Đề tài Các biện pháp để sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong các doanh nghiệp nhà nước

 

Mục Lục

A.Lời mở đầu

B. Nội dung

I. Lý luận về tuần hoàn và chu chuyển tư bản

1.Tuần hoàn tư bản.

1.1. Định nghĩa

1.2. Ba giai đoạn của tuần hoàn tư bản.

1.3. Các hình thái của tuần hoàn tư bản.

1.4. Kết luận chung về tuần hoàn tư bản.

2. Chu chuyển tư bản.

2.1-Định nghĩa

2.2-Các vấn đề của chu chuyển tư bản.

2.2.1- Thời gian chu chuyển.

2.2.2- Tốc độ chu chuyển tư bản.

2.3- Tư bản cố định và tư bản lưu động.

2.3.1. Tư bản cố định

2.3.2-Tư bản lưu động.

2.4- Hao mòn của tư bản cố định.

2.4.1- Hao mòn hữu hình.

2.4.2- Hao mòn vô hình.

 2.5- Chu chuyển chung và chu chuyển thực tế của tư bản ứng trước.

2.5.1- Chu chuyển chung.

2.5.2- Chu chuyển thực tế

3- Biện pháp đẩy nhanh tốc độ chu chuyển của tư bản.

3.1- Tác dụng nâng cao tốc độ chu chuyển tư bản.

3.2- Biện pháp nâng cao tốc độ chu chuyển tư bản

 II. Các biện pháp để sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong các doanh nghiệp nhà nước.

1. Giải pháp cho vốn cố định.

1.1-Định nghĩa và phân loại TSCĐ

1.2- Giải pháp cho vốn cố định.

1.2.1- Hao mòn và khấu hao TSCĐ

1.2.2- Trích khấu hao TSCĐ

1.2.3. Quản lý số khấu hao lũy kế của TSCĐ

1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn, tài sản trong doanh nghiệp.

2.5- Thực trạng ở các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam hiện nay và phương hướng giải quyết.

2. Giải pháp cho vốn lưu động.

2.1- Định nghĩa và phân loại vốn lưu động.

2.1.1- Định nghĩa

2.1.2- Phân loại

2.2- Giải pháp cho vốn lưu động.

2.3- Thực trạng Việt Nam hiện nay và phương hướng giải quyết.

III- Kết luận.

 

 

