Đề tài Bước đầu khảo sát tình hình viết địa danh nước ngoài trên một số văn bản tiếng Việt hiện nay

MỤC LỤC

 

PHẦN MỞ ĐẦU 1

1. Lí do chọn đề tài 1

2. Ý nghĩa của đề tài 2

3. Phương pháp tiến hành 2

4. Bố cục 3

CHƯƠNG I 4

LÍ LUẬN CHUNG 4

1. Các khái niệm 4

1.1. Địa danh và Địa danh học 4

1.1.1. Khái niệm địa danh 4

1.1.2. Địa danh nước ngoài 4

1.1.3. Địa danh học 5

1.2. Địa danh học và địa danh học bản đồ 6

1.3. Mối quan hệ giữa địa danh và ngôn ngữ 7

1.4. Các c¸ch phân loại địa danh 7

2. Các nguồn tư liệu 8

2.1. Báo chí 8

2.2. Sách giáo khoa 9

2.3. B¶n ®å vµ Atlas 9

3. Vài nét về các cách viết địa danh nước ngoài 9

3.1. Các cách viết địa danh nước ngoài từ trước tới nay 10

3.2. Cụ thể về các cách viết địa danh 10

3.2.1. Phiên âm (transcription) 10

3.2.1.1. Phiên âm trực tiếp (phiên âm từ ngôn ngữ gốc) 11

3.2.1.2. Phiên âm gián tiếp (phiên âm qua ngôn ngữ trung gian) 13

3.2.2. Chuyển tự (transliteration) 14

3.2.3. Dịch nghĩa 15

3.2.4. Nguyên dạng 16

4. Cơ sở ngôn ngữ của việc viết tên riêng và địa danh nước ngoài 17

CHƯƠNG II 20

TÌNH HÌNH VIẾT ĐỊA DANH NƯỚC NGOÀI TRÊN MỘT SỐ VĂN BẢN TIẾNG VIỆT HIỆN NAY 20

1. Báo chí 20

1.1. Báo Nhân Dân 20

1.1.1. Phiên âm trực tiếp 20

1.1.2. Phiên âm gián tiếp 24

1.1.3. Dịch nghĩa 24

1.1.4. Chuyển tự 25

1.2. Báo An ninh thế giới 25

1.2.1. Sử dụng cách viết nguyên dạng địa danh 25

1.2.2. Giữ nguyên cách viết những địa danh quen thuộc (phiên âm qua Hán Việt) 27

1.2.3. Dịch nghĩa 28

1.3. Báo Tin tức 28

1.3.1. Viết theo nguyên dạng 28

1.3.2. Viết liền phiên âm trực tiếp, có dấu sắc ở những âm tiết khép 29

1.3.3. Phiên âm gián tiếp qua Hán Việt 29

1.3.4. Dịch nghĩa 30

2. Sách giáo khoa 31

2.1. Sách giáo khoa Trung học cơ sở 31

2.2. Sách giáo khoa Phổ thông trung học 32

3. Bản đồ 33

3.1. Bản đồ Quân sự 34

3.2. Bản đồ dân sự 35

CHƯƠNG III 36

ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH ĐỊA DANH TRÊN CÁC VĂN BẢN, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ 36

1. Tổng kết, so sánh và đánh giá tình hình viết địa danh trên các văn bản tiếng Việt hiện nay 36

1.1. Cách viết chung 36

1.1.1. Viết địa danh qua cách đọc Hán Việt 36

1.1.2. Dịch nghĩa 38

1.2. Các cách viết riêng 38

1.2.1. Báo chí 38

1.2.2. Sách giáo khoa 39

1.2.3. Bản đồ 40

2. Một số ý kiến về vấn đề chuẩn hoá địa danh nước ngoài trên các văn bản tiếng Việt 45

2.1. Những qui định của quốc tế và Việt Nam về cách viết địa danh 45

2.2. Qui tắc và thực tế ghi địa danh trên bản đồ 46

2.2.1. Qui tắc chung về ghi địa danh trên bản đồ 46

2.2.2. Thực tiễn ghi địa danh trên các bản đồ có tính chất quốc tế 46

2.3. Những đề nghị về vấn đề ghi địa danh nước ngoài trên các văn bản 48

3.3.1. Phương hướng chung 48

3.3.2. Các đề nghị cụ thể 48

3.3.3. Các xử lý cụ thể 49

3. Đôi điều biện luận 51

3.1. Viết nguyên dạng đảm bảo tính dân tộc 51

3.2. Viết nguyên dạng đảm bảo tính khoa học 52

3.3. Viết nguyên dạng đảm bảo tính đại chúng 53

KẾT LUẬN 55

 

