Đề tài Bộ ba bất khả thi - Kết hợp tối ưu cho điều hành chính sách vĩ mô Việt Nam trong bối cảnh kinh tế 2011-2020

MỤC LỤC

Danh mục từ viết tắt

Danh mục đơn vị tiền tệ

Danh mục thuật ngữ kinh tế

Danh mục bảng biểu

Danh mục hình

Danh mục phụ lục

PHẦN MỞ ĐẦU

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1

NGHIÊN CỨU LÝ THUYẾT TỔNG QUAN VÀ

CÁC TRƯỜNG PHÁI VỀ BỘ BA BẤT KHẢ THI

1. Nghiên cứu bộ ba bất khả thi và các lý thuyết mở rộng . 13

1.1 Các mô hình nền tảng dẫn đến lý thuyết bộ ba bất khả thi . 13

1.1.1 Mô hình IS-LM mở rộng: Mô hình Mundell-Fleming . 1

1.1.2 Lý thuyết Bộ ba bất khả thi c ổ điển . . 5

1.2 Sự phát triển của Lý thuyết Bộ ba bất khả thi hiện đại . 8

1.2.1 Thuy ết tam giác mở rộng của Yigang và Tangxian . 8

1.2.2 Dự trữ ngoại hối và mối liên hệ với bộ ba bất khả thi : sự phát triển của đồ

thị kim cương . . 9

1.3 Vấn đề định lượng trong bộ ba bất khả thi . 24

TÓM TẮT CHƯƠNG 1

CHƯƠNG 2 :

KINH NGHIỆM CỦA CÁC QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI TRONG VIỆC ĐIỀU HÀNH

CHÍNH SÁCH VĨ MÔ

2. Kinh nghiệm của các quốc châu Á mới nổi trong việc điều hành chính sách

kinh tế vĩ mô . . 17

2.1 Kinh nghiệm của Trung Quốc . 17

2.1.1 Vấn đề kiểm soát vốn . 17

2.1.2 Chính sách tỷ giá của Trung Quốc . 18

2.1.3 Chính sách điều hành kinh tế vĩ mô của Trung Quốc . 19

2.1.4 Tác động từ việc gia tăng dự trữ ngoại hối trong mối liên hệ với Bộ ba bất khả thi . . 20

2.1.5 Bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc . 35

2.2 Kinh nghiệm của Ấn Độ . 24

2.2.1 Hệ thống tỷ giá trên thực tế ở Ấn độ . 24

2.2.2 Kiểm soát vốn . . . 26

2.2.3 Bài học kinh nghiệm từ cách Ấn độ xử lý cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệĐông Á . 28

TÓM TẮT CHƯƠNG 2

CHƯƠNG 3

THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH VĨ MÔ CỦA

VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1990 ĐẾN NAY

3.1 Giai đoạn 1990- 2007 . 31

3.1.1 Tổng quan tình hình kinh tế Việt Nam giai đo ạn 1990 - 2007 . 31

3.1.2 Vấn đề kiểm soát vốn: . . 32

3.1.2.1 Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI: . 33

3.1.2.2 Đầu tư gián tiếp nước ngoài: . 34

3.1.3 Chính sách tỷ giá: . 36

3.1.4 Chính sách tiền tệ: . . . 37

3.1.4.1 Vấn đề lạm phát . . . 38

3.1.4.2 Mức cung tiền M2 và tăng trưởng tín dụng: . 39

3.2 Giai đoạn 2008- 2010 . 41

3.2.1 Tổng quan tình hình kinh tế Việt Nam giai đo ạn 2008 -2010: . 41

3.2.2 Chính sách kiểm soát vốn . 42

3.2.3 Chính sách tỷ giá . 44

3.2.4 Chính sách tiền tệ . 45

3.3 Giai đoạn đầu năm 2011 đến nay . . 48

3.3.1 Tổng quan kinh tế vĩ mô từ đầu năm 2011 đến nay . 48

3.3.2 Nguy cơ lạm phát cao và những bất ổn vĩ mô . 50

3.3.3 Chính sách thắt chặt tiền tệ và tài khóa . 51

3.3.4 Chính sách tỷ giá . 53

3.4 Dự trữ ngoại hối . 54

3.4.1 Tiêu chí tỷ lệ dự trữ ngoại hối và giá trị nhập khẩu 55

3.4.2 Tiêu chí tỷ lệ dự trữ ngoại hối và nợ ngắn hạn nước ngoài .56

3.4.3 Tiêu chí tỷ lệ dự trữ ngoại hối và mức cung tiền 57

TÓM TẮT CHƯƠNG 3

CHƯƠNG 4

GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH VĨ MÔ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM – GÓC NHÌN TỪ BỘ

