với chỉ khoảng 20,6% số quảng cáo nêu cụ thể công việc đòi hỏi ứng viên nam (12,4%) hoặc nữ (8,2%). Và kết quả thứ hai là vẫn còn định 18 kiến trong thông báo tuyển dụng của các doanh nghiệp đem lại lợi thế cho nam giới. Ví dụ các công việc đòi hỏi kỹ thuật cao thì có đến 50% số quảng cáo yêu cầu ứng viên phải là nam giới, chỉ có 17% yêu cầu ứng viên là nữ. Một phát hiện nữa là sự phân biệt đối xử giới trực tiếp lại không nhiều, nhưng sự bất bình đẳng giới lại được ẩn đi, thông qua các yêu cầu về đào tạo, trình độ học vấn, lứa tuổi hoặc hình thức. Những yêu cầu này nhiều khi không thực sự cần thiết cho công việc. Theo bà Jonna Naumanen - Tổ chức lao động quốc tế tại Hà Nội ILO - thách thức lớn nhất đối với phụ nữ là các công việc mà họ làm thường không được đánh giá hoặc đánh giá thấp. Và thu nhập của lao động nữ chỉ bằng 87% so với nam giới. Hơn 50% phụ nữ Việt Nam hiện đang làm công việc nội trợ nên không có thu nhập trực tiếp - thông tin trên được công bố ngày 9.3 trong Báo cáo phát triển con người khu vực Châu Á-Thái Bình Dương của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP). Cụ thể, ở tất cả các nước trong khu vực, mức lương của phụ nữ thấp hơn nam giới rất nhiều và mức chênh lệch thu nhập giữa nam-nữ từ 54%-90%. Tại Việt Nam, phụ nữ chiếm 46,6% lực lượng lao động, nhưng chủ yếu làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân, nên không được hưởng chế độ an sinh xã hội. Những người làm việc được hưởng thu nhập chỉ bằng khoảng 87% mức thu nhập bình quân của nam giới. Nhà tôi thì chồng tôi, anh ấy làm cho công ty nước ngoài nên thu nhập của anh ấy cao hơn tôi rất nhiều. Mức lương của tôi không đủ cho chi tiêu sinh hoạt gia đình. (PVS nữ, 39 tuổi, Q. Ba Đình, Hà Nội ) Gia đình tôi thì mức lương của vợ chồng tôi là ngang nhau, chúng tôi đều là viên chức nhà nước, nhưng lương của tôi lại dùng cho chi tiêu sinh hoạt hàng ngày, còn lương của chồng tôi thì tiết kiệm để phòng khi có việc. Nói chung, cuộc sống của gia đình tôi là ổn định (PVS nữ, 45 tuổi, Q. Cầu Giấy, Hà Nội ). 1.3. Bình đẳng giới trong vấn đề tạo quyền sử dụng giữa nam và nữ trong gia đình. 19 Tác giả Phạm Thị Huệ - viện gia đình và giới với bài “Quyền lực của vợ chồng trong gia đình nông thôn Việt Nam”. Tác giả đã cho thấy kết quả nghiên cứu về quyền lực của vợ chồng trong gia đình Việt Nam, tác giả nghiên cứu các quyền như: Quyền quyết định của vợ chồng trong sản xuất; Quyền quyết định của vợ chồng trong mua sắm đồ đạc đắt tiền; quyền quyết định của vợ chồng trong quan hệ gia đình và họ hàng; quyền quyết định của vợ chồng trong hoạt động xã hội chung. Qua phân tích chúng ta thấy được yếu tố kinh tế, tuổi tác, trình độ học vấn, tộc người đã ảnh hưởng đến quyền quyết định trong gia đình. Tuy nhiên từ trước tới nay, mọi công việc lớn trong gia đình đều là do người đàn ông đảm nhận, người phụ nữ ít có tiếng nói hơn trong việc quyết định những công việc lớn. Trong phần lớn các gia đình Việt Nam hiện nay người đàn ông vẫn có "uy quyền" hơn người phụ nữ, họ thường là người quyết định nhiều việc liên quan đến cuộc sống gia đình, đặc biệt là những công việc được cho là “quan trọng”, “những việc lớn”. Người đàn ông cũng thường có sức khoẻ hơn và được cho là có vai trò “nhà ngoại giao" của gia đình trong quan hệ với xã hội nên họ cũng thường là người thực hiện. Tuy nhiên cũng có những gia đình trong đó người phụ nữ là người có tiếng nói quyết định cao nhất (đó thường là những gia đình mà hoạt động kinh tế do người phụ nữ đảm nhận và thu nhập chủ yếu của gia đình do họ cung cấp). Song vì trong xã hội vẫn tồn tại định kiến giới nên trong thực tiễn cuộc sống có rất nhiều công việc khi thực hiện đòi hỏi phải có những giao tiếp xã hội như buôn bán, ký kết giao