doc30 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1742 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các biện pháp để sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong các doanh nghiệp nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tháng), ta có công thức tính tốc độ chu chuyển tư bản là: N= CH / ch Từ công thức trên cho thấy tốc độ chu chuyển tư bản vận động theo tỉ lệ nghịch với thời gian chu chuyển tư bản. Thời gian của một vòng chu chuyển tư bản càng ngắn thì tốc độ chu chuyển tư bản càng nhanh và ngược lại. Thí dụ 1: Một tư bản có thời gian chu chuyển là 90 ngày/vòng, theo công thức trên ta có số vòng chu chuyển trong năm của tư bản đó là: N = 360 ngày/90 ngày = 4 vòng/ năm 2.3. Tư bản cố định và tư bản lưu động. Tư bản sản xuất gồm nhiều bộ phận và có thời gian chu chuyển khác nhau về mặt giá trị, do đó ảnh hưởng đến thời gian chu chuyển của toàn bộ tư bản. Không phải cứ vào đặc tính tự nhiên ( lâu bền hay không lâu bền; chuyển động hay không chuyển động), mà căn cứ vào sự khác nhau trong phương thức ( đặc điểm) chu chuyển về mặt giá trị nhanh hay chậm của các bộ phận tư bản để phân chia tư bản sản xuất thành tư bản cố định và tư bản lưu động. 2.3.1. Tư bản cố định Định nghĩa: Tư bản cố định là bộ phận tư bản biểu hiện dưới hình thái giá trị của những máy móc, thiết bị, nhà xưởng…, tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó không chuyển hết một lần, mà chuyển từng phần vào sản phẩm trong quá trình sản xuất. Đặc điểm của tư bản cố định là về hiện vật, nó luôn luôn cố định trong quá trình sản xuất, chỉ có giá tri của nó là tham gia vào quá trình lưu thông cùng sản phẩm, hơn nữa nó cũng chỉ lưu thông từng phần, còn một phần vẫn bị cố định trong tư liệu lao động, phần này không ngừng giảm xuống cho tới khi nó chuyển hết giá trị vào sản phẩm. Chính đặc điểm của loại tư bản này đã làm cho thời gian mà tư bản cố định chuyển hết giá trị của nó vào sản phẩm bao giờ cũng dài hơn một vòng tuần hoàn. 2.3.2. Tư bản lưu động Định nghĩa: Bộ phận tư bản được hoàn lại hoàn toàn cho nhà tư bản sau khi hàng hóa sản xuất ra được bán xong dưới hình thức tiền tệ. Nó được biểu hiện dưới hình thái nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ…, giá trị của nó được chuyển toàn bộ vào giá trị hàng hóa trong quá trình sản xuất. Còn bộ phận tư bản biểu hiện dưới hình thái tiền công, đã bị người công nhân tiêu dùng và được tái tạo trong quá trình sản xuất hàng hóa. Đặc điểm của loại tư bản này là chu chuyển nhanh về mặt giá trị. Nếu tư bản cố định muốn chu chuyển hết giá trị của nó phảI mất nhiều năm, thì tráI lại tư bản lưu động trong một năm giá trị của nó có thể chu chuyển nhiều lần hay nhiều vòng. 2.4. Hao mòn của tư bản cố định. 2.4.1. Hao mòn hữu hình. Định nghĩa: Hao mòn hữu hình là hao mòn do sử dụng hoặc do bị phá hủy của tự nhiên gây ra làm cho những bộ phận tư bản đó dần hao mòn đi đến chỗ hỏng, không dùng được nữa. 2.4.2. Hao mòn vô hình. Định nghĩa: Hao mòn vô hình là hao mòn do ảnh hưởng của tiến bộ khoa học, công nghệ. Hao mòn vô hình làm cho máy móc tuy còn tốt, nhưng bị mất giá trị vì có những máy móc tốt hơn, tối tân hơn xuất hiện. 2.5. Chu chuyển chung và chu chuyển thực tế của tư bản ứng trước. 