BA BẤT KHẢ THI

4.1 Phân tích tình hình hiện tại và nhận định vị thế tối ưu cho Việt Nam trên

tam giác bất khả thi giai đoạn hiện nay: . 60

4.1.1 Vị trí Việt Nam trên tam giác bất khả thi . 60

4.1.2 Bộ ba chính sách lý tưởng cho Việt Nam trong ngắn và trung hạn . 62

4.2 Giải pháp cho Việt nam trong giai đoạn 2011-2020 . 77

4.2.1 Nhóm giải pháp chủ đạo . 77

4.2.1.1 Giải pháp cho kiểm soát vốn . . 77

4.2.1.2 Giải pháp cho chính sách tỷ giá . 67

4.2.1.3 Giải pháp cho chính sách tiền tệ: . . 69

4.2.2 Nhóm giải pháp bổ trợ . . 74

4.2.2.1 Phân quyền, phân nhiệm và công bố thông tin: . 74

4.2.2.2 Vai trò tư vấn của giới học thuật và hội đồng chuyên gia . 75

4.2.2.3 Hấp thu nguồn vốn trong một nền kinh tế mở cửa . 76

4.2.2.4 Xem xét tác động của an ninh năng lượng và an ninh lương thực đến tình

hình vĩ mô c ủa Việt Nam . . . 77

TÓM TẮT CHƯƠNG 4

PHẦN KẾT LUẬN

pdf135 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5103 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bộ ba bất khả thi - Kết hợp tối ưu cho điều hành chính sách vĩ mô Việt Nam trong bối cảnh kinh tế 2011-2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thức (tỷ giá thị trường tự do) vẫn luôn nằm ngoài biên độ cho phép của Ngân hang Nhà nước.Trên thực tế, điều này đã xảy ra từ đầu năm tới nay, cho thấy thị trường ngoại hối luôn căng thẳng. Năm 2010: Việt Nam thực hiện chính sách tỷ giá “Thả nổi có điều tiết”, khi TGHĐ biến động theo chiều hướng không thuận, NHNN đã thực hiện nhiều giải pháp như: nới rộng biên độ +/-5% (3/2009); hạ biên độ xuống +/- 3% (2/2010), và thu hẹp biên độ giao dịch từ +/-3% xuống +/-1% (02/2011), đồng thời với việc điều chỉnh tăng tỷ giá liên ngân hàng 3,36%, kiểm soát chặt chẽ các giao dịch mua bán ngoại tệ tại các địa điểm mua bán ngoại tệ. Chỉ trong vòng một năm NHNN đã phải điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng ba lần, tăng tổng 11.17%, gần đây nhất vào ngày 11/02/2011, NHNN đã điều chỉnh tăng tỷ giá liên ngân hàng lên hơn 20.693 VND/USD (tăng 9,3% so với mức 18.932 VND trước đó) và giữ nguyên biên độ. Cùng với những chính sách vĩ mô khác, thời kỳ này, chính phủ đã từ bỏ mục tiêu cố định tỷ giá và thay vào đó là tăng cường kích thích phát triển kinh tế, nhanh chóng phục hồi đà tăng trưởng sau khủng hoảng. Mặt khác, khuyến khích dòng vốn đầu tư gián tiếp và dòng kiều hối chuyển về Việt Nam trong thời gian tới. Những dòng tiền này sẽ đóng góp một phần không nhỏ vào cân đối ngoại tệ của Việt Nam. 3.2.4 Chính sách tiền tệ Nếu trong giai đoạn 2005 – 2007, chính sách tiền tệ phần nhiều dùng để kích thích tăng trưởng, bổ trợ điều tiết nhằm ổn định tỷ giá, thu hút dòng vốn ngoại, thì trong giai đoạn này (2008-2010) khi nền kinh tế vừa đối đầu với lạm phát cao vừa vấp phải suy giảm về khủng hoảng kinh tế, chính sách tiền tệ từng bước chuyển dần sang độc lập với mục tiêu hàng đầu là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Dưới góc độ điều hành kinh tế của Chính Phủ, lãi suất là công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ của mỗi quốc gia do ngân hàng trung ương thực thi chính sách tài chính tiền tệ nhằm điều chỉnh và can thiệp vào thị trường, khắc phục những yếu kém của nền kinh tế. 58 Theo thống kê tình hình lạm phát và lãi suất từ năm 2000 đến năm 2010 nhận thấy có sự tương đồng giữa 2 chỉ tiêu này. Tức là năm nào CPI tăng cao là lãi suất huy động trên thị trường cũng tăng theo. Đặc biệt kể từ năm 2007 tới nay, xu hướng 2 chỉ số này luôn theo sát nhau. Việc lạm phát tăng cao khiến tiền đồng bị mất giá mạnh, để kiềm chế lạm phát, chính phủ thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, nâng các loại lãi suất lên cao. Hình 3.6 Tương quan giữa lạm phát và lãi suất Việt Nam năm 2010 Nguồn: TCTK, NHNN Lo