dịch... thì dù đàn ông có thể không phải là người quyết định hay người xây dựng kế hoạch kinh doanh, nhưng họ vấn được người phụ nữ cử đi đại diện để tạo ra "cái thế, cái oai" với đối tác, vì như thế công việc dễ đạt hiệu quả hơn. Rõ ràng, chi tiêu thường xuyên cho sinh hoạt gia đình phụ nữ nắm quyền quyết định cao hơn. Những chi tiêu lớn hay những quyết định có liên quan đến sản xuất kinh doanh hay nguồn lực gia đình thì đều có sự bàn bạc. Và nhiều khi, tiếng 20 nói của phụ nữ mang tính quyết định, nhất là khi gặp vấn đề có liên quan đến ngân sách gia đình. Qua khảo sát cho thấy có 357 hộ chiếm 62.3% trả lời là cả hai vợ chồng cùng bàn bạc và đồng thuận khi quyết định việc lớn trong nhà. Chỉ có 6 hộ trả lời là chồng hoàn toàn quyết định mà không bàn bạc với vợ. Điều này cho thấy vai trò và vị thế của người vợ ngày càng được nâng lên, có lẽ do phụ nữ là người cầm “tay hòm chìa khóa” nên tiếng nói của người phụ nữ có giá trị hơn. Và theo kết quả khảo sát, ta thấy ở những gia đình đứng tuổi, tức là người phụ nữ đã trải nghiệm trong lao động sản xuất, trong quản lý kinh tế thì tỷ lệ hai vợ chồng cùng bàn bạc, cùng quyết định các việc trong gia đình cao hơn hẳn so với những gia đình dưới tuổi 30. Gia đình tôi, vợ chồng tôi thường hay bàn bạc với nhau những việc lớn nhưng chồng tôi thường là người đứng tên làm những việc lớn trong gia đình. Chẳng hạn như ký tên mua nhà, mua ô tô, hay như chồng tôi là người chủ hộ của gia đình được nắm giữ sổ đỏ. Còn tôi thì tôi ít tham gia vào các công việc đó, công việc chủ yếu của tôi là nội trợ, chăm sóc con cái, …( PVS nữ, 46 tuổi, Q. Ba Đình, Hà Nội ) Những việc lớn trong gia đình tôi thường là tôi làm hết, đàn bà con gái là chỉ nội trợ và chăm sóc con cái thôi ( cười ) (PVS nam, 28 tuổi, Q. Đống Đa, Hà Nội Rõ ràng, phụ nữ Việt Nam có quyền sở hữu, quyền kiểm soát tài sản ở các cấp độ thấp hơn so với nam giới. Phụ nữ có tên trong giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, tự do hơn trong việc sử dụng các khoản vay trong khi những người phụ nữ không có tên trong giấy Chứng nhận Quyền sử dụng đất sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong tiếp cận với tín dụng. Có tên trong Quyền sở hữu đem đến cho người phụ nữ sự đảm bảo hơn trong trường hợp li dị, bảo vệ quyền của phụ nữ trong việc thừa kế và lúc tuổi già và thúc đẩy hơn nữa sự công bằng trong việc ra quyết định trong gia đình, nhưng vấn đề bất bình đẳng vẫn tồn tại bởi từ trước tới nay, quan niệm 21 người phụ nữ làm nội trợ, chăm sóc gia đình con cái và người đàn ông vẫn là trụ cột và làm những việc lớn trong gia đình và ngoài xã hội vẫn không mất đi. Khác với trước đây, người phụ nữ không được tham gia vào chuyện lớn trong gia đình thì ngày nay, người phụ nữ có tiếng nói hơn nhưng quan trọng quan niệm về bình đẳng giới vẫn chưa thực sự được thực hiện một cách công bằng, bởi quan niệm vẫn là quan niệm, không dễ dàng mất đi được. 2. Bình đẳng giới trong hoạt động chăm sóc gia đình và sinh đẻ. 2.1.Vai trò của người phụ nữ trong gia đình Từ bao đời nay, trong gia đình, người phụ nữ có vai trò vô cùng quan trọng và không thể thiếu được. Ảnh hưởng của người phụ nữ đã tác động đến hầu hết các lĩnh vực trong cuộc sống gia đình và ngày càng trở nên quyết định hơn. Vai trò người vợ - người nội trợ thể hiện phụ nữ vẫn là người quyết định chủ yếu chi tiêu ăn uống hàng ngày – trong việc chi tiêu chữa bệnh, chăm sóc con cái và học hành cho con, mặc dù người chồng có sự chia sẻ chịu trách nhiệm, phụ nữ vẫn quyết định chính. Theo quan niệm truyền thống, phụ nữ gắn liền với vai trò sinh đẻ, nuôi con và chăm sóc gia đình, còn nam giới đảm nhận những việc lớn. Quan niệm này được thể hiện thông qua câu ngạn ngữ “đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”. Bao lâu còn tình người thì lòng mẹ vẫn trải dài theo bầu trời ở đó. Dù đời sống có phát triển theo từng thời kỳ văn hóa nông nghiệp, văn hóa kỹ nghệ, văn hóa tin học…, con người chỉ tìm cách sống thích nghi theo tiến hóa của xã hội, chứ con người không thể thay thế được thiên chức làm mẹ của người phụ nữ. Người phụ nữ được thiên nhiên ban phát cho thiên chức tự nhiên trong mỗi con người là chuyển dịch suối nguồn tình thương vô tận của thiên nhiên vào dòng sống, là chuyển dịch thiên thư vô ngôn của trời đất, tức là cấy trồng hạt giống tình thương uyên nguyên vào cõi lòng con người. Thượng đế đã thiết kế ra con người và muôn loài, phụ nữ được giao thiên chức là sinh con, nuôi con giống như thiên chức của hoa hồng là nở những bông hoa,…Đây là những chức năng thiên bẩm của tạo hóa vượt trên mọi thứ như thời gian, quan niệm, địa lý, hoàn cảnh sống,…Hoạt động chăm sóc gia 22 đình và sinh đẻ còn được gọi là sinh sản và nuôi dưỡng. Phụ nữ là người mang thai, sinh con, và họ làm hầu hết các công việc chăm sóc gia đình. Do đó, họ bị coi là người thực hiện vai trò sinh sản và nuôi dưỡng. Còn về phía những người đàn ông trong gia đình, họ có thiên chức gì? Trong tâm thức của chúng ta, người đàn ông thực sự là biểu tượng trong mỗi gia đình. Để giữ ưu thế trong tương quan gia đình, họ sẽ không “cố đấm ăn xôi” mà phát huy sức mạnh tiềm tàng của mình. Người đàn ông có khuynh hướng hướng ngoại và ham muốn được là “người của mọi người” nên sẽ đảm nhận nhiều vai trò đa dạng một cách tự nhiên. Điều quan trọng trước tiên là tìm cách giữ được cân bằng giữa các vai trò trong gia đình và ngoài xã hội, tìm ra không gian riêng để tìm ra các “sứ mệnh” hay là thiên chức của mình. Trong gia đình, người đàn ông vừa là một người chồng, vừa là một người cha. Cả hai vai trò này, người đàn ông đè phải hết sức thực hiện thì mới đáp ứng được kỳ vọng của người vợ và các con. Chính vì thế, khi được hỏi về quan niệm về sự phân công lao động, về sự chia sẻ của các ông chồng trong công việc gia đình thì có 75.8% nam giới rất đồng ý với việc người chồng chia sẻ công việc gia đình với người vợ, và có 83.6% nữ giới đồng ý người chồng chia sẻ công việc với mình trong công việc gia đình. Tuy nhiên có 0.4% số nam giới không đồng ý với vấn đề này, trong khi đó không có nữ giới nào không đồng ý với vấn đề này. Tất cả mọi phụ nữ đều cho rằng người chồng cần phải chia sẻ công việc gia đình với họ, để từ đó tìm được tiếng nói chung. Qua cuộc khảo sát điều tra tại Hà Nội cho thấy nam giới được coi là trụ cột, chịu trách nhiệm về kinh tế gia đình. Còn phụ nữ có trách nhiệm trước hết với công việc gia đình, chăm sóc con cái, và được trông đợi là người duy trì sự hòa hợp và hạnh phúc gia đình. Với nhận định “Phụ nữ là người quyết định giữ không khí hòa thuận trong nhà” thì đa số nam giới và nữ giới đều đồng ý với nhận định này. Nam giới sau một ngày công tác bận rộn, mệt nhọc có lúc vui nhưng cũng có những lúc thật sự căng thẳng. Khi về nhà, họ cần được nghỉ ngơi, cần được hưởng không khí ấm cúng của gia đình, cần nhìn thấy những đứa con sạch sẽ, ngoan ngoãn, họ cũng 23 cần có những bữa cơm ngon, cần thấy nhà cửa ngăn nắp, gọn sạch và nhất là người vợ dịu dàng, ân cần chăm sóc cho cha mẹ chồng cũng như xử sự tế nhị với gia đình bên chồng sẽ làm cho tan biến đi những lo toan, vất vả. Rõ ràng, tất cả những công việc trên phụ thuộc vào tính cách của người phụ nữ. Để điều hòa được các mối quan hệ gia đình, nó đòi hỏi những đức tính đảm đang, dịu dàng, biết thông cảm, chịu khó và sự tinh tế ở người phụ n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfBình đẳng giới trong sự phân công lao động ở các gia đình đô thị hiện nay.pdf
Tài liệu liên quan