Đề tài Bội chi ngân sách - Lý luận, thục tiễn và giải pháp

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU: 2

NỘI DUNG CHÍNH 4

1. Lí luận chung về bội chi ngân sách và các vấn đề liên quan 4

1.1. Ngân sách nhà nước: 4

1.1.1 Khái niệm: 4

1.1.2 Đặc điểm: 5

1.2. Cân đối ngân sách 8

1.2.1 Khái niệm: 8

1.2.2. Đặc điểm của cân đối ngân sách nhà nước: 9

1.3. Bội chi ngân sách (Thâm hụt ngân sách) 10

1.3.1 Khái niệm: 10

1.3.2 Phân loại: 11

2. Ảnh hưởng của bội chi ngân sách đến nền kinh tế 12

2.1. Bội chi ngân sách – nguyên nhân chính gây ra lạm phát 12

2.2. Cung cầu ngoại tệ trên thị trường và sức ép của tỷ giá rất lớn 16

2.3. Người dân nộp thuế nhiều hơn, trong khi chi cho mục tiêu an sinh xã hội lại giảm đi 17

2.4. Bộ máy nhà nuớc chưa tinh gọn, họat động còn chưa hiệu quả 18

3. Thực trạng bội chi NSNN của Việt Nam hiện nay 19

4. Nguyên nhân của bội chi ngân sách 24

4.1. Tác động của chu kỳ kinh doanh 24

4.2. Tác động của chính sách cơ cấu thu chi của Nhà nước 24

5. Giải pháp xử lý bội chi NSNN 28

KẾT LUẬN 32

TÀI LIỆU THAM KHẢO 33

 

 