lắng về nguy cơ lạm phát trở lại, năm 2008, NHNN lại bắt đầu thắt chặt chính sách tiền tệ khiến cho lãi suất tăng lên. Lạm phát, sau khi giảm nhẹ trong năm 2006 đã lại tăng mạnh tới 12,63% trong năm 2007 và lên tới 20% trong năm 2008. Cũng như ở nhiều nước khác trong khu vực, để kiểm soát lạm phát, NHNN Việt Nam đã thực hiện các biện pháp thắt chặt tiền tệ như tăng lãi suất, lãi suất trái phiếu VND trên thị trường tăng gần 2% trong năm 2007 và 0,5% trong quý 1/2008. Mức tăng cung tiền M2 trong giai đoạn này cũng giảm đáng kể, từ mức 46,1% năm 2007 xuống còn 20,3% trong năm 2008. Tuy nhiên, những năm ngay sau đó, khi kinh tế đất nước dần phục hồi, dòng vốn nước ngoài tiếp tục đổ vào Việt Nam, để giữ ổn định tỷ giá (trong giai đoạn này, lạm phát tạm thời được giữ ở mức thấp), chính phủ tiếp tục tăng cung tiền, lên mức 29% năm 2009 và 29,81% năm 2010. Cuối năm 2010, thị trường tiền tệ Việt Nam vẫn chưa có dấu hiệu ổn định. Lạm phát tháng 12/2010 của cả nước là 1.98%, đưa lạm phát cả năm 2010 lên 11.75%, vượt 59 quá chỉ tiêu 8% của chính phủ tới 3.75%. Sau 11 tháng duy trì mức lãi suất không đổi thì ngày 5/11/2010 NHNN ban hành Quyết định số 2619/QĐ-NHNN và Quyết định số 2620/QĐ-NHNN quy định các mức lãi suất. Cụ thể, tăng 1% lên lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất cho vay qua đêm (từ 8% lên 9%); lãi suất tái chiết khấu (từ 6% lên 7%). Ngay lập tức các NHTM đã đồng loạt áp mức lãi suất mới từ 11% lên 12%/năm. Mặc dù năm 2010 các chính sách tiền tệ vẫn mang dấu ấn thắt chặt và nhiều dự báo hồi đầu năm cho rằng tăng tưởng tín dụng năm 2010 sẽ gặp nhiều khó khăn và tăng trưởng tín dụng cả năm sẽ khó đạt được mục tiêu 25%. Tuy nhiên, theo NHNN thì tính đến ngày 25/12/2010, tín dụng tăng 27.65% (đã loại trừ hư số tăng của tỷ giá vàng), tín dụng bằng tiền đồng tăng 25.34%, bằng ngoại tệ tăng 37.76%. Như vậy, tăng trưởng tín dụng cả năm 2010 đã vượt chỉ tiêu đặt ra 2.65%. Hình 3.7 Tăng trưởng tín dụng 2010 Nguồn: NHNN Trong giai đoạn 2008 – 2010: chính phủ đã sử dụng công cụ chính sách tiền tệ một cách linh hoạt, đa dạng và có sự kết hợp khá nhuần nhuyễn giữa các công cụ: Lãi suất cơ bản, tái chiết khấu, tái cấp vốn được giữ ổn định trong năm 2007 nhưng năm 2008 chuyển sang điều hành linh hoạt (tăng 3 lần, giảm 6 lần), trong năm 2009 (giảm 2 lần, tăng 1 lần), giữ ổn định trong 6 tháng đầu năm 2010. Khi thị trường 60 tiền tệ có dấu hiệu tích cực, NHNN dỡ bỏ trần lãi suất huy động VND và thay cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, theo đó, các tổ chức tín dụng (TCTD) ấn định lãi suất kinh doanh bằng VND đối với khách hàng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố. Sang năm 2010, triển khai cơ chế cho vay theo lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay ngắn hạn từ tháng 2/2010 và các khoản vay trung dài hạn từ tháng 4/2010. Công cụ dự trữ bắt buộc được điều chỉnh linh hoạt, tăng một lần lên gấp đôi vào giữa năm 2007 và tăng 1 lần và giảm 4 lần trong năm 2008; năm 2009 (giảm 3 lần). Bên cạnh quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc (DTBB), trong giai đoạn này NHNN còn linh hoạt trong việc trả lãi cho dự trữ bắt buộc. Lãi suất áp dụng đối với các giao dịch nghiệp vụ thị trường mở cũng được điều chỉnh khá linh hoạt phù hợp với mục tiêu điều hành từng thời điểm, trong giai đoạn 2007-2009. Năm 2008: tăng khối lượng bán tín phiếu trên nghiệp vụ thị trường mở và phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc đối với các TCTD có quy mô vốn huy động bằng VND trên 1.000 tỷ đồng. Cuối tháng 6- 2008, 2 tỉ đồng trái phiếu chính phủ kỳ hạn 2 năm với lãi suất 11%/năm đã được huy động thành công(3). Mặc dù khối lượng không lớn nhưng dấu hiệu này gợi mở khả năng tiếp tục duy trì các chính sách tiền tệ – tài chính vĩ mô. Đến năm 2010, chính phủ tiếp tục thể hiện rõ quyết tâm sử dụng chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát và ổn định vĩ mô bằng những biện pháp như: bắt buộc các ngân hàng nâng tỉ lệ an toàn vốn, nâng vốn điều lệ lên mức tối thiểu là 3000 tỉ VND, hạ thấp tỉ lệ huy động ngắn hạn để cho vay làm cho chi phí vốn tăng lên khá cao, lãi suất qua đêm tăng cao hơn hẳn so với năm 2009. 