2.5.1. Chu chuyển chung Định nghĩa: Là con số chu chuyển trung bình của những thành phần khác nhau của tư bản ( cố định và lưu động ).chu chuyển chung nhanh hay chậm phụ thuộc vào tốc độ chu chuyển của hai bộ phận tư bản nói trên. Chu chuyển chung có liên quan chặt chẽ vào tổng tư bản ứng trước. Tốc độ chu chuyển chung của tổng tư bản ứng trước được tính bằng giá trị chu chuyển trung bình của tư bản cố định và giá trị chu chuyển trung bình của tư bản lưu động trong năm chia cho giá trị của tổng tư bản ứng trước. Nếu gọi T là tốc độ chu chuyển chung của tổng tư bản ứng trước; gọi G cđ là giá trị chu chuyển trung bình của tư bản cố định trong năm; gọi G lđ là giá trị chu chuyển trung bình của tư bản cố định trong năm và gọi K là tổng tư bản ứng trước, ta có công thức tính sau đây: T= (Gcđ + Glđ)/K Trong đó: Gcđ = Giá trị tư bản cố định / Số năm sử dụng. Glđ = Giá trị tư bản lưu động . Số vòng ( lần) chu chuyển của nó trong năm. Ví dụ: Một xí nghiệp tư bản có tư bản ứng trước là 100.000$. Trong đó, tư bản cố định là 80.000$ được sử dụng trong 5 năm và tư bản lưu động là 20.000$, cứ 2 tháng chu chuyển một vòng, hay chu chuyển 6 vòng trong một năm. Theo công thức trên ta có: Gcđ = 80.000$/5 năm=16.000$ Glđ = 20.000$ .6 vòng = 120.000$ Vậy T = (16.000 + 120.000 )/100.000 = 1,36 vòng/năm Ví dụ trên cho thấy tốc độ chu chuyển chung của tư bản ứng trước tỷ lệ thuận với tổng giá trị chu chuyển trung bình của tư bản cố định và tư bản lưu động, tỷ lệ nghịch với tổng tư bản ứng trước. 2.5.2. Chu chuyển thực tế Định nghĩa: chu chuyển thực tế là thời gian để tất cả các bộ phận của tư bản ứng trước được khôi phục toàn bộ về mặt giá trị cũng như về mặt hiện vật. Chu chuyển thực tế nhanh hay chậm phụ thuộc vào thời gian để giá trị tư bản cố định được khôi phục hoàn toàn, hay được chuyển hết giá trị vào giá trị của sản phẩm mới. Theo ví dụ trên, thì tốc độ chu chuyển thực tế của toàn bộ tư bản ứng trước 1 vòng là 5 năm. Chu chuyển thực tế của tư bản ứng trước không ăn khớp với chu chuyển chung của nó. Do ảnh hưởng của hao mòn vô hình nên chu chuyển thực tế có thể rút ngắn lại. 3. Các biện pháp để đẩy nhanh tốc độ chu chuyển của tư bản. 3.1. Tác dụng nâng cao tốc độ chu chuyển tư bản: Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản hay rút ngắn thời gian chu chuyển tư bản có tác dụng to lớn đối với việc nâng cao hiệu quả hoạt động của tư bản. Trước hết, nâng cao tốc độ chu chuyển tư bản cố định sẽ tiết kiệm được chi phí bảo quản, sửa chữa tài sản cố định; giảm được hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình, cho phép đổi mới nhanh máy móc, thiết bị; có thể sử dụng quỹ khấu hao làm quỹ dự trữ sản xuất để mở rộng sản xuất mà không cần có tư bản phụ thêm. Hiện nay, trong nhiều trường hợp, máy móc, thiết bị ở các nước tư bản phát triển đã khấu hao hết giá trị, nhưng vẫn được bán cho nước ngoài dưới các hình thức liên doanh, chuyển giao công nghệ cho các nước kém hoặc đang phát triển. Thứ hai, nâng cao tốc độ chu chuyển tư bản lưu động sẽ cho phép tiết kiệm tư bản ứng trước khi quy mô sản xuất như cũ hay có thể mở rộng sản xuất mà không cần có tư bản phụ thêm. VD: Một nhà tư bản có thời gian chu chuyển là 2 tháng. Quy mô sản xuất đòi hỏi một lượng tư bản cho 2 tháng là 2.500$/ tháng x 2 tháng = 5.000$. Nếu do nguyên nhân nào đó, thời gian chu chuyển tư bản rút ngắn lại còn 1,5 tháng, với quy mô sản xuất không đổi, thì lượng tư bản ứng trước sẽ là: 2.500$ x 1,5 tháng = 3.750$, tiết kiệm được 1.250$. Thông thường khi mới bắt đầu kinh doanh, thực lực kinh tế còn yếu, tư bản thường đầu tư vào những ngành có thời gian chu chuyển ngắn như: công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm,… Chỉ khi đã trưởng thành, có vốn lớn thì tư bản mới đầu tư vào những ngành có chu kỳ doanh dài như: công nghiệp nặng. Còn việc xây dựng các ngành kết cấu hạ tầng thường là lĩnh vực đầu tư của nhà nước. Thứ ba, đối với tư bản khả biến, việc nâng cao tốc độ chu chuyển tư bản có ảnh hưởng trực tiếp đến việc làm tăng thêm tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư hàng năm. VD: Có 2 nhà tư bản A và B, đều có tư bản khả biến cho một tuần hoàn sản xuất là 100, đều có m’ = 100%, chỉ khác nhau về thời gian chu chuyển. Chẳng hạn tư bản A là 5 tuần ( ngành dệt), còn tư bản B là 50 tuần ( ngành đóng tàu). Để sản xuất liên tục, tư bản A cần một lượng tư bản khả biến ứng trước là 100 x 5 = 500 và sau 50 tuần ( một năm ) tạo ra giá trị thặng dư là: 100 x 50 = 5000 ( hay 500 x 10 vòng = 5000 ); nhưng luôn luôn chỉ cần một tư bản khả biến ứng trước là 500; còn tư bản B, sau 50 tuần ( một năm ) cũng tạo ra giá trị thặng dư là 500 x 100 = 5000, nhưng lại cần một tư bản khả biến ứng trước là 5000. Ta gọi tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm ( M’) là tỷ lệ tính bằng phần trăm giữa khối lượng giá trị thặng dư hàng năm (M’) với tư bản khả biến ứng trước (V). M’= M x 100% Trong đó: m là giá trị thặng dư tạo ra trong 1 vòng chu chuyển; (m/v) = m’ là tỷ suất giá trị thặng dư thực tế; n là số vòng chu chuyển trong năm. Như vây, tư bản A có tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm là: Còn tư bản B có tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm là: Vậy, dù có tỷ suất giá trị thặng dư ( m’) phản ánh trình độ bóc lột ở hai tư bản A và B là như nhau, nhưng tốc độ chu chuyển của tư bản khả biến khác nhau, nên tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm ( M’) là khác nhau (phản ánh hiệu quả hoạt động của hai tư bản đó). Song điều đó cũng gây ra ảo tưởng cho rằng lưu thông cũng tạo ra giá trị thặng dư. Thực tế không phải như vậy, sở dĩ chu chuyển tư bản nhanh có thể đem lại cho nhà tư bản nhiều thặng dư hơn, vì đã thu hút được nhiều lao động sống hơn, nhờ đó mà tạo ra nhiều giá trị mới trong đó có giá trị thặng dư. 3.2. Biện pháp nâng cao tốc độ chu chuyển tư bản: Từ công thức tốc độ chu chuyển tư bản cho thấy thời gian chu chuyển tư bản phụ thuộc vào độ dài hay ngắn của thời gian sản xuất và thời gian lưu thông. Nói cách khác, phụ thuộc vào những biên pháp phát huy các nhân tố thuận lợi và hạn chế nhân tố không thuận lợi ảnh hưởng đến thời gian sản xuất và thời gian lưu thông của một vòng chu chuyển tư bản. Thời gian sản xuất dài, ngắn ngoài sự phụ thuộc vào đặc điểm của từng ngành sản xuất khác nhau, còn phụ thuộc vào trình độ tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ và sự ứng dụng vào quá trình sản xuất, phụ thuộc vào trình độ tổ chức phân công lao động và trình độ dịch vụ các yếu tố gắn với đầu vào của sản xuất. Những tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và của nền kinh tế thị trường hiện đại cho phép sử dụng những thành tựu kỹ thuật và công nghệ sản xuất mới, cho phép tổ chức sản xuất và dịch vụ sản xuất một cách khoa học…, từ đó đã rút ngắn đáng kể thời kỳ gián đoạn lao động, thời kỳ dự trữ sản xuất, để tăng thời kỳ lao động và do đó làm tăng hiệu quả hoạt động của tư bản. Trong mấy thập niên gần đây ở các nước tư bản, thời gian lưu thông vừa có xu hướng rút ngắn lại, vừa có xu hướng dài ra. Đó là vì: một mặt, do tiến bộ kỹ thuật và nghệ thuật kinh doanh cho phép rút ngắn thời gian lưu thông như phát triển giao thông vận tải, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ thấp chi phí sản xuất, đẩy mạnh hoạt động quảng cáo, tiếp thị, tổ chức dịch vụ bảo dưỡng sửa chữa… Mặt khác, do quy mô sản xuất ngày càng lớn, phải vươn đến những thị trường ngày càng xa, hoạt động đầu cơ, những khủng hoảng về tiêu thụ sản phẩm… làm cho quy mô tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông ngày càng lớn, nên thời gian lưu thông ngày càng dài. Thêm vào đó, sự tập trung