doc35 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8530 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bội chi ngân sách - Lý luận, thục tiễn và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ịnh trong năm ngân sách va thông thường tình trạng này sẽ được  giải quyết bằng cách tạm ứng từ quỹ dự trữ tài thời điểm nào đó trong năm  chính. Ngoài ra cần chú ý rằng trong khi bội chi ngân sách chỉ xảy ra ở ngân sách trung ương thì việc tạm thời thiếu hụt ngân sách có thể xảy ra ở tất cả các cấp ngân sách, từ ngân sách trung ương cho đên ngân sách địa phương. Bảng: Tóm tắt nội dung cân đối ngân sách nhà nước hằng năm Thu Chi A. Thu thường xuyên (thuế, phí, lệ phí). B. Thu về vốn (bán tài sản nhà nước). C. Bù đắp thâm hụt. – Viện trợ. – Lấy từ nguồn dự trữ. Vay thuần (= vay mới – trả nợ gốc). D. Chi thường xuyên. E. Chi đầu tư. F. Cho vay thuần (= cho vay mới – thu nợ gốc). A + B +C = D + E + F Công thức tính bội chi NSNN của một năm sẽ như sau: Bội chi NSNN = Tổng chi – Tổng thu = (D + E + F) – (A + B) = C 1.3.2 Phân loại: Tài chinh công hiện đại phân loại thâm hụt tài chính (hay còn gọi là bội chi ngân sách nhà nước thành 2 loại: thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ. Thâm hụt cơ cấu: Là các khoản thâm hụt được quyết định bởi những chính sách tùy biến của chính phủ như quy định thuế suất, trợ cấp bảo hiểm xã hội hay quy mô chi tiêu chogiáo dục, quốc phòng,... Thâm hụt chu kỳ: là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của chu kỳ kinh tế, nghĩa là bởi mức độ cao hay thấp của sản lượng và thu nhập quốc dân. Ví dụ khi nền kinh tế suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp tăng sẽ dẫn đến thu ngân sách từ thuế giảm xuống trong khi chi ngân sách cho cho trợ cấp thất nghiệp tăng lên. Giá trị tính ra tiền của thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ được tính toán như sau: Ngân sách thực có: Liệt kê các khoản thu, chi và thâm hụt tính bằng tiền trong một giai đoạn nhất định (thường là một quý hoặc một năm). Ngân sách cơ cấu: tính toán thu, chi và thâm hụt của chính phủ sẽ là bao nhiêu nếu nền kinh tế đạt mức sản lượng tiềm năng. Ngân sách chu kỳ: Là chênh lệch giữa ngân sách thực có và ngân sách cơ cấu. Việc phân biệt giữa ngân sách cơ cấu và ngân sách chu kỳ phản ánh sự khác nhau giữa chính sách tài chính: chính sách ổn định tùy biến và chính sách ổn định tự động. Việc phân biệt hai loại thâm hụt trên đây có tác dụng quan trọng trong việc đánh giá ảnh hưởng thực sự của chính sách tài chính khi thực hiện chính sách tài chính mở rộng hay thắt chặt sẽ ảnh hưởng đến thâm hụt ngân sách như thế nào giúp cho chính phủ có những biện pháp điều chỉnh chính sách hợp lý trong từng giai đoạn của chu kỳ kinh tế 2. Ảnh hưởng của bội chi ngân sách đến nền kinh tế 2.1. Bội chi ngân sách – nguyên nhân chính gây ra lạm phát Theo PGS, TS Lê Quốc Lý, Vụ trưởng Vụ Tài chính - Tiền tệ ( Bộ Kế hoạch và Đầu tư): Chính những yếu kém trong ngân sách (thu NSNN không đủ chi và bù đắp thâm hụt ngân sách không chỉ phải vay trong và ngoài nước mà còn phải lấy từ nguồn tiền phát hành) là một yếu tố quan trọng gây nên lạm phát... Thực tế trong những năm gần đây, mặc dù chúng ta đã kiểm soát nguồn bội chi NSNN từ hai nguồn là vay nước ngoài và vay trong nước nên sức ép tiền cung ứng thêm ra thị trường là không có, nhưng sức ép tăng chi tiêu của Chính phủ cho tiêu dùng thường xuyên và cho đầu tư lại tăng lên. Giải pháp để kiểm soát bội chi NSNN và kiềm chế lạm phát, ông Lý nhấn mạnh: Vấn đề đặt ra hiện nay là việc rà soát, cắt giảm chi tiêu NSNN chưa thật cần bằng việc đề ra các tiêu chí, tiêu chuẩn để cắt bỏ, đình hoãn