 

doc59 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2143 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bước đầu khảo sát tình hình viết địa danh nước ngoài trên một số văn bản tiếng Việt hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
người ngày càng nâng cao, ký hiệu sử dụng ngày càng nhiều thì con đường đi từ ký hiệu vào óc càng ngắn đi. Ngày nay, thường là: ký hiệu - mắt nhìn - óc nhận. Đơn vị ngôn ngữ nói chung là các ký hiệu đặc biệt. - Địa danh nước ngoài tồn tại với tư cách là một bộ phận của tên riêng nước ngoài. “Tên riêng, tuy là những đơn vị ngôn ngữ nhưng do chúng là những ký hiệu đơn giản 1- 1 nên chúng lại có những tính chất của những ký hiệu thường không khác gì những dấu +, - , x, : hoặc là những hình vẽ, phù hiệu khác. Vì vậy, tên riêng là một bộ phận đặc biệt của từ vựng ngôn ngữ.” [28, 56] - Vấn đề đặt ra là: cái được tôn trọng ở tên riêng là chữ hay âm? Đúng là ngôn ngữ, trước hết là ngôn ngữ nói và chữ viết là để ghi lại ngôn ngữ nói. Đối với những ngôn ngữ có chữ viết ghi âm, thì quan hệ giữa âm và chữ là ngữ âm quyết định chính tả. Nói chung là như vậy, nhưng nói chung không có nghĩa là bao giờ cũng phải như vậy. Quan hệ giữa âm và chữ là một quan hệ biện chứng, và có những trường hợp ngôn ngữ ở dạng viết lại quan trọng hơn ngôn ngữ ở dạng nói, và chính tả quyết định trở lại ngữ âm. “ Chữ viết ra đời là để khắc phục những hạn chế của ngôn ngữ nói. Ngôn ngữ viết đáp ứng nhu cầu giao tiếp rộng rãi trong các lĩnh vực hoạt động văn hoá, kinh tế, xã hội, chính trị...của con người, cả khi con người ở cách xa nhau, hoặc không sống cùng một thời đại với nhau. Chức năng đó đòi hỏi ngông ngữ viết, khác với ngôn ngữ nói phải có tính thống nhất và tính ổn định rất cao. Phát âm có thể thay đổi và nhiều khi thay đổi khá nhiều, giữa địa phương này với địa phương khác, giữa thế hệ này với thế hệ khác, nhưng chính tả thì phải thống nhất. Chúng ta phát âm khác nhau: “chần quốc tuấn”, “trầng quốc tuứng”, “trần quức tứng”... nhưng khi viết thì mọi người đều chỉ có thể viết “ Trần Quốc Tuấn”. Đó là chuẩn chính tả, chuẩn chính tả này tác động trở lại ngữ âm tạo ra một cách phát âm không tồn tại một cách tự nhiên trong tiếng Việt: “trần quốc tuấn”, cách phát âm này được công nhận là chuẩn. Chuẩn chính tả là cơ sở để xác định chuẩn phát âm, thí dụ trên đây cho thấy rằng đối với tên riêng trong nội bộ ngôn ngữ như “trần quốc tuấn”, chính tả vẫn quan trọng hơn phát âm, nó là nhân tố chính đảm bảo tính đồng nhất của tên riêng. Đối với tên riêng, địa danh nước ngoài lại càng như vậy. Người Mĩ viết LOS ANGELES và nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới cũng viết LOS ANGELES thống nhất với người Mĩ. Nhưng tên cái thành phố Mỹ này ngay trong bản thân người Mĩ đã có tới ít nhất bốn cách phát âm khác nhau. (các từ điển Mĩ thường chú ba hoặc bốn cách phát âm, mà không ghi chú cách phát âm nào là chuẩn, tạm phiên là “loxanjơlax”, “loxanjơlet”, “lôxangơlơx”, “loxanggơliz” và không ai tính được thực tế trên thế giới còn bao nhiêu cách phát âm khác nữa (một số từ điển Anh, Pháp chú âm: “loxanjiliz”, “loxanghiliz”.... phát âm có thể khác nhau, thậm chí khác nhau khá nhiều nhưng chính tả chỉ là một”.