sản xuất bên cạnh những mặt mạnh của nó cũng tồn tại những điều bất lợi. Sự tích tụ tư bản cố định càng lớn thì sự quản lý, sử dụng càng khó khăn, dẫn đến tốc độ chu chuyển có thể chậm hơn dự kiến.Trong điều kiện kinh tế hiện nay, các doanh nghiệp, không chỉ doanh nghiệp nhà nước đều có xu hướng mở rộng quy mô sản xuất bằng cách tích lũy tư bản dưới mọi hình thức và liên tục đầu tư mở rộng sản xuất. Xu hướng thành lập công ty lớn với mô hình tổng công ty, công ty cổ phần, công ty liên doanh liên kết, hợp tác nước ngoài ngày càng thịnh hành. Khi Việt Nam thực hiện mô hình này không có nghĩa đó là sự dập khuôn sao chép mà đó là tính tất yếu nếu muốn tồn tại và phát triển nền kinh tế thị trường. Nhưng với trình độ quản lý yếu kém do còn quá non trẻ của các doanh nghiệp Việt Nam, thì việc xoay vòng hiệu quả một lượng vốn đầu tư lớn là không dễ dàng. Trong khi vốn tài sản cố định ngày càng tăng lên, thì phải đồng thời nâng cao chất lượng bộ máy quản lý, nâng cao chất lượng hoạt động của các bộ phận có liên quan. Tạo sự linh động trong quản lý và sử dụng chính là biện pháp tích cực để nâng cao tốc độ chu chuyển tư bản. Thực tế, vấn đề không chỉ nằm trong bộ phận quản lý và sử dụng, mà còn do sự phân phối thiếu lô gic, sự bố trí không hợp lý. Đã có nhiều trường hợp nhà nước bỏ vốn đầu tư xây dựng nhà máy ở nơi thiếu nguồn nguyên liệu, hoặc nguồn nguyên liệu không đảm bảo tính lâu dài cho sự hoạt động của nhà máy( xuống cấp nguyên liệu, trữ lượng ít hơn công suất thực, nguyên liệu khó khai thác hơn khả năng hiện có…) dẫn đến phải ngừng lại vô thời hạn việc sản xuất, sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được do không thể cạnh tranh với các sản phẩm tương tự trên thị trường về giá cả…Trong khi đó, nhiều nơi khác có điều kiện tốt hơn để đầu tư sản xuất thì lại không được đầu tư. Nguyên vật liệu và hàng hóa bị di chuyển loanh quanh tìm nơi chế biến, tìm nơi sản xuất và tiêu thụ, rất tốn kém và mất thời gian. Chính vì vậy, trước khi ra quyết định đầu tư sản xuất, cần tìm hiểu chi tiết về mục đích đầu tư, địa điểm sản xuất, thị trường tiêu thụ, bố trí sản xuất, phân công sản xuất sao cho hợp lý và phục vụ cho mục tiêu lâu dàI của công việc. Đó cũng chính là một cách để nâng cao hiệu quả của đồng vốn, nâng cao tốc độ chu chuyển của tư bản tạo hiệu quả cho kinh doanh. Thêm vào đó, cần tối giản các khâu trung gian giữa việc bán hàng từ tay nhà sản xuất đến tay người tiêu dùng. Thông thường sản xuất có ba khâu, đó là: Từ nhà sản xuất đến nơi bán buôn, từ nơi bán buôn đến nơi bán lẻ, sau đó mới đến tay người tiêu dùng. Rút ngắn thời gian lưu thông không có nghĩa là phải bỏ bớt khâu nào, mà cần hạn chế việc mua đi bán lại giữa các đại lý bán buôn, bán lẻ làm tăng thời gian dự trữ hàng hóa, ảnh hưởng đến tốc độ chu chuyển. Cần hạn chế tối đa việc ứ đọng hàng hóa, đặc biệt là hành vi đầu cơ tích trữ. Việt Nam cần triển khai các biện pháp đẩy nhanh tiêu dùng nhằm liên tục quay vòng vốn. Điều này trong kinh tế học được gọi là kích cầu, một mục tiêu quan trọng của các doanh nghiệp. Tóm lai, do chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, nên thời gian chu chuyển của các tư bản diễn ra khác nhau. Để nâng cao hiệu quả sử dụng tư bản, các nhà tư bản thường tìm mọi biện pháp khai thác mặt thuận lợi và hạn chế mặt không thuận lợi của những nhân tố nói trên để nâng cao tốc độ chu chuyển tư bản nhằm tăng cường bóc lột ngày càng nhiều giá trị thặng dư đối với giai cấp công nhân. III. Các biện pháp để sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong các doanh nghiệp nhà nước: Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất (sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước). Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu nhà nước có thể đưa vào vòng chu chuyển kinh tế. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Các doanh nghiệp nhà nước, bộ phận quan trọng nhất của kinh tế, giữ những vị trí then chốt, phải đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế- xã hội và chấp hành pháp luật. Để làm được như vậy, thì trước hết việc sử dụng vốn phải hiệu quả, giảm thiểu tối đa tình trạng lãng phí vốn ngân sách. Cần phảI nhanh chóng sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp hiện có, đồng thời phát triển thêm doanh nghiệp nhà nước đầu tư 100% vốn hoặc có cổ phần chi phối ở một nghành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước được thực hiện theo những hướng sau: Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế, khẩn trương cải thiện tình hình tàI chính và lao động của các doanh nghiệp nhà nước, củng cố và hiện đại hóa một bước các tổng công ty nhà nước. Thực hiên tốt chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu đối với những doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ 100%. Giao, bán, khoán, cho thuê… các doanh nghiệp loại nhỏ mà nhà nước không cần nắm giữ. Sát nhập, giải thể, cho phá sản những doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả và không thực hiện được các biện pháp trên. Về mặt quản lý kinh tế, nhà nước phải phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp. Thực hiện chế độ quản lý công ty đối với các doanh nghiệp kinh doanh dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu là nhà nước và công ty cổ phần có vốn nhà nước, giao cho Hội đồng quản trị doanh nghiệp quyền đại diện trực tiếp chủ sở hữu gắn với quyền tự chủ trong kinh doanh. Cũng cần quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm cảu các cơ quan quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp. Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả theo hướng xóa bỏ triệt để bao cấp, doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất, kinh doanh, nộp đủ thuế và có lãi. Thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp, có cơ chế phù hợp về kiểm tra, thanh tra, kiểm soát của nhà nước với doanh nghiệp. Trên đây là các giải pháp chung, và dưới đây là diễn giải cụ thể của các giải pháp đó: Các giải pháp cho vốn cố định ( tài sản cố định) 1.1-Định nghĩa và phân loại tài sản cố định : Căn cứ vào tính chất và vai trò tham gia vào quá trình sản xuất, tư liệu sản xuất của doanh nghiệp được chia thành hai bộ phận là tư liệu lao động và đối tượng lao động. Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu mà nó có đặc điểm cơ bản là: Tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất đầu tiên cho đến khi bị sa thải khỏi quá trình sản xuất. Mọi tư liệu lao động là từng tài sản hữu hình có kết cấu độc lập, hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ liên kết với nhau để cùng thực hiện một hay một số chức năng nhất định mà nếu thiếu bất kỳ một bộ phận nào trong đó thì cả hệ thống không thể hoạt động được. Những tư liệu lao động được coi là tài sản cố định khi đồng thời thỏa mãn hai tiêu chuẩn sau: Tiêu chuẩn về thời gian: Có thời gian sử dụng từ một năm trở lên Tiêu chuẩn giá trị: ở nước ta hiện nay, tài sản có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên. Trường hợp một hệ thống gồm nhiều bộ phận thiết bị riêng lẻ liên kết với nhau, trong đó mỗi bộ phận cấu thành có thời gian sử dụng khác nhau và nếu thiếu một bộ phận nào đó thì cả hệ thống vẫn thực hiện được chức năng hoạt động của nó, nhưng do yêu cầu quản lý, sử