3.3 Giai đoạn đầu năm 2011 đến nay 3.3.1 Tổng quan kinh tế vĩ mô từ đầu năm 2011 đến nay Kinh tế - xã hội quý I năm 2011 nước ta diễn ra trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức. Giá các hàng hóa chủ yếu trên thị trường thế giới biến động theo chiều hướng tăng. Một số nền kinh tế lớn mặc dù vừa phục hồi sau khủng hoảng tài chính toàn cầu nhưng đang tiềm ẩn nhiều yếu tố rủi ro và bất ổn. Ở trong nước, lạm phát tăng cao, thời tiết diễn biến phức tạp, dịch bệnh tiếp tục xảy ra trên cây trồng vật nuôi. Những yếu 61 tố bất lợi trên tác động mạnh đến hoạt động sản xuất kinh doanh và ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống dân cư. Nhìn chung, tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam khá ổn định và duy trì ở mức trên 5% từ suốt những năm đầu thế kỉ 21 đến hiện tại. Cuộc khủng hoảng tài chính 2008 vừa qua nhìn chung không ảnh hưởng đến GDP Việt Nam quá nặng nề so với các quốc gia khác cùng khu vực, trừ Trung Quốc. Tuy nhiên, chính vì theo đuổi mục tiêu tăng trưởng cao, Việt Nam đã và đang lâm vào giai đoạn bất ổn kinh tế trầm trọng trên diện rộng, cả chiều rộng và chiều sâu của nền kinh tế. Những bất cập, yếu kém vốn có của kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục chưa được giải quyết thỏa đáng như đầu tư kém hiệu quả, hệ số ICOR cao quá mức, đặc biệt là lạm phát cao khiến cho việc lựa chọn chính sách trên tam giác bất khả thi của bộ ba: chính sách tỷ giá, chính sách tiền tệ và chính sách kiểm soát vốn đã thay đổi sâu sắc. Tốc độ tăng xuất khẩu vẫn tiếp tục cao hơn so với tốc độ tăng nhập khẩu trong 3 tháng đầu năm, tốc độ tăng xuất khẩu và nhập khẩu lần lượt là 33,7% và 23,8%. Xuất khẩu tăng không chỉ đến từ tăng giá của hàng hóa cơ bản. Trong 3 tháng đầu năm, giá xuất khẩu của hàng công nghiệp bao gồm dệt may, giầy dép, điện tử và máy móc thiết bị đều ghi nhận ở mức tăng hai con số. Giá trị công nghiệp theo giá so sánh tăng 14,1% so với cùng kỳ, tăng nhẹ so với mức tăng 13,6% của năm ngoái. Chính sách tiền tệ và tài khóa thắt chặt đã khiến cho tăng trưởng chậm lại trong khi phải mất thêm thời gian để tác động làm giảm lạm phát và thâm hụt thương mại. Thâm hụt thương mại tháng 3 ước tính 1,15 tỷ đô la, xấp xỉ so với tháng 3 năm 2010 mặc dầu chính sách thắt chặt áp dụng và phá giá tiền đồng vào tháng 2 vừa qua. Trong quý 1, thâm hụt thương mại không kể vàng, ước tính khoảng 3 tỷ đô la, cải thiện không đáng kể so với mức thâm hụt thương mại không kể vào vào năm ngoái là 3,2 tỷ đô la vào quý 1 năm ngoái. Tuy nhiên, thông tin tích cực là thâm hụt thương mại trên GDP và thâm hụt thương mại trên tổng giá trị xuất khẩu giảm mạnh so với năm ngoái. Thâm hụt thương mại/GDP trong quý 1 đầu năm nay ghi nhận ở mức 16,9% so với mức 20% trong năm 2010 trong khi thâm hụt thương mại/xuất khẩu là 16% trong năm 2011 so với mức 24% vào năm 2010. 