những công trình đầu tư chưa thật bức bách, kém hiệu quả hoặc chưa khởi công. Đây là một trong những nhiệm vụ cực kỳ khó khăn, nhưng với số NSNN hiện có ( với tình hình trợt giá như hiện nay) thì sẽ không thể có điều kiện thực hiện được hết các dự án, công trình đã bố trí.... Ngân sách nhà nước có mối quan hệ nhân quả với lạm phát. Thâm hụt ngân sách quá mức có thể dẫn đến lạm phát cao. Đặc biệt nếu bù đắp thâm hụt ngân sách bằng việc phát hành tiền sẽ tất yếu dẫn đến lạm phát. Trường hợp Việt Nam, nếu chính phủ duy trì chính sách ngân sách chặt (thâm hụt không quá 2,5% GDP) thì dường như không có gì lo ngại đối với lạm phát. Thực ra do giới hạn của ngân sách, phần lớn các phần chi cho các dự án lớn của nhà nước được tài trợ thông qua các ngân hàng thương mại quốc doanh. Trong khi đó dự trữ tiền mặt của các ngân hàng này được cung ứng bổ sung từ ngân sách nhà nước. Do vậy cho dù ngân sách không thâm hụt lớn nhưng với chính sách tín dụng mềm sẽ tạo ra áp lúc lạm phát. Hiện nay, Quốc hội nước ta vẫn cho phép 1 mức thâm hụt ngân sách là 5%/năm. Và thực tế thâm hụt ngân sách trong những năm gầm đây luôn tương đương với mức được Quốc hội cho phép. Bảng 2: Quy mô thâm hụt ngân sách ở Việt Nam Đơn vị: % Nguồn: Bộ tài chính Giai đoạn 2001-2002 2003-2004 Thâm hụt NS / GDP 4.85 5.0 Trái phiếu CP/Bội chi NSNN 64 76 Nếu mức độ thâm hụt ngân sách này tiếp tục được duy trì trong tương lai thì có thể dễ dàng nhận thấy chỉ sau 1 thời gian ngắn nữa quy mô nợ công của Việt Nam sẽ vượt mức an toàn và trở thành nguy cơ tiềm ẩn đối với sự ổn định kinh tế nói chung và tài chính nói riêng. Hiện nay quy mô nợ công của Việt Nam chỉ vào khoảng 30-40% GDP trong đó nợ nước ngoài cuối 2003 là 13,3 tỷ USD. Như vậy xét từ góc độ kinh nghiệm nước ngoài thì chỉ số gánh nặng nợ ( tỷ lệ nợ công/GDP) nhỏ hơn 60% được coi là an toàn. Quy mô nợ công ở VN hiện nay vẫn nằm trong tầm kiểm soát của chính phủ tuy nhiên đây chỉ là cái nhìn thoảng qua ở thời điển hiện tại. Về lâu dài với mức thâm hụt ngân sách này sẽ không 1 cơ cấu nợ nào có thể đảm bảo được sự bền vững của các khoản nợ trong tương lai bởi lãi suất trong nước và quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá như hiện nay thường ở mức ngang bằng nhau. Mức thâm hụt ngân sách khoảng 5% / năm hiện nay sẽ là nguy cơ chính đe doạ mục tiêu kiểm soát và duy trì nợ quốc gia trong giai đoạn đến 2010. Bội chi NS xảy ra khi chính phủ chi tiêu nhiều hơn số thu NS huy động được. Ngược lại, khi chi NS nhỏ hơn số thu NS thì có bội thu NS. Chi NS là 1 trong nhữngc ông cụ chính sách quan trọng của Nhà nước nhằm tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Khi sản lượng của nền kinh tế thấp dưới mức sản lượng tiềm năng, thì chính phủ có thể tăng mức chi NS, chấp nhận bội chi để thúc đẩy họat động kinh tế. Vì vậy, bội chi NS không chỉ diễn ra phổ biến đối với các nước nghèo, kém phát triển mà xảy ra ngay cả đối với những nước thuộc nhóm các nền kinh tế phát triển nhất (nhóm OECD). Đối với các nước đang phát triển, bội chi ngân sách thường để đáp ứng nhu cầu rất lớn về đầu tư cơ sở hạ tầng ban đầu như: giao thông, điện, nước….Nhiều nước phát triển và đang phát triển trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á, cũng bội chi NS. Việc xử lý bội chi NS là 1 nội dung quan trọng của chính sách tài khóa của nhà nước, có tác động đến nền kinh tế vĩ mô. Chính những yếu kém trong ngân sách ( thu NSNN không đủ chi và bù đắp thâm hụt NS, không chỉ vay trong và ngoài nước mà còn lấy từ nguồn tiền phát hành) là 1 yếu tố gây nên lạm phát…Thực tế trong những năm gần đây, mặc dù chúng ta đã kiểm soát nguồn bội chi NSNN từ 2 nguồn là vay nước ngoài và vay trong nuớc nên sức ép tiền cung ứng thêm ra thị trường là không có, nhưng sức ép tăng chi tiêu của CP cho tiêu dùng thường xuyên và cho đầu tư lại tăng lên. Tại buổi thảo luận về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội trong kỳ họp Quốc hội, đại biểu Lê Quốc Dung (Thái Bình) đã lo lắng cho chỉ tiêu về bội chi ngân sách. Trong báo cáo của Chính phủ xây dựng chỉ tiêu là 5,5% cho năm bội chi ngân sách năm 2011.  