[22, 13- 14] Như thế, có nghĩa là khi chúng ta làm việc với địa danh nước ngoài cần chú ý đến chữ viết sau đó mới đến phát âm. CHƯƠNG II TÌNH HÌNH VIẾT ĐỊA DANH NƯỚC NGOÀI TRÊN MỘT SỐ VĂN BẢN TIẾNG VIỆT HIỆN NAY 1. Báo chí Báo chí là một hình thái ý thức xã hội , lấy hiện thực khách quan làm đối tượng phản ánh. Thông tin trong báo chí luôn mang tính thời sự. Vì vậy, trong từng thời điểm cụ thể ta có thể bắt gặp sự xuất hiện liên tục và đều đặn của một số địa danh trên tất cả các báo. Đây cũng chính là điểm đặc biệt để chúng ta dễ dàng nhận ra tình trạng xử lý địa danh không nhất quán trên các báo. Báo chí là một bộ phận không thể thiếu trong đời sống tinh thần của nhân dân. Báo chí vừa là tiếng nói của Đảng, của nhà nước, của các tổ chức chính trị xã hội, vừa là diễn đàn của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Báo chí thông tin, tham gia phát hiện và giải thích những vấn đề nóng hổi của xã hội, làm như vậy là báo chí thực hiện chức năng tuyên truyền cổ động và tổ chức tập thể của mình. Chúng ta nhận thức được vai trò như thế của báo chí trong đời sống, đồng thời cũng nhằm xác định nhiệm vụ của báo chí trong công cuộc định hướng xã hội, chuẩn hoá ngôn ngữ trong đó có chuẩn hoá địa danh nước ngoài. Đây chính là nhiệm vụ to lớn đặt ra cho báo chí nước ta vì tình hình địa danh nước ngoài trên các báo hiện nay là rất không thống nhất. 1.1. Báo Nhân Dân Báo Nhân Dân sử dụng các cách viết địa dnah: 1.1.1. Phiên âm trực tiếp - Phiên âm và viết rời có gạch nối ... “cảnh sát I- rắc cho biết, ngày 5. 1 tại A- mi- ri- y- a gần sân bay Bát – đa, một xe bom nổ nhằm đoàn xe quân sự Mỹ...” (ND, ngày 04. 01. 2005, tr8) .... “ở Tan A- pha, phía bắc thành phố Mô- xun, quê hương của tổng thống lâm thời G. D. y. a. na bị tiến công rốc- két...” (ND, ngày 06. 01. 2005, tr8) .... “lượt đi trận bán kết thứ hai giữa đội chủ nhà Mi- an- ma và đội Xin- ga- po được tổ chức ở sân bay Chi- rát (Ma- lai- xi- a) .....” ( ND, ngày 30. 12. 2004, tr8) “Thủ tướng I- xra- en tiếp tục thúc đẩy thực hiện kế hoạch rút quân khỏi dải Ga- da....” (ND, ngày 29. 12. 2004, tr8) Việc sử dụng dấu nối (-) để viết tên riêng, địa danh rất phổ biến vào những thập kỷ trước không chỉ đối với từ ngữ nước ngoài mà còn cả đối với nhân danh và địa danh Việt Nam. Hiện nay, số lượng văn bản sử dụng cách viết này không còn nhiều. “Dấu nối là ký hiệu chính tả, thường dùng để nối các thành tố trong từ đa tiết hoặc trong tổ hợp từ”. [32, 60] Việc sử dụng dấu nối để ghi địa danh có ưu điểm là giúp người đọc nhận diện các từ đa tiết dễ dàng hơn, do đó, sẽ đọc đúng, hiểu mau, tránh được sự ngộ nhận. Dấu nối giúp người đọc đỡ phải vận dụng trí óc quá căng thẳng, tiết kiệm được tư duy. Bên cạnh đó, sử dụng dấu nối cũng dẫn đến nhiều phiền phức: không tiết kiêm trong khi viết và in ấn, thiếu nhất quán và thiếu nhất trí. Ví dụ: Dim- ba- bu- ê Dim- ba- buê Sở dĩ có cách viết này là vì địa danh nước ngoài khi phiên đều có số lượng âm tiết rất lớn 3- 4 âm tiết. Số lượng âm tiết hơi lớn so với thông thường như thế làm cho người Việt cảm thấy khó khăn khi ban đầu tiếp xúc với địa danh nước ngoài, để dễ dàng hơn họ lựa chọ giải pháp viết rời có gạch nối - Viết hoa các chữ cái đầu âm tiết Ví dụ: A- déc- bai- gian Ai- đa- hô Ban- khát Bai- rơn... Việc xây dựng qui tắc viết hoa đã được nhiều người lưu tâm, bàn luận từ lâu. Theo Nguyễn Văn Thạc: “Chữ hoa biều thị sự bắt đầu của một câu, có tác dụng phân đoạn về mặt cú pháp. Về mặt này nó thường được kết hợp với các dấu biểu thị sự kết thúc của câu như dấu chấm, dấu hỏi chấm, dấu than, dấu chấm lửng.