62 Hình 3.8: Mô hình kim cương cho Việt Nam năm 2010 Nguồn: Tác giả tính toán 3.3.2 Nguy cơ lạm phát cao và những bất ổn vĩ mô Chỉ số giá tiêu dùng có xu hướng tăng dần và ở mức cao trong ba tháng đầu năm. Tháng ba thường là tháng sau Tết Nguyên đán nên thị trường giá cả không tăng so với tháng trước, nhưng chỉ số giá tháng ba năm nay cao hơn nhiều so với mức tăng cùng kỳ của 5 năm trở lại đây, và gần bằng mức 2,99% của năm 2008, năm lạm phát tăng cao ở hầu hết các nền kinh tế trên thế giới. Việt Nam đang phải đối mặt với nguy cơ lạm phát 2 con số trong những tháng gần đây. Chỉ số giá tiêu dùng CPI đã tăng lên trên mức 10% trong vòng chưa đầy 4 tháng, số liệu mới nhất được công bố vào tháng 3 cho thấy CPI đã tăng 6,12% so với tháng 12/2010 tăng 13,89% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân quý I năm nay tăng 12,79% so với bình quân cùng kỳ năm 2010. Trong cuối tháng 3, Bộ Tài chính công bố tăng giá xăng, đây là lần tăng giá xăng lần thứ hai trong năm. Trong lần này, giá xăng A92 tăng 10% và bán ở mức giá 21.300 đồng/1lít trong khi giá dầu diesel tăng 15,3% và giao dịch ở mức 21.100 đồng/1 lít. Mức tăng giá này trong kỳ vọng khi mức giá xăng cũ thấp hơn so với giá nhập khẩu là 10-15% và thuế nhập khẩu xăng dầu ở mức 0%. Trong nỗ lực giảm thâm hụt ngân sách, chính phủ không muốn phải chi tiền để trợ cấp xăng dầu thêm nữa và vì 0 0.2 0.4 0.6 0.8 1 Độc lập tiền tệ Ổn định tỷ giá Dự trữ ngoại hối/GDP Hội nhập tài chính 2010 2010 63 vậy, tác giả cho rằng nếu giá dầu thế giới tiếp tục tăng thì giá xăng dầu trong nước sẽ phải điều chỉnh theo sau. Thêm vào đó, giá điện tăng 15% vào đầu tháng 3 cùng với tăng giá lương thực trên thế giới cũng góp phần vào tốc độ tăng của CPI. Bên cạnh nguyên nhân giá xăng dầu, giá điện tăng, tác giả còn cho rằng CPI tháng 3 vẫn còn tiếp tục bị ảnh hưởng bởi chính sách mở rộng tài khóa và tiền tệ trong năm 2010. Trên cơ sở này, EIU đưa ra dự báo chỉ số CPI của Việt Nam sẽ vào khoản 14,3% trong năm 2011. Tức là hơn gấp đôi so với con số 7% mà Quốc hội đưa ra. Hình 3.9: Chỉ số giá tiêu dùng Việt Nam giai đoạn 2007-2011 Nguồn: EIU 3.3.3 Chính sách thắt chặt tiền tệ và tài khóa Trong tháng 3, chính phủ vẫn tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt và giảm chi tiêu chính phủ nhằm chống lạm phát, ổn định kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội. Với mục tiêu giữ mức tăng trưởng phương tiện thanh toán là 15-16% và tăng trưởng tín dụng là 20%, NHNN đã quyết định tăng lãi suất hai lần chỉ trong vòng chưa đến 1 tháng. Ngày 7 tháng 3, NHNN đã tăng lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, và lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các ngân 64 hàng mức 12%/năm từ 11%/năm. Chỉ sau đó 3 tuần, NHNN quyết định tiếp tục tăng lãi suất này lên 13%/năm từ mức 12%/năm, trong lần này lãi suất trên thị trường mở cũng tăng ở mức tương tự. Tăng lãi suất, trong đó lãi suất cho vay qua hoạt động thị trường mở và lãi suất cho vay trong thanh toán điện tử giảm khuyến khích các ngân hàng vay vốn từ NHNN nhằm hưởng chênh lệch lãi suất từ việc vay NHNN và cho vay lại trên thị trường, từ đó giảm lượng tiền cung ứng ra thị trường. Tuy nhiên, tác giả cho rằng tác động của tăng lãi suất lên cung tiền không nhiều do lãi suất thị trường ở thời điểm hiện tại cao hơn so với lãi suất ngân hàng thương mại vay từ NHNN. Mặc dù chính sách thắt chặt được áp dụng, tăng trưởng tín dụng trong 3 tháng đầu năm tăng 5% so với cuối năm ngoái. Do đó, vào ngày 24 tháng 3, NHNN đã ban hành thông tư số 07/2011/TT-NHNN vào ngày 24 tháng 3 nhằm giảm tăng trưởng tín dụng bằng ngoại tệ và đồng thời giảm tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế. Trong tháng 3, thị trường có rất nhiều tin đồn xung quanh khả năng tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng tiền đồng từ 3% lên 6% vào đầu tháng 4. Tuy nhiên, mức tăng trưởng dư nợ bằng ngoại tệ trong 3 tháng đầu năm ước tính là 14,7% so với tăng mức tăng trưởng bằng đồng là 0,57%, cho thấy NHNN nhiều khả năng tăng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ hơn tiền đồng. Về phía chính sách tài khóa, để đạt mục tiêu giảm thâm hụt ngân sách xuống 5% GDP, chính phủ đã quyết định không khởi công một số dự án không