Tuy nhiên, theo đại biểu Dung, nếu ta tính những khoản ngoài ngân sách vào như: ODA (tương đương khoảng 3,2 tỷ USD), trái phiếu Chính phủ (45.000 tỷ đồng); các khoản ghi thu, ghi chi (khoảng 12.500 tỷ đồng). Cộng những khoản này vào thì chi ngoài ngân sách khoảng 82.500 tỷ đồng. Như vậy bội chi ngân sách của chúng ta thực tế lớn hơn rất nhiều và tác động của nó tới lạm phát sẽ còn lớn hơn, chứ không phải giữ được 7%. Nếu đưa cả các khoản ngoài ngân sách vào trong ngân sách thì bội chi có thể lên tới 10,5% chứ không phải là 5,5%, nghĩa là gần gấp đôi so với chỉ tiêu đề đề ra. Đây là con số đáng lo ngại.  “Tại sao trong khi nợ công chúng ta cộng những thứ ngoài ngân sách đó vào, nhưng tính bội chi ngân sách thì không? Chúng tôi cho rằng làm như thế không tôn trọng sự thật. Chúng ta cũng vừa nói rằng Vinashin báo cáo không đúng với Chính phủ, thậm chí Quốc hội giám sát báo cáo cũng không đúng, năm 2008 vẫn còn báo cáo 605 tỷ đồng lãi, năm 2009 cũng lãi… Nếu không nhìn đúng vào sự thật sẽ không giải quyết được vấn đề” - đại biểu Dung nói.  Do đó, theo kiến nghị của đại biểu, sớm muộn Chính phủ và Quốc hội phải đưa tất cả những khoản chi ngoài ngân sách vào trong ngân sách để chúng ta kiểm soát, lúc đó mới có con số đúng để đánh giá. 2.2. Cung cầu ngoại tệ trên thị trường và sức ép của tỷ giá rất lớn Ông Vũ Viết Ngoạn - Phó Chủ nhiệm ủy ban kinh tế Quốc hội cho rằng nền kinh tế vĩ mô đang tiềm ẩn những yếu tố bất ổn định và ở mức độ nguy cơ hơn, thách thức hơn. Hiện nay cung cầu ngoại tệ trên thị trường và sức ép của tỷ giá rất lớn, cần cảnh báo.  Nguyên nhân chính là do nhập siêu cao và duy trì trong một thời gian quá dài dẫn đến cán cân thanh toán thâm hụt liên tục trong 2 năm qua. Nếu điều này vẫn tiếp tục thì sẽ rất khó có khả năng cân đối được ngoại tệ.  Bởi vậy, “kế hoạch của Chính phủ đến năm 2015 nhập siêu của chúng ta mới đưa xuống mức 15% của kim ngạch xuất khẩu là quá muộn, cần đẩy nhanh hơn nếu không sẽ ảnh hưởng rất lớn đến ổn định tỷ giá” - ông Ngoạn kiến nghị.  Đáng chú ý, sau khi đối chiếu lại các báo cáo về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong các năm trước, ông Đặng Như Lợi - Phó Chủ nhiệm Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội còn chỉ ra một thực tế là những hạn chế, yếu kém từ năm 2006 - 2009 so với năm 2010 cơ bản vẫn còn nguyên.  Đó là chất lượng tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu, cân đối vĩ mô, quản lý và sử dụng nguồn lực lãng phí, chưa hiệu quả; rồi hạ tầng, môi trường, giáo dục, lãng phí, tham ô, tiêu cực, đời sống nhân dân...  Để xảy ra những tồn tại như hiện nay, ông Lợi cho rằng, chúng ta chưa thực sự quản lý, kiểm soát được nền kinh tế. Việc quản lý ngành, lĩnh vực không thực hiện được mà chỉ còn có quản lý trực thuộc. Mà quản lý trực thuộc chỉ là một quản lý ngành chưa làm, càng ngày càng buông lỏng... Trong khi đó, đội ngũ cán bộ, công chức không được đánh giá đúng, bố trí con người không phù hợp với chức vụ. Đáng lưu ý, tính chiến đấu và nhiệt huyết của cán bộ lãnh đạo ngày một giảm, không dám phản ánh sự thật. “Tôi thấy như người ta nặng về bảo vệ chức vụ của mình” - ông Lợi nói: Rồi người ta bảo rằng chi chưa hiệu quả, lãng phí, nhưng