[25, 45] Khi chữ hoa được dùng để viết những đơn vị không phải tên riêng, danh từ riêng thì nó có tác dụng biểu thị sự tôn kính, trân trọng như Chủ tịch nước CHXHCNVN, Tổng bí thư BCHTWĐ Chữ hoa còn chủ yếu được dùng vào việc phân đoạn các đơn vị từ vựng, các tiếng hoặc các từ, các cụm từ được gọi là tên riêng. Các đơn vị tên riêng ấy cũng rất đa dạng, phức tạp về danh giới, nguồn gốc, cấu tạo, hoạt động chức năng, tạo nên bức tranh nhiều màu, nhiều vẻ về mặt từ vựng học của vấn đề. Cũng có thể nói đến mặt tác dụng thẩm mỹ của chữ hoa như một hình thức mỹ thuật của văn tự, thường được dùng vào việc trang trí, trình bày. Nhưng đó là mặt tác dụng không thuộc về ngôn ngữ học”… [25, 45- 46] “Tên địa lý, (địa danh) do mỗi yếu tố cấu tạo của nó không có ý nghĩa định danh biệt lập. Cho nên cách viết hoa địa danh cũng phải dựa trên qui tắc viết hoa tên người, viết hoa ký hiệu định danh, nghĩa là viết hoa chữ cái đầu không có gạch nối”. [25] *Đối với địa danh hai thành phần thì viết hoa chữ cái đầu của mỗi thành phần .... “thiệt hại to lớn về người và tài sản gây ra bởi trận động đất và sóng thần ngày 26. 12 vừa qua tại nhiều nước Châu Á đặc biệt là ở Xri Lan- ca, In- đô- nê- xi- a.....”. (ND, ngày 28. 12. 2004, tr8) “Hai vụ đánh bom nhằm vào doanh trại của lực lượng đặc nhiệm và bộ nội vụ Arập Xêut tại thủ đô Ri- át....” (ND, ngày 31. 12. 2004, tr8) ... “ngày 14. 2 hàng trăm người I- xra- en đã biểu tình tại Giê- ru- xa- lem, Ga- li- lê, Ten A- víp và khu định cư Gu- sơ Ca- típ....” (ND, ngày 16. 02. 2005,tr8) “Sáng sớm 14. 3, một trận động đất 6,4 độ rích- te xảy ra ở miền trung Niu Di- lân...” So sánh với cách viết địa danh Việt Nam ta sẽ thấy có sự đối lập: Địa danh Việt Nam nếu có bao nhiêu âm tiết thì cũng viết hoa tất cả các chữ đầu âm tiết, còn tên các địa danh nước ngoài được phiên âm dù có bao nhiêu âm tiết thì cũng chỉ viết hoa mỗi chữ đầu của mỗi thành phần. Địa danh Việt Nam Cửa Tùng, Vũng Tàu, Buôn Ma Thuột Địa danh nước ngoài Niu Đêli, Ban- đa Xê- ri- bê- ga- oan - Các âm tiết có phụ âm tắc p, t, k ở cuối (còn gọi là âm tiết khép) theo tập quán trong tiếng Việt vốn có dấu sắc nên trong phiên âm ở đây cũng có dấu sắc. .... “ cuộc đàm phán cấp bí thư đối ngoại giữa Ấn Độ và Pa- ki- xtan dự kiến diễn ra tại thủ đô I- xla- ma- bát...” (ND, ngày 28. 11. 2004, tr8) ..... “I- rắc xem xét khả năng hoãn bầu cử do tình hình bất ổn...” (ND, ngày 26. 12. 2004, tr8) .... “hội nghị và triển lãm nhân “tuần lễ xanh” 2005 diễn ra từ ngày 31. 5 đến 3. 6 tại Brúc- xen....” (ND, ngày 04. 02. 2005, tr8) ... “ngày 6. 2 nhóm tìm kiếm hỗn hợp gồm cảnh sát Áp- ga- ni- xtan và lực lượng An ninh quốc tế (ISF) tại Áp- ga- ni- xtan đã tìm thấy xác chiếc máy bay Bô- inh 3747...” (ND, ngày 07. 02. 2005, tr8) ... “đã có ba nước thành viên EU phê chuẩn bản hiến pháp trên thông qua con đường quốc hội là Hung – ga- ri , Lít- va và Xlô- vê- ni- a...” (ND, ngày 22. 02. 2005, tr8) “Vê- nê- xu- ê- la và Cô- lôm –bi- a thông báo sẽ nối lại tất cả các dự án hợp tác kinh tế và thương mại song phương bị gián đoạn từ cuộc khủng hoảng ngoại giao hồi tháng 1 do Cô- lôm – bi- a bắt giữ một thủ lĩnh quân nổi dậy nước này tại thủ đô Ca- ra- cát” (ND, ngày 22. 02. 2005, tr8) “Tại thủ đô Ma- pu- tô (Mô- dăm- bích), tổng thống đắc cử nước này tuyên thệ nhậm chức....” (ND, ngày 04. 02. 2005, tr8) 1.1.2. Phiên âm gián tiếp Chủ yếu phiên theo tiếng Hán và cách đọc Hán Việt “Ngày 17. 2 tại Hà Nội, ngài Ha- tô- ri, đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam và GS Nguyễn Trọng Nhân, chủ tịch hội Nhãn Khoa Việt Nam cùng ký kết “Dự án nâng cao kỹ thuật điều trị nhãn khoa của Việt Nam...” (ND, ngày 19. 02. 2005, tr8) “Khai mạc hội nghị cấp cao cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp...” (ND, ngày 27. 11. 2004, tr8) “CHDCND Triều Tiên đình chỉ tham gia đàm phán sáu bên” (ND, ngày 11.02.2005, tr8) “ Tranh chấp thương mại giữa Mỹ và EU lại bùng nổ sau khi văn phòng đại diện thượng mại Mỹ thông báo sẽ ban hành thuế trừng phạt” (ND, ngày 30. 12. 