cấp thiết hoặc không hiệu quả trong năm nay. Theo số liệu công bố trong phiên họp định kỳ của chính phủ vào cuối tháng 3, trong quý 1, tổng số dự án bị cắt lên tới 1.387 dự án với tổng số vốn là 3.400 tỷ đồng. Một điểm nữa không thể không nhắc đến là chính phủ đã thể hiện rõ quan điểm quyết tâm thông qua việc ban hành Nghị Quyết 11 nhằm ổn định vĩ mô nền kinh tế. Theo văn bản này, mục đích của chính sách tiền tệ trong giai đoạn hiện tại là tập trung kiểm soát lạm phát thông qua kiểm soát tín dụng và cơ cấu vốn vay của khối ngân hàng thương mại. Nói cách khác, chính sách tiền tệ, xét theo quan điểm bộ ba bất khả thi, đã trở nên “độc lập” khi được dùng như một công cụ chủ đạo chỉ nhằm bình 65 ổn vĩ mô. Tiếp sau đó, NHNN đã ban hành chỉ thị số 1/CT-NHNN nhằm cụ thể hóa, triển khai nghị quyết 11/NQ-CP của chính phủ. Theo đó, trọng tâm của NHNN trong năm nay là phải góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tỷ giá, cung vốn kịp thời cho sản xuất thiết yếu và giữ vững thanh khoản cả hệ thống. Vấn đề thứ ba là góp phần kiềm chế lạm phát. Để phục vụ mục tiêu này, NHNN đã cắt giảm 3% chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng, duy trì 20% thay vì 23% như đề xuất ban đầu với chính phủ. Với những phân tích trên, để trả lời cho câu hỏi về mức độ kiểm soát vốn, tác giả sẽ tiếp tục trình bày lựa chọn của nhà hoạch định chính sách đối với tỷ giá. 3.3.4 Chính sách tỷ giá Vào ngày 31 tháng 3, tỷ giá VND/USD giảm đáng kể xuống mức 1,4% so với cuối tháng hai và giao dịch ở mức 20.960 đồng/ USD trên thị trường liên ngân hàng. Tỷ giá VND/USD được ghi nhận 21.125 đồng/USD trên thị trường tự do, giảm 3,5% so với cuối tháng hai.Thắt chặt tiền tệ khiến lãi suất tiền đồng tăng và điều này không khuyến khích ngân hàng cũng như nhà đầu cơ ngoại tệ khác nắm giữ ngoại tệ. Hầu hết các ngân hàng đều duy trì trạng thái ngoại hối thấp ở thời điểm này do giữ tiền đồng có lợi hơn. Thêm vào đó, tăng trưởng tín dụng bằng đô la mạnh trong 3 tháng đầu năm cũng đóng góp đáng kể vào ổn định thị trường ngoại hối trong thời gian qua. Mặc dù lạc quan về thị trường ngoại hối trong ngắn hạn khi chính sách thắt chặt tiền tệ và tài khóa được duy trì. Trong dài hạn, sự ổn định của thị trường ngoại hối sẽ phụ thuộc vào sự kiên trì của chính phủ trong chính sách ổn định vĩ mô. Một động thái sự nới lỏng tiền tiền tệ và tài khóa quá sớm có thể sẽ dẫn đến thâm hụt cán cân thanh toán tổng thể và từ đó gây lên áp lực làm giảm giá tiền đồng. Cũng với chị thị 01/CT-NHNN, vấn đề thứ hai được chú ý là ổn định tỷ giá. Để ổn định tỷ giá, NHNN đã có hai bước đi quan trọng. Một là, điều chỉnh tỷ giá chính thức sát với giá thị trường. Động thái này vừa thỏa mãn nhu cầu thị trường, vừa bảo toàn được quỹ dự trữ ngoại hối vốn đang mỏng dần. Hai là, thực hiện kết hối một phần đối với tất cả tập đoàn, tổng công ty. 66 3.4 Dự trữ ngoại hối Theo sau một giai đoạn tăng trưởng ấn tượng, từ 2007 đến nay, Việt Nam đã phải đối mặt với nhiều thách thức. Sau khi tăng trưởng quá nóng trong năm 2007, tình hình kinh tế xấu đi nhiều trong nửa đầu năm 2008, lạm phát cao và thâm hụt cán cân thương mại gây ra áp lực giảm giá VND. Để ổn định tỷ giá, bên cạnh nới lỏng biên độ, NHNN cũng cần nguồn dự trữ ngoại hối mạnh để can thiệp đúng lúc và hiệu quả. Hình 3.10: Xu hướng dự trữ ngoại hối ở Việt Nam trong thời gian vừa qua Nguồn: ADB Sau một khoảng thời gian tăng liên tục, dự trữ ngoại hối Việt Nam đã giảm mạnh trong hai năm trở lại đây do ảnh hưởng từ khủng hoảng. Xu hướng tăng bắt đầu từ năm 1992 nhưng còn chậm. Tốc độ được cải thiện rõ rệt từ năm 1998 do bài học từ khủng hoảng Đông Á, khi lượng ngoại hối dự trữ bắt đầu tăng từ 2,1 tỷ USD lên 23,75 tỷ USD vào năm 2007. Trong giai đoạn này, năm 2006 và 2007, dự trữ ngoại hối có tốc độ tăng trưởng đáng kể, lần lượt là 47,46% và 74,73%. Tuy nhiên, hai năm tiếp theo, khủng hoảng tác động mạnh mẽ đến tài khoản vãng lai và FDI, không chỉ làm cho nguồn thu của dự trữ ngoại hối giảm, mà NHNN còn phải chi tiền ra hỗ trợ nhập siêu, riêng trong tháng 11/2009, Nhà nước đã chi hơn 360 triệu USD để nhập vàng vật chất để đáp ứng nhu cầu trong nước đang lên cao và nhằm bình ổn thị trường ngoại hối. Dự trữ ngoại hối Việt Nam chỉ còn 16 tỷ USD trong năm 2009, giảm 5,7 tỷ USD so với năm 2008. 