cứ tăng thu được cái nào đã chi hết cái đó, mấy chục nghìn tỷ cũng hết. Nói rằng lễ hội, khánh thành, tổng kết, khai trương… tốn kém nhưng ngày càng tăng mà không thấy giảm. 2.3. Người dân nộp thuế nhiều hơn, trong khi chi cho mục tiêu an sinh xã hội lại giảm đi Thời gian qua, VN liên tục bội chi ngân sách khoảng 4-5% GDP, tức chi vượt thu 4-5% tổng sản phẩm làm ra trong nước. Khoản chi lố này Chính phủ phải đi vay của dân qua trái phiếu hoặc vay nước ngoài, hoặc điều chuyển các nguồn lực. Điều đáng nói là mặc dù kinh tế khó khăn, bội chi ngân sách nhà nước lớn nhưng theo phân tích của Ủy ban Tài chính - ngân sách trong báo cáo thẩm tra, chi thường xuyên của các cơ quan nhà nước vẫn tăng cao, đặc biệt phải kể đến “các khoản chi khác” tăng đến 154%, chi quản lý hành chính tăng 8%... Chi khác là khoản chi mà các cơ quan nhà nước có thể dùng cho các công việc tiếp khách, tổ chức các hội nghị, hội thảo và các khoản chi không có trong danh mục chi chính thức... Chi quản lý hành chính là chi cho công việc hằng ngày của các cơ quan hành chính. Chi khác tăng có nghĩa các hội nghị, hội thảo và các hoạt động ít có tên chính thức để có thể được ngân sách thanh toán vẫn nhiều, chi hành chính tăng chứng tỏ công việc của bộ máy hành chính nhiều lên nhưng cũng có thể là báo hiệu bộ máy hành chính chưa tinh gọn và áp dụng công nghệ kém... Điều đáng nói là khi bội chi cao, cuối cùng dân cũng phải nộp thuế để trả cho khoản tăng cao đó, thì chi cho các mục tiêu an sinh xã hội lại đang giảm xuống. Theo đại biểu Trương Văn Vở - thành viên Ủy ban Tài chính - ngân sách Quốc hội, qua tìm hiểu kỹ các con số mà Chính phủ trình, ông phát hiện trong bốn tháng đầu năm 2009, khi mà kinh tế tiếp tục khó khăn, nhiều doanh nghiệp phá sản thì chi cho an sinh xã hội của Chính phủ đã giảm so với năm 2008. Ủy ban Tài chính - ngân sách trong báo cáo thẩm tra về kết quả thực hiện ngân sách năm 2008 và phương án điều chỉnh ngân sách năm 2009 của Chính phủ cũng lưu ý mạnh mẽ: “Cơ cấu chi ngân sách không nên quá nghiêng vào đầu tư phát triển và chi thường xuyên mà nên tăng chi cho con người. Ngoài ra, Chính phủ cần giảm chi quản lý hành chính, kiểm soát chặt chẽ chi tiêu công, thực hiện tốt cơ chế khoán chi và tự cân đối thu chi”... Đặc biệt, Ủy ban Tài chính - ngân sách đề nghị Chính phủ cần “khắc phục tình trạng nguồn thu giảm nhưng chi lại tăng rất mạnh, rất nhanh, khó quản lý”... 2.4. Bộ máy nhà nuớc chưa tinh gọn, họat động còn chưa hiệu quả “Cái bánh” ngân sách rõ ràng có hạn, trong khi nhu cầu chi ở VN luôn rất lớn. Nên điều cần đặt ra là làm sao chi đúng chỗ, tương ứng với tầm quan trọng của nó. Do đã có kinh nghiệm một thời gian chạy theo con số tăng trưởng, chắc hẳn đến nay VN không nên vì con số tăng trưởng mà lơ là chi cho con người. Mất cân đối trong thu chi, trong khi chi cho bộ máy vẫn tăng, đó là một dấu hiệu cho thấy Chính phủ cần làm tốt hơn nữa việc cơ cấu lại bộ máy và để cho các thành phần kinh tế làm những việc mà Nhà nước không nhất thiết phải làm... Như việc xây ký túc xá sinh viên, nhiều đại biểu đề nghị Chính phủ không nhất thiết phải vay vốn qua phát hành trái phiếu để làm. Chỉ cần có các chính sách như cấp đất, miễn hoặc giảm thuế sử dụng đất thật sự “thân thiện” với tình hình thực tế của thị trường... rất nhiều nhà đầu tư sẽ sẵn lòng bỏ vốn. Như vậy, Chính phủ chỉ không thu được tiền, nhưng cũng không phải lo bội chi quá cao và lo phải trả lãi cho khoản vay đó... Năm 2009 Chính phủ xin bội chi khoảng 8%, nếu được thông qua, số tiền chi vượt thu sẽ lên tới gần 9 tỉ USD. Dù chỉ phải trả lãi cho một phần số tiền trên với lãi suất không cao thì gánh nặng trùm lên người nộp thuế vẫn không nhỏ. Vì vậy, lâu dài Chính phủ cần có các chính sách để giảm bội chi, mà một trong những biện pháp quan trọng đã được nhắc đến với nhiều quyết tâm là tinh gọn bộ máy. Khi bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu quả thì không những sẽ giúp giảm bội chi cả trực tiếp và gián tiếp mà còn giúp phần chi cho con người được nhiều hơn theo đúng khuyến nghị của Ủy ban Tài chính - ngân sách. 3. Thực trạng bội chi NSNN của Việt Nam hiện nay Bội chi ngân sách không phải là hoàn toàn tiêu cực . Nếu bội chi ở một mức nhất định (dưới 5% so với tổng chi ngân sách trong năm )thì lại có tác dụng kích thích sản xuất phát triển .Vì thế ở những quốc gia có nền kinh tế phát triển cao nhà nước vẫn chỉ cố gắng thu hẹp bội chi ngân sách chứ không loại trừ nó hoàn toàn .Tuy nhiên, với một nước đang phát triển như Việt Nam thì duy trì bội chi ở mức 5% tổng chi NS cũng không phải là một điều dễ dàng.Thực tế, trong những năm qua, mặc dù hằng năm chỉ tiêu bội chi mà nhà nước đưa ra luôn duy trì ở mức 5% so với GDP nhưng kết quả bội chi vẫn ở mức cao. Giai đoạn trước năm 1986, thâm hụt ngân sách nhà nước luôn ở tình trạng cao quá mức, thu ngân sách không đủ bù đắp cho chi thường xuyên, chi tiêu của Chính phủ Việt Nam phải dựa chủ yếu vào sự viện trợ của nước ngoài, đặc biệt là Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu. Sang giai đoạn 1986-1990, trước tình hình khó khăn đó, Đảng ta tiến hành đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có định hướng XHCN. Với những bước đi chập chững ban đầu, chính sách tài chính đã có đổi mới một bước. Tuy nhiên, thu NSNN càng không đủ chi và bù đắp thâm hụt NSNN không chỉ phải vay trong và ngoài nước mà còn phải lấy từ nguồn tiền phát hành. Giai đoạn 1991-1995, cơ cấu chi ngân sách đã dần dần thay đổi theo hướng tích cực. Nguồn thu trong nuớc đã đủ cho chi thường xuyên, tình trạng đi vay hoặc dựa vào phát hành cho chi thường xuyên đã chấm dứt. Trong giai đoạn này chi đúng đối tượng, có hiệu quả, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội được đặt ra. Nhờ những giải pháp trên, số thâm hụt ngân sách đã giảm dần qua từng năm và được bù đắp bằng vay của dân và vay nước ngoài. Năm 1991 1992 1993 1994 1995 Tỷ lệ bội chi NSNN so với GDP 1,4% 1,5% 3,9% 2,2% 4,17% Như vậy, có thể thấy bội chi NSNN trong những năm 1991-1995 là rất thấp (bình quân 2,63%) thể hiện chính sách thắt chặt chi tiêu của Chính phủ trong thời kỳ 1991-1995 và đây cũng là yếu tố rất quan trọng góp phần kiềm chế lạm phát. Giai đoạn 1996-2000, tình hình thu chi NSNN đã có nhiều chuyển biến tích cực, thu không những đủ chi thường xuyên mà còn cho đầu tư phát triển, thâm hụt NSNN được khống chế ở mức thấp. Tuy nhiên, giai đoạn 1996 - 2000 do tác động của khủng hoảng tài chính ở các nước Đông Nam Á nên nền kinh tế gặp không ít khó khăn. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bị giảm dần từ 1996 đến 1999 và đến năm 2000 tốc độ này mới tăng lên chút ít, chặn đứng đà giảm sút. Năm 1996 1997 1998 1999 2000 Tỷ lệ bội chi NSNN so với GDP 3% 4,05% 2,49% 4,37% 4,95% Giai đoạn 2001-2006: Tốc độ tăng thu hàng năm bình quân là 18,8%. Tốc độ tăng chi bình quân hàng năm đạt 18,5%. Bội chi NSNN trong giai đoạn này về cơ bản đuợc cân đối ở mức 5% GDP. Đơn vị tính: Tỷ Đồng Năm Số Bội chi Bội chi so với GDP 2001 25.885 4,67% 2002 25.597 4,96% 2003 29.936 4,9% 2004 34.703 4,85% 2005 40.746 4,86% 2006 48.500 5% Giai đoạn 2007-2010: năm 2007, Việt Nam gia nhập WTO nên nền kinh tế có nhiều đổi mới đáng kể. Do đó, tình hình bội chi NSNN trong giai đoạn này cũng tăng cao. Năm 2007, dự toán thu ngân sách nhà nước quốc hội quyết