2005, tr8) .... “Đại sứ quán Anh ở Y- ê- men vẫn tiếp tục đóng cửa vì lo ngại an ninh không đảm bảo và không rõ khi nào sẽ mở cửa trở lại.” (ND, ngày 09. 01. 2005, tr8) “Trung Quốc chào đón công dân thứ 1,3 tỷ tại Bắc Kinh. Dự kiến số dân nước này sẽ là 1,46 tỉ người vào năm 2030” (ND, ngày 30. 01. 2005, tr8) ... “trường Cô- xít thuộc Bruy- giơ, một địa danh nổi tiếng tại Pla- măng của vương quốc Bỉ, đã tổ chức đêm ẩm thực Việt Nam...” (ND. ngày 29. 01. 2005, tr8) 1.1.3. Dịch nghĩa Cách viết này chiếm số lượng rất ít Ví dụ: B. Đen, B. Đỏ 1.1.4. Chuyển tự Áp dụng cho những ngôn ngữ mà chữ viết không theo dạng Latin, xuất phát từ các bộ chữ Hán (Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên...), Krilich (Nga, Bungari....), Pali Sanscrit (Ấ Độ, Mianma, Thái Lan...) Trong đề tài này, chúng tôi sử dụng Atlas của Anh làm cơ sở để đối chiếu. Như vậy, để có thể nhận dạng được địa danh chuyển tự là rất khó vì bản thân Atlas đã thực hiện một bước chuyển tự cho các ngôn ngữ không phải chữ viết Latin sang cách viết của Anh, một trong những ngôn ngữ sử dụng hệ thống chữ viết Latin. Vì vậy, để có thể xem xét các cụ thể các trường hợp chuyển tự, chúng tôi sẽ căn cứ vào vị trí của các địa danh tương ứng với các hệ ngôn ngữ nhất định. Vấn đề chuyển tự xin phép được trình bày cặn kẽ hơn vào một dịp khác. Như vậy, địa danh nước ngoài trên báo Nhân Dân chủ yếu được xử lý theo cách phiên âm trực tiếp và viết rời có gạch nối. Bên cạnh đó còn có các cách: Dịch nghĩa, phiên âm gián tiếp qua Hán Việt. Tình hình cụ thể như sau: BẢNG 1 STT Các cách viết Tần số xuất hiện (lần) Tổng số địa danh Tû lệ (%) 1 Phiên âm trực tiếp và viết rời có gạch nối 742 797 93,2 2 Phiên âm gián tiếp 52 797 6,3 3 Dịch nghĩa 4 797 0,5 1.2. Báo An ninh thế giới 1.2.1. Sử dụng cách viết nguyên dạng địa danh “ANDERSON HOUSE hay ngôi nhà mèo, cách Meniapolis về phía đông nam 75 dặm, bên bờ sông Mississippi được xây dựng vào năm 1856” (Antg, số 264, ngày 24. 01. 2002, tr32) “Cứ mỗi học kỳ, 56 sinh viên đang theo học khoa quản trị kinh doanh của viện đại học Malibu ở bang California lại được giáo sư James Martinoff đưa đến nhà tù Nellis gần thành phố Las Vegas để thực tập....” (Antg, số 264, ngày 24. 01. 2002 tr32) “Cách đây hai năm, Mc Drisler, 18 tuổi, sống tại Los Angeles, do ngủ gật khi đang lái xe đã đâm vào gốc cây ven đường và bị chấn thương sọ não, hôn mê kéo dài ...” (Antg, số 229, ngày 23. 05. 2001, tr32) “Một nhóm kỹ sư ở trường đại học quốc gia Singapore và các bác sĩ ở bệnh viện Singapore đã tìm ra một loại chất dẻo có thể đắp vá các lỗ thủng trên hộp sọ....” (Antg, số 420, ngày 12. 01.2005, tr32) “Một nhóm các nhà khoa học Autralia đã phát triển một loại máy kiểm tra huyết áp kỹ thuật tự động...” (Antg, số 420, ngày 12. 01. 2005, tr32) ... “các nhân viên của họ không ngờ bị mắc mưu chú bé 15 tuổi ở New York bởi chú là người sưu tập chữ ký chuyên nghiệp” (Antg, số 228, ngày 16. 05. 2001, tr32) ... “chuyện lạ ấy đã xảy đến với một kỹ sư chuyên trách về vấn đề nông trại ở bang Missouri (Mỹ)” (Antg, số 256, ngày 28. 11. 2001, tr32) “Để ngăn ngừa tệ săn bắt động vật hoang dã phát triển tại miền đông Canada..... chính quyền bang Ontario đã triển khai việc đặt các hình thú giả tại nhiều khu rừng” (Antg, số 294, ngày 29. 08. 2002, tr32) ... “cô Mojadad người ở thành phố Mascara, Angerie, có biểu hiện chảy máu ra từ đôi mắt mỗi lần cô khóc...” (Antg, số 294, ngày 29. 08. 2002, tr32) “Từ năm 1931, hiệu kim hoàn của ông Athus- Bertrand ở khu Favorite, thủ đô Paris được xem là chứng nhân quan trọng trong những đời tổng thống Pháp” (Antg, số 263, ngày 01. 