67 3.4.1 Tiêu chí tỷ lệ dự trữ ngoại hối và giá trị nhập khẩu Theo số liệu thống kê cho thấy thì từ năm 1996 dự trữ ngoại hối của Việt Nam liên tục tăng qua các năm, số tháng nhập khẩu được đảm bao bằng dự trữ cũng dần tiến tới mức an toàn. Mức dự trữ hiện nay đủ cho khoảng 3 tháng nhập khẩu, đạt mức an toàn. Mức dự trữ cải thiện qua các năm cho thấy những nỗ lực của Nhà nước trong việc quản lý nguồn dự trữ ngoại hối đã có những kết quả tốt, sự hỗ trợ cho thanh toán quốc tế được đảm bảo. Tuy nhiên có một sự sụt giảm trong quy mô dự trữ lẫn số tháng nhập khẩu được đảm bảo bởi dự trữ vào cuối năm 2009. Đây là hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008, cuộc khủng hoảng này bắt đầu ở Mỹ và sau đó ảnh hưởng ra toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Kết quả này là tất yếu bởi Mỹ là một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất Việt Nam và hầu như ngoại tệ thu được là từ xuất khẩu. Một khi tiêu dùng của người dân mỹ giảm do khủng hoảng thì nguồn ngoại tệ thu được của Việt Nam cũng giảm. Hơn nữa, mức sụt giảm này là không đáng kể, và mức dự trữ hiện tại của Việt Nam vẫn đủ để đảm bảo cho thanh toán quốc tế và bình ổn tỷ giá trong một chừng mực nào đó. Hình 3.11: Dự trữ ngoại hối thể hiện theo tháng nhập khẩu Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên số liệu ADB Nhìn chung trong giai đoạn 1992 đến năm 2009, tính theo tháng nhập khẩu thì Việt Nam đang dần khắc phục tiến tới mức chuẩn theo nguyên tắc đánh giá của các tổ chức trên thế giới. Trong giai đoạn 2005-2009, tỷ lệ này có thể thấy là đang nằm trọng vùng an toàn. 68 Với các nước có chiều hướng tự do hoá tài khoản vốn hay có chế độ tỷ giá linh hoạt có sự kiểm soát của nhà nước như Việt Nam, nếu chỉ sử dụng nguyên tắc so sánh mức dự trữ ngoại hối với 3 đến 6 tháng nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ sẽ không thích hợp vì có thể sẽ phải đối mặt với rủi ro đảo chiều một cách đột ngột của các luồng vốn ngắn hạn như luồng vốn đầu tư gián tiếp. Do đó, chúng ta cần có một lượng dự trữ ngoại hối lớn hơn để sẵn sàng can thiệp khi xảy ra hiện tượng rút vốn và chuyển tiền ồ ạt ra nước ngoài. 3.4.2 Tiêu chí tỷ lệ dự trữ ngoại hối và nợ ngắn hạn nước ngoài Thứ nhất: Dự trữ ngoại hối/ Nợ ngắn hạn Tình hình nợ nước ngoài của Việt Nam thời gian qua vẫn nằm trong tầm kiểm soát và không đáng lo ngại. Đa số các khoản nợ là nợ vay ưu đãi dài hạn với lãi suất thấp từ các quốc gia khác. Dù tỷ số Nợ/GDP an toàn mà chính phủ đặt ra là 50% nhưng thực tế tỷ lệ này giảm liên tục, luôn duy trì ở mức dưới 40% từ năm 2001 và đạt mức 34,7% năm 2008. Hình 3.12: Biểu đồ thể hiện dự trữ ngoại hối/Nợ ngắn hạn Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên số liệu ADB 69 Thời gian qua, việc vay nợ được giới hạn lại do các khoản thâm hụt từ tài khoản vãng lai đã được tài trợ bởi FDI và nợ ngắn hạn. Với các nước có mức độ đô la hoá cao như Việt Nam, chỉ số lượng tiền (M2) và số ngoại tệ gửi tại hệ thống ngân hàng so với dự trữ ngoại hối cũng được xem xét đến nhằm đánh giá khả năng đáp ứng nhu cầu ngoại hối của NHNN khi có hiện tượng rút ngoại tệ ồ ạt của người cư trú và khả năng can thiệp để bình ổn tỷ giá. 3.4.3 Tiêu chí tỷ lệ dự trữ ngoại hối và mức cung