dụng tài sản cố định đòi hỏi phải quản lý riêng từng bộ phận thì mỗi bộ phận thiết bị nói trên, được coi là một tài sản cố định hữu hình độc lập. Ví dụ như khung và động cơ trong một máy bay Những súc vật làm việc hoặc cho sản phẩm thì từng con được coi là tài sản cố định, từng mảnh vườn cây lâu năm cũng được coi là tài sản cố định. Trong điều kiện tiến bộ khoa học kĩ thuật như hiện nay, khi mà khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì khái niệm về tài sản cố định cũng được mở rộng nó bao gồm cả những tài sản cố định không có hình thái vật chất. Loại này là những chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra cũng đồng thời thỏa mãn hai tiêu chuẩn nêu trên và thường bao gồm: Chi phí thành lập doanh nghiệp. Chi phí về bằng phát minh sáng chế Chi phí về lợi thế kinh doanh… Khi nền kinh tế càng phát triển, tỉ trọng của những tài sản cố định vô hình ngày càng lớn. Phân loại tài sản cố định Để quản lý tốt tài sản cố định trong doanh nghiệp, tài sản cố định thông thường được phân thành các loại sau: Tài sản cố định phục vụ cho lợi ích kinh doanh: Đây là những tài sản cố định do doanh nghiệp sử dụng cho các mục đích kinh doanh kiếm lời. Loại này bao gồm: Tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình Tài sản cố định dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh, quốc phòng. Loại này trong đề án chúng ta không quan tâm tới. 1.2-Giải pháp cho vốn cố định: Lập quỹ khấu hao TSCĐ và quản lý quỹ khấu hao: 1.2.1-Hao mòn và khấu hao tài sản cố định: Trong quá trình sử dụng tài sản cố định bị hao mòn dần, đó là sự giảm dần về giá trị của tài sản cố định. Như phần trước đã trình bày, hao mòn có hai loại là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Hao mòn hữu hình là loại hao mòn do doanh nghiệp sử dụng và do môi trường. Loại hao mòn này sẽ càng lớn nếu doanh nghiệp sử dụng càng nhiều hoặc ở trong môi trường có sự ăn mòn hóa học hay điện hóa học. Hao mòn vô hình là loại hao mòn xảy ra do tiến bộ kỹ thuật, làm cho tài sản cố định bị giảm giá hoặc bị lỗi thời. Do tài sản cố định bị hao mòn nên trong mỗi chu kỳ sản xuất ngưòi ta tính chuyển một lượng giá trị tương đương với phần hao mòn vào giá thành sản phẩm, khi sản phẩm được tiêu thụ bộ phận tiền này được trích lại thành một quỹ nhằm để tái sản xuất TSCĐ, công việc đó gọi là khấu hao tài sản cố định. Như vậy, đối với nhà quản lý tài chính cần phải xem xét tính toán mức khấu hao sao cho phù hợp với thực trạng kinh doanh của doanh nghiệp. 1.2.2-Trích khấu hao tài sản cố định Khi xác định mức trích khấu hao tài sản cố định, nhà quản lý cần xem xét các yếu tố sau: -Tình hình tiêu thụ sản phẩm do tài sản cố định đó chế tạo ra trên thị trường. -Hao mòn vô hình của tài sản cố định -Nguồn vốn đầu tư cho tài sản cố định -ảnh hưởng của thuế đối với việc trích khấu hao. -Quy định của Nhà nước trong việc trích khấu hao tài sản cố định. Phương pháp trích khấu hao thông thường được sử dụng ở các doanh nghiệp là phương pháp khấu hao bình quân theo thời gian. 1.2.3-Quản lý số khấu hao lũy kế của tài sản cố định. Thông thường các doanh nghiệp sử dụng toàn bộ số khấu hao lũy kế của TSCĐ để tái đầu tư, thay thế, đổi mới TSCĐ. Tuy nhiên, khi chưa có nhu cầu tái tạo lại TSCĐ, doanh nghiệp có quyền sử dụng linh hoạt số khấu hao lũy kế phục vụ cho yêu cầu kinh doanh của mình. Trong các tổng công ty Nhà nước, việc huy động số khấu hao lũy kế của TSCĐ của các đơn vị thành viên phải tuân theo đúng các quy định về chế độ quản lý tài chính hiện hành của nhà nước. Quản lý quá trình mua sắm, sửa chưa, nhượng bán và thanh lý TSCĐ được thực hiện thông qua nghiên cứu dự án đầu tư của doanh nghiệp. 