định là 281900 tỉ đồng; phấn đấu cả năm ước đạt 287900 tỉ đổng, vượt 2,1% (6000 tỉ đồng). So với dự toán, tăng 11,6% so với thực hiện năm 2006. Trong điều kiện dự toán năm 2007 được xây dựng ở mức cao, quá trình điều hành phát sinh nhiều khó khăn ảnh hưởng trực tiếp đến số thu ngân sách như sản lượng dầu thô, thanh toán giảm lớn so với dự toán, thực hiện điều chỉnh giảm thuế để bình ổn giá cả thị trường… thì kết quả thu như vậy là tích cực. Dự toán chi quốc hội quyết định là 357400 tỉ đồng, bao gồm cả nhiệm vụ chi từ số thu kết chuyển năm 2006 sang năm 2007 (19000 tỉ đồng); ước cả năm đạt 368340 tỉ đồng, tăng 3,1% (10940 tỉ đồng) so với dự toán bằng 32,3% tăng 14,6% so với thực hiện năm 2006. Bộ chi ngân sách năm 2007 được quốc hội quyết định là 56500 tỉ đồng ước cả năm là 56500 tỉ đồng, chiếm 4,95% GDP (tính theo thống kê tài chính CP-GFS là 1,7% GDP bằng mức quốc hội quyết định, được đảm bảo bằng các nguồn vay bù đắp bộ chi đúng với dự toán năm.) Nhưng theo số liệu từ tổng cục thống kê, quyết toán thu NSNN là 315915 tỷ đồng trong khi quyết toán chi NSNN lên tới 399402 tỷ đồng. Do đó mức bội chi lên tới 83487 tỷ đồng, chiếm tới 7.3% GDP và 20.9% tổng chi NSNN. Năm 2008, Dự toán thu cân đối ngân sách nhà nước năm 2008 là 323000 tỉ đồng phấn đấu cả năm đạt 399000 tỉ đồng, vượt 23,5% (76000 tỉ đồng so với dự toán, tăng 26,3% so với thực hiện năm 2007, đạt tỉ lệ động viên 26,8% GDP, trong đó từ thuế và phí đạt 24,9% GDP, ;loại trừ yếu tố tăng thu do tăng giá dầu thô thì đạt tỉ lệ động viên 23,5% GDP (thuế và phí đạt 21,6% GDP) chính phủ tập trung chỉ đạo tăng cường công tác quản lý thu ngân sách năm 2008. Dự toán chi cân đối ngân sách nhà nước quốc hội quyết định là 398900 tỉ đồng ước thực hiện cả năm đạt 474280 tỉ đồng vượt 18,9% so với dự toán, tăng 22,3% so với thực hiện năm 2007. Bộ chi ngân sách nhà nước năm 2008 quốc hội quyết định là 66900 tỉ đồng. Ước cả năm bộ chi ngân sách thực hiện là 66200 tỉ đồng bằng 4,95% GDP khi xây dựng kiểm toán. Đến ngày 31/12/2008 dư nợ chính phủ (bao gồm cả nợ trái phiếu chính phủ) bằng 33,5% GDP dư nợ ngoài nước của quốc gia bằng 27,2% GDP trong giới hạn đảm bảo an ninh tài chính quốc gia và ổn định các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô. Còn theo số liệu từ Tổng cục thống kê thì quyết toán thu NSNN năm 2008 đạt 416783 tỷ đồng, vượt 17783 tỷ đồng so với dự kiến. Nhưng quyết toán chi NSNN lại lên tới 494600 tỷ đồng, vượt hơn 10 tỷ đồng so với dự toán. Cho nên mức bội chi đạt 5.2% GDP. Đây là một tỷ lệ rất đáng khích lệ mặc dù vượt mức bội chi so với dự kiến. Tuy nhiên, sang đến năm 2009, Việt Nam lại không thể giữ bội chi ở mức 5% GDP như năm 2008 nữa. măc dù theo dự toán NSNN dự toán thu ngân sách nhà là 389900 tỉ đồng,đạt tỷ lệ 23%GDP trong đó từ thuế phí và lệ phí là 21,5% GDP. Dự toán chi ngân sách năm 2009 là 491300 tỉ đồng ,tăng 23,1% so với dự toán năm 2008 Bội chi ngân sách nhà nước ở mức 4,82% GDP (giảm 3700 tỉ đồng so với tính bội chi ở mức 5%) để góp phần kiềm chế lạm phát. Nhưng trên thực tế, theo số liệu từ tổng cục thống kê thì quyết toán thu NSNN đạt 442340 tỷ đồng, vượt hơn 6 tỷ so với dự toán. Còn quyết toán chi NSNN lên tới 584695 tỷ đồng, vượt hơn 9 tỷ so với dự toán. Do đó, bội chi lên tới 8.6% GDP, một mức bội chi khá cao so với nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. . Tuy nhiên, sang năm 2010, tỉ lệ bội chi so với GDP đạt 5,8%, giảm 0,4% so với mục chỉ tiêu của Nghị quyết Quốc hội là 6,2% GDP. Bộ Tài chính cho biết năm 2010 các công cụ thuế, phí, lệ phí... đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu đã được sử dụng linh hoạt để đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, khuyến khích sử dụng hàng hóa sản xuất trong nước để hạn chế nhập siêu. Bên cạnh đó là việc đẩy mạnh triển khai thủ tục hải quan điện tử, hiện đại hóa thu NSNN nhằm giảm thiểu chi phí, thời gian cho các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu. Bộ Tài chính xác định nhiệm vụ năm 2011 là tăng cường phối hợp đồng bộ, chặt chẽ chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ và các chính sách khác nhằm tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện có hiệu quả các mục tiêu kinh tế - xã hội. Cụ thể, năm 2011 tiếp tục thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Chủ động thực hiện lộ trình điều chỉnh giá theo cơ chế giá thị trường vào thời điểm thích hợp trong năm đối với giá cả một số hàng hoá, dịch vụ thiết yếu Nhà nước còn định giá. Tăng cường quản lý giá thông qua các biện pháp: kiểm soát các yếu tố hình thành giá, đăng ký giá, kê khai giá; Kiên quyết ngừng việc đăng ký giá có mức tăng giá không hợp lý. Kiểm soát đối với một số hàng hoá, dịch vụ độc quyền, ngăn chặn và kiên quyết xử lý hành vi liên kết và lạm dụng vị thế thị trường để tăng giá bất hợp lý, nhất là các nguyên liệu đầu vào quan trọng của sản xuất và các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu. Như vậy, chúng ta có thể tóm tắt về thực trạng bội chi ngân sách cho đến thời điểm hiện nay như sau: - Bội chi ngân sách năm 2007 được quốc hội quyết định là 56500 tỉ đồng, chiếm 4,95% GDP - Năm 2008 66900 tỉ đồng, ước cả năm bội chi ngân sách thực hiện là 66200 tỉ đồng, bằng 4,95% GDP - Bội chi ngân sách nhà nước ở mức 4,82% GDP (giảm 3700 tỉ đồng so với tính bội chi ở mức 5%) để góp phần kiềm chế lạm phát (2009) - Mức bội chi ngân sách nhà nước năm 2010 là 119.700 tỉ đồng tương đương 6,2 GDP và đang thực hiện các chính sách giảm xuống còn 5,95% 4. Nguyên nhân của bội chi ngân sách Có 2 nhóm nguyên nhân cơ bản gây ra bội chi NSNN: tác động của chu kỳ kinh doanh, tác động của chính sách cơ cấu thu chi của Nhà nước. 4.1. Tác động của chu kỳ kinh doanh Khủng hoảng làm cho thu nhập của Nhà nước co lại, nhưng nhu cầu chi lại tăng lên, để giải quyết những khó khăn mới về kinh tế và xã hội. Điều đó làm cho mức bội chi NSNN tăng lên. ở giai đoạn kinh tế phồn thịnh, thu của Nhà nước sẽ tăng lên, trong khi chi không phải tăng tương ứng. Điều đó làm giảm mức bội chi NSNN. Mức bội chi do tác động của chu kỳ kinh doanh gây ra được gọi là bội chi chu kỳ. 4.2. Tác động của chính sách cơ cấu thu chi của Nhà nước Khi Nhà nước thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng sẽ làm tăng mức bội chi NSNN. Ngược lại, thực hiện chính sách giảm đầu tư và tiêu dùng của Nhà nước thì mức bội chi NSNN sẽ giảm bớt. Mức bội chi do tác động của chính sách cơ cấu thu chi gây ra được gọi là bội chi cơ cấu. Cụ thể, tình trạng bội chi ngân sách do chính sách của Nhà nước bao gồm các vấn đề cụ thể sau: ·  Thất thu thuế nhà nước Thuế là nguồn thu chính và bền vững nhất cho ngân sách nhà nước bên cạnh các nguồn thu khác như tài nguyên, doanh nghiệp nhà nước, vay, nhận viện trợ…tuy nhiên, do hệ thống pháp luật ta còn nhiều bất cập, sự quản lí chưa chặt chẽ đã tạo kẻ hở cho các cá nhân, tổ chức lợi dụng để trốn thuế, gây thất thu một lượng đáng kể cho ngân sách nhà nước…điển hình, trong năm 2008 lượng thuốc lá nhập lậu vào nước ta đã làm thất thu thuế, lấy đi của ngân sách nhà nước 2.500- 3000 tỉ đồng. Ngoài ra, lượng thuốc lá nhập lậu còn làm chảy máu ngoại tệ của đất nước khoảng 200 triệu USD/năm, làm gia tăng thất

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBội chi ngân sách_ Lý luận, thục tiễn và giải pháp.doc
Tài liệu liên quan