tiền Trong khoảng thời gian từ 1996 đến 2009 tỷ lệ dự trữ ngoại hối trên lượng cung tiền của Việt Nam luôn đạt yêu cầu (thông thường từ 10 đến 20%). Chuỗi số liệu về chỉ tiêu này cho thấy khi có sự rút tiền ồ ạt ra nước ngoài thì với lượng dự trữ hiện tại, NHNN hoàn toàn có đủ khả năng can thiệp vào tỷ giá hối đoái và đáp ứng nhu cầu thanh toán quốc tế. Mặc dù có những biến động trong suốt thời gian qua, nhưng tỷ số dự trữ ngoại hối/ M2 luôn trên 20% từ năm 1994, chứng tỏ dự trữ ngoại hối Việt Nam hợp lý nếu tính toán dựa trên M2. Điều này cũng cho thấy rằng xác suất xảy ra khủng hoảng tiền tệ của Việt Nam luôn ở mức thấp và mức dự trữ nhìn chung cao hơn mức cần thiết. Hình 3.13: Cung tiền và tỷ lệ dự trữ ngoại hối trên cung tiền Nguồn: ADB 70 Qua đánh giá các chỉ tiêu dự trữ ngoại hối cho thấy dự trữ ngoại hối của Việt Nam qua các năm được xem là đủ để đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ cơ bản. Nếu như chỉ tiêu tỷ lệ dự trữ trên giá trị nhập khẩu được sử dụng phổ biến ở các nước để xem xét liệu dự trữ ngoại hối có đạt mức an toàn hay không thì đối với một nước theo chế độ tỷ giá linh hoạt có sự quản lý cuả như Việt Nam, cần thiết kết hợp thêm các chỉ tiêu khác là tỷ lệ dự trữ trên nợ ngắn hạn và tỷ lệ dự trữ trên cung tiền. Như vậy thì chúng ta sẽ có cái nhìn chính xác hơn về tình hình dự trữ ngoại hối hiện tại, từ đó có những biện pháp chấn chỉnh thích hợp, kịp thời, đảm bảo an toàn cho nền kinh tế. --o0o-- 71 TÓM TẮT CHƯƠNG 3 Đối với Việt Nam từ 1990 đến nay (3/2011), chúng ta đã xây dựng được lộ trình để từng bước mở cửa tài khoản vốn, đồng thời linh hoạt hoán đổi giữa độc lập tiền tệ với mục tiêu tăng trưởng- lạm phát của nền kinh tế với chính sách tỷ giá. Quan điểm chủ đạo vẫn là bình ổn tỷ giá, trong khi cố gắng đạt mức tăng trưởng cao nhất bằng sự bổ trợ tác động của chính sách tiền tệ và tài khóa. Kiểm soát vốn vẫn được duy trì ở một mức độ nhất định nhưng không đồng bộ. Hiện nay, do áp lực lạm phát quá cao đối với nền kinh tế, chính phủ đành phải lựa chọn độc lập tiền tệ và dùng những công cụ mạnh mẽ để thắt chặt tiền tệ. Bên cạnh đó là việc phá giá đồng tiền Việt Nam tạm thời dưới áp lực nhập siêu và mức chênh lệch quá lớn giữa tỷ giá niêm yết và thị trường tự do. Có thể nói, tình hình vĩ mô hiện nay của Việt Nam đang rất phức tạp, và chưa thể có cái nhìn lạc quan trong thời gian sắp tới khi mà hiệu quả của các chính sách đưa ra chưa thể đánh giá được. Ngoài ra, sự bất ổn hiện tại một phần đến từ độ trễ tác động của điều hành chính sách tài khóa và tiền tệ trong thời gian trước. Giải quyết những bất ổn hiện tại không thể trong ngắn hạn mà thành công. Việc không đồng bộ, không nhất nhất quán trong quan điểm điều hành hiện là vấn đề bất cập nhất mà tác giả nhận thấy đối với nhà hoạch định chính sách Việt Nam. Trong chương 4, tác giả phân tích và đưa ra góc nhìn học thuật cho cả ba chính sách trong mối tương quan hữu cơ với nhau, dựa trên sự chấp nhận bộ ba bất khả thi tồn tại đối với kinh tế Việt Nam. Các giải pháp chủ yếu được đưa ra cho trung và dài hạn, với điểm nhấn là sự kết hợp đồng bộ các chính sách nhằm vào một mục tiêu cụ thể đặt ra từ trước. 72 CHƯƠNG 4 GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH VĨ MÔ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM GÓC NHÌN TỪ BỘ BA BẤT KHẢ THI 4.1 Phân tích tình hình hiện tại và nhận định vị thế tối ưu cho Việt Nam trên tam giác bất khả thi giai đoạn hiện nay: 4.1.1 Vị trí Việt Nam trên tam giác bất khả thi Bối cảnh Việt Nam hiện nay không khác nhiều so với bối cảnh của nền kinh tế Mỹ những năm 80 của thế kỷ trước: ảnh hư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbo_ba_bat_kha_thi__ket_hop_toi_uu_cho_dieu_hanh_chinh_sach_vi_mo_o_viet_na.PDF
Tài liệu liên quan