1.2.4- Các nhân tố ảnh hưởng đến Hiệu quả sử dụng vốn, tài sản trong doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn, tài sản trong các doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ, năng lực khai thác và sử dụng vốn tài sản của doanh nghiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp nhà nước cũng như các doanh nghiệp khác, đều cần sử dụng nguồn vốn hiệu quả nhằm tối đa hóa lợi nhuận và tối thiểu hóa chi phí. Hiệu quả sử dụng vốn, tài sản cố định. * Hiệu suất sử dụng tài sản cố định. Chỉ tiêu này cho biết một đơn vị TSCĐ trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đơn vị doanh thu, chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu suất sử dụng TSCĐ càng cao. Hiệu suất sử dụng = Doanh thu trong kỳ TSCĐ trong kỳ TSCĐ sử dụng bình quân trong 1 kỳ Nhìn vào công thức trên có thể thấy, để tăng hiệu suất sử dụng TSCĐ trong kỳ có thể tăng doanh thu hoặc giảm lượng giá trị TSCĐ sử dụng bình quân trong kỳ ( hay tăng tốc độ chu chuyển của TSCĐ) Tương tự như vây, hiệu suất sử dụng vốn cố định cũng là một chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định. Để tăng hiệu suất này có thể tăng doanh thu trong kỳ hoặc giảm vốn cố định bình quân trong một kỳ. *Hàm lượng vốn, tài sản cố định; Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra một đơn vị doanh thu cần sử dụng bao nhiêu đơn vị vốn, tài sản cố định. Chỉ tiêu này càng nhỏ chứng tỏ hiệu suất sử dụng vốn, tài sản cố định càng cao. Hàm lượng vốn, tài sản cố định = Vốn (hoặc TSCĐ) sử dụng bình quân trong kỳ / Doanh thu thuần trong kỳ. Dựa vào chỉ tiêu này, hiệu suất sử dụng vốn cố định tỉ lệ nghịch với lượng vốn hoặc tài sản cố định sử dụng bình quân trong kỳ và tỉ lệ thuận với doanh thu thuần trong kỳ, do đó các doanh nghiệp nhà nước cần có các biện pháp làm tăng doanh thu và đẩy nhanh tốc độ chu chuyển tư bản. 1.2.5.Thực trạng ở các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam hiện nay và phương hướng giải quyết. Thời gian gần đây, nước ta đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế hàng hóa. Mô hình kinh tế của Việt Nam được xác định là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trong đó thành phần kinh tế nhà nước chiếm vai trò quan trọng. Do mới có sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế nên sự tổ chức và thực hiện của chúng ta còn nhiều sai lầm, thiếu sót. Đặc biệt, Việt Nam vốn rất yếu trong khâu phân công sản xuất và quản lý. Các doanh nghiệp nhà nước cũng không tránh khỏi được tình trạng chung này. Một số vấn đề không thể không nhắc tới, đó là: 1-Việc sử dụng vốn trong các doanh nghiệp nhà nước nhìn chung còn chưa hiệu quả. - Nguyên nhân 1-Dây chuyền sản xuất máy móc cũ kỹ, lạc hậu. Sản phẩm sản xuất ra kém chất lượng, chi phí cao, giá thành cao, do đó không có khả năng cạnh tranh với hàng ngoại nhập giá rẻ hơn. Thị trường trong nước bị hàng Trung Quốc chiếm hữu là điều tất yếu. Do là doanh nghiệp nhà nước, sử dụng vốn đầu tư nhà nước nên không thể thường xuyên có sự thay đổi máy móc thiết bị. Máy móc thường bị sử dụng đến khi không thể sử dụng được, sau đó là nhiều thủ tục để xin đầu tư thiết bị mới. Giải pháp: doanh nghiệp nhà nước nên đi đầu trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất kinh doanh. Do việc chuyển giao công nghệ ở các doanh nghiệp nhà nước là dễ dàng hơn so với các doanh nghiệp khác, vì vậy, nên khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước nghiên cứu, phát minh hoặc mua công nghệ từ nước ngoài. Quỹ khấu hao cần lập liên tục để có đủ khả năng thay thế thiết bị cũ, hỏng và tái đầu tư. 2- Chúng ta còn có