07. 2002, tr32) ....“Khi mùa đông đến, nước sông chảy qua thành phố Québec, Canada đóng thành những tảng băng đồ sộ...” (Antg, số 232, ngày 13. 06. 2001. tr32) 1.2.2. Giữ nguyên cách viết những địa danh quen thuộc (phiên âm qua Hán Việt) “Trung tuần tháng 8 vừa qua, cảnh sát Menton của Pháp đã phát hiện xác chết của một người đàn ông khoảng 60 tuổi...” (Antg, số 400, ngày 23. 09. 2004, tr32) “Came là một chú chó đực giống chăn cừu được hai vợ chồng Adrian và Leonie Boehme ở bang New South Wales của Úc nuôi dưỡng từ 10 năm nay....” (Antg, số 259, ngày 20. 12. 2001, tr32) “Các bác sĩ ở viện y học Luân Đôn trong ba năm đã tiến hành một ca phẫu thuật chưa từng có trong lịch sử y học thế giới ...” (Antg, số 261, ngày 03. 01. 2002, tr32) “Trong hồ sơ cảnh sát Mỹ vào các thập niên 40 và 50 còn ghi lại một khuôn mặt tội phạm giả danh “bậc thầy”.. (Antg, số 269, ngày 07. 03. 2002, tr32) “Chiếc xe hơi loại Jaqua XK 120 là tác phẩm của Eric Bowyer, một nhà môi trường học người Anh được bọc toàn bằng cỏ” (Antg, số 303, ngày 31. 10. 2002, tr32) ... “tại hội chợ triển lãm xe hơi quốc tế vừa tổ chức ở Pháp hồi đầu tháng 10- 2004, một hãng chế tạo xe hơi của Thuỵ Sỹ đã giới thiệu kiểu xe có tên gọi Presto....” (Antg, số 249, ngày 10. 10. 2001, tr32) ... “ngân hàng nằm cạnh nhà hát kịch lừng danh Lascala ở Milan (thành phố miền bắc nước Ý...” (Antg, số 262, ngày 10. 01. 2002, tr32) 1.2.3. Dịch nghĩa .. “tại thị trấn Pietermaritzbut của Nam Phi, một người làm dịch vụ lễ tang đã nảy ra sáng kiến làm một chiếc quan tài ngồi” (Antg, số 232, ngày 16. 05. 2001, tr32) Tuy nhiên, cách viết này chiếm sè luîng kh«ng nhiÒu BẢNG 2 STT Các cách viết Tần số xuất hiện (lần) Tổng số địa danh Tỷ lệ (%) 1 Nguyên dạng 405 441 91,8 2 Phiên âm gi¸n tiÕp 34 441 7.7 3 Dịch nghĩa 2 441 0,5 Trong số các cách viết tên riêng ở trên thì viết nguyên dạng địa danh chiếm tỷ lệ lớn nhất. Cách viết này hầu như không gây khó khăn gì cho người đọc, bằng chứng là báo An ninh thế giới có số lượng bán ra nhất nhì Việt Nam. Viết nguyên dạng đảm bảo tính quốc tế, tính thế giới đúng như tên gọi của tờ báo này. Bên cạnh cách viết nguyên dạng còn có viết theo phiên âm và dịch nghĩa và một vài trường hợp phiên âm có dấu thanh điệu, có gạch nối. Những kiểu viết này chỉ xảy ra một hoặc hai lần trong số tư liệu đã khảo sát. Cho nên theo chúng tôi, đây không phải là cách viết đặc trưng của tờ báo này mà là do sơ suất của biên tập viên hoặc do lỗi in ấn. 1.3. Báo Tin tức 1.3.1. Viết theo nguyên dạng “Một làn sóng biểu tình sẽ nổ ra ở khu vực lãnh thổ Palestin...... các cuộc biểu tình sẽ đưa ra đề nghị được an táng ông Arapat ở Jerusalem...” (TT, số 1614, ngày 15. 07. 2004, tr12) ... “họ sẽ đưa ra đề nghị cả gói cho Iran nhằm thuyết phục nước này ngừng mọi hoạt động làm giàu Urani...” (TT, số 1614, ngày 15. 07. 2004, tr12) ... “Ấn Độ đã phóng thành công tên lửa đối không tầm ngắn tại một địa điểm tại bang Orissa” (TT, số 1729, ngày 27.11. 2004, tr12) “Tối 13. 8, đã xảy ra một cuộc thảm sát gần 160 người tị nạn Tutsi gốc Công gô tại Giatumba cách Bujumbura (Burunđi) khoảng 15km...” (TT, số 1641, ngày 16. 08. 2004, tr12) .... “kêu gọi phiến quân hạ vũ khí để kỷ niệm ngày độc lập được canh gác cẩn mật tại thủ phủ mùa hè Srinaga của bang Kashmir thuộc Ấn Độ” (TT, số 1641, ngày 16. 08. 2004, tr12) 1.3.2. Viết liền phiên âm trực tiếp, có dấu sắc ở những âm tiết khép “Đại hội toàn quốc Irắc khai mạc tại thủ đô Bátđa” (TT, số 1641, ngày 16. 08. 2004, tr12) “Một vụ nổ đã xảy ra tại trường dòng ở tỉnh Pakita, Đông Nam Cabun của Ápganixtan...” (TT, số 1654, ngày 31. 03. 2004, tr12) “Bất chấp những phản ứng khá dữ dội từ các đồng minh Mỹ và Ôxtrâylia, chính phủ Philíppin tiếp tục rút quân khỏi I- rắc” (TT, số 1616, ngày 17. 07. 2004, tr12) ... “ba ngân hàng tại thủ đô Buênốt Airét của Áchentina, trong đó có hai chi nhánh của ngân hàng đã bị đánh bom...” (TT, số 1721, ngày 18. 11. 2004, tr12) “Phát biểu tại sân bay ở Vácsava.... thủ tướng Thái Lan Marek Belka cho biết ....” (TT, số 1635, ngày 09. 08. 2004) 1.3.3. Phiên âm gián tiếp qua Hán Việt “Ngoại trưởng Ấn Độ đã tới Ixlamabad để tham dự hội nghị cấp cao hội trưởng các nước khu vực Nam Á...” (TT, số 1618, ngày 20. 07. 2004, tr12) ... “Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đã bắt đầu chuyến thăm chính thức bốn nước...” (TT, số 1715, ngày 11. 11. 2004, tr12) ... “tại Luân Đôn, giá dầu thô Brent Biển Bắc giao tháng 10 giảm 1,03 USD xuống còn 39,61 USD/thùng...” (TT, số 1655, ngày 01. 09. 2004, tr12) ... “đại diện hai nước Nhật Bản và CHDCND Triều Tiên sẽ tiếp tục gặp nhau để tìm hiểu thông tin về 10 công dân Nhật Bản được coi là mất tích ở Triều Tiên” (TT, số 1622, ngày 24. 07. 2004, tr12) “Cầu treo Rio- Antirio ở Hy Lạp sẽ được khánh thành vào ngày 12. 8 tới ” (TT, số 1620, ngày 22. 07. 2004, tr12) “Nga mới đưa ra quyết định về việc có xây dựng một tuyến đường ống dẫn dầu ...” (TT, số 1696, ngày 20. 10. 2004, tr12) 1.3.4. Dịch nghĩa Trong số tất cả các địa danh đã khảo sát được ở báo Tin Tức chỉ có hai địa danh là được dịch nghĩa: Đông Timo và Nam phi Báo Tin tức sử dụng tới bốn cách viết địa danh nước ngoài. Trong đó dịch nghĩa và phiên qua Hán Việt chiếm số lượng không nhiều, còn lại là hai cách viết nguyên dạng, phiên âm trực tiếp chiếm phần chủ yếu với khối lượng địa danh gần như tương đương nhau. BẢNG 3 STT Các cách viết Tần số xuất hiện (lần) Tổng số địa danh Tỷ lệ (%) 1 Nguyên dạng 171 368 46,5 2 Phiên âm trực tiếp 172 368 46,7 3 Phiên âm gián tiếp 23 368 6,3 4 Dịch nghĩa 2 368 0,5 2. Sách giáo khoa Sách giáo khoa là loại văn bản có thể dễ dàng xác định được đối tượng hướng tới. Tuy nhiên, để có thể đưa tới một hệ thống địa danh được thống nhất cho thế hệ trẻ thì những người biên soạn sách giáo khoa còn rất nhiều việc phải làm, sao cho khi các em tiếp xúc với địa danh nước ngoài thì có thể lĩnh hội một cách có hiệu quả và chính xác. Hiện nay, tình hình địa danh trên sách giáo khoa cũng không thống nhất, giống như cục diện chung trên các văn bản. Sau khi xử lý tư liệu (so sánh và đối chiếu) chúng tôi chia sách giáo khoa làm hai mảng. 2.1. Sách giáo khoa Trung học cơ sở a. Sách giáo khoa lớp 7 Sử dụng cách phiên âm và viết rời có gạch nối ( Việt hoá các âm tiết và thêm gạch nối) Ví dụ: B. A- mun- xen Đ. Xu- ma- tơ- ra Đ. Gia- va A- côn- ca- goa Bê- li- xê b. Sách giáo khoa lớp 8 - Phiên âm trực tiếp và viết rời có gạch nối Ví dụ: Nê- đéc- lan S. Mi- xi- xi- pi Ca- na- đa Sao- tham- tơn Gla- gâu - Phiên âm gián tiếp Ví dụ: Vân Nam, S. Dương Tử, Quảng Đông, Quảng Tây, Sơn Đông, Sơn Tây, Tứ Xuyên, Thanh Đảo, Nam Kinh, Mãn Châu, Lữ Thuận, Thẩm Dương..... c. Sách giáo khoa lớp 9 - Phiên âm trực tiếp và viết rời có gạch nối Ví dụ: Lát- vi- a, Hi- rô- si- ma, Ran- gun, Bô- hêm, Kê- ni- a, U- gan- đa, Tan- da- ni- a, Mô- dăm- bich.... - Phiên âm gián tiếp Ví dụ: Mãn Châu, Hồng Công, Đài Loan.... Tóm lại, địa danh nước ngoài xuất hiện trên sách giáo khoa THCS chủ yếu là ở dạng phiên âm trực tiếp có gạch nối (Việt hoá) và phiên âm gián tiếp qua cách đọc Hán Việt ( HánViệt hoá), đồng thời các sách giáo khoa ở bậc học này còn sử dụng một số các địa danh đã được dịch nghĩa. BẢNG 4 STT Các cách viết Tần số xuất hiện Tổng số địa danh (lần) Tỷ lệ (%) 1 Phiên âm trực tiếp và viết rời có gạch nối 307 359 85,5 2 Phiên âm gián tiếp qua cách đọc Hán Việt 44 359 12,3 3 Dịch nghĩa 8 359 2,2 2.2. Sách giáo khoa Phổ thông trung học a. Sách giáo khoa lớp 11 - Phiên âm trực tiếp * Phiên âm và viết rời có gạch nối Ví dụ: O- ran – giơ, Cai- rô, Du- e- ra, S. Dam- be- giơ * Phiên âm và viết liền (có dấu sắc) Ví dụ: Luýchxămbua, Đétroi, Bơminham, cuôcxcơ.., - Dịch nghĩa Ví dụ: B. Đen, B.Trắng - Phiên âm gián tiếp (Hán Việt hoá) Ví dụ: Trùng Khánh, Lan Châu, Hương Cảng... b. Sách giáo khoa lớp 12 - Phiên âm trực tiếp, viết liền và có thêm dấu thanh Ví dụ: Giơnevơ, Phnômpênh, Bátđa, Marốc... - Phiên âm gián tiếp Ví dụ: Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Mỹ, Liên Xô, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Mông Cổ, Ai Cập... - Dịch Nghĩa Ví dụ: B. Đỏ Các sách giáo khoa bậc PTTH có khác so với THCS ở chỗ phiên âm các địa danh nước ngoài và viết liền. BẢNG 5 STT Các cách viết Tần số xuất hiện (lần ) Tổng số địa danh Tỷ lệ (%) 1 Phiên âm trực tiếp và viết liền 342 383 89,5 2 Phiên âm gián tiếp 33 383 8,7 3 Dịch nghĩa 7 383 1,8 3. Bản đồ Xét về mặt mô hình hoá, bản đồ là một dạng mô hình đồ hoạ tốt nhất thay thế cho lãnh thổ, giúp nghiên cứu nó như nghiên cứu trên chính thực địa. “Bản đồ là hình thức phản ánh, là công cụ đồ hoạ ghi nhận vị trí không gian và quan hệ của các đối tượng hiện thực. Bản đồ là kết quả của nhận thức và đồng thời là nguồn để nhận thức. Mặt khác, địa danh là yếu tố nội dung của bất kỳ loại bản đồ nào. Vì thế, yêu cầu cách viết địa danh phải chính xác, đúng thực tế khách quan để có thể cung cấp cho xã hội lượng kiến thức chuẩn xác, đồng thời định hướng cách xử lý địa danh đối với các văn bản tiếng Việt khác. Cách viết địa danh trên các bản đồ vì thế là vấn đề được lưu tâm từ trước tới nay. Tuy nhiên, trên thực tế cách viết địa danh trên các bản đồ vẫn chưa thống nhất, chưa khoa học và chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội. 3.1. Bản đồ Quân sự a. Phiên âm và viết liền - Viết hoa tất cả các con chữ ở các địa danh quốc gia, thủ đô và các thành phố lớn. Ví dụ: ANGÔLA, CABUN, CANAĐA, CAIRÔ, CÔXTARICA, CATMANĐU, CUALA LUMPUA... - Dấu thanh xuất hiện ở những âm tiết khép Ví dụ: AMAĐABÁT, ÁCHENTINA, BUỐCKINAPHAXO, BÉCNÔ Tuy nhiên, việc sử dụng dấu sắc ở những âm tiết khép cũng không ổn định. Ví dụ: BUCARET, BÂYRUT, CARACAT, CATMANĐU b. Phiên âm gián tiếp ( Hán Việt hoá) Ví dụ: ÁO, BÌNH NHƯỠNG, CÁP NHĨ TÂN, HỒNG CÔNG, LUÂN ĐÔN, NAM KINH.... Dịch nghĩa: Ví dụ: Đông Timo, Nam Phi, Trung Phi... Tuy nhiên, các thèng kª trªn ®©yt chưa thể bao quát được một cách tuyệt đối tình hình. Bëi v×, ë b¶n ®å qu©n sù vÉn cã nh÷ng tr­êng hîp ®Þa danh ®­îc phiªn ©m trùc tiÕp vµ viÕt rêi: VÝ dô: AC M£ NI A Ban kha s¬ B¤ G¤ TA BèT XOA NA BU §A PET Ca r« li na CAN CóT TA…. BẢNG 6 STT Các cách viết Tần số xuất hiện Tổng số địa danh Tỷ lệ (%) 1 Phiên âm trực tiếp 387 430 90 2 Phiên âm gián tiếp 40 430 9,3 3 Dịch nghĩa 3 430 0,7 3.2. Bản đồ dân sự a. Phiên âm trực tiếp và viết rời không gạch nối, có dấu thanh Ví dụ: ÁP GA NI XTAN, A MA ĐA BÁT, ÁC HEN TI NA, AI XƠ LEN, Am xtéc đam... b. Phiên âm gián tiếp qua cách đọc Hán Việt Ví dụ: AI CẬP, ÁO, ẤN ĐỘ... BẢNG 7 STT Các cách viết Tần số xuất hiện (lần) Tổng số địa danh Tỷ lệ (%) 1 Phiên âm trực tiếp và viết rời không gạch nối 356 322 90,4 2 Phiên âm gián tiếp 356 31 8,7 3 Dịch nghĩa 356 3 0,9 Như vậy, cả hai bản đồ quân sự và dân sự đều chủ trương phiên âm các địa danh, giữ nguyên cách viết với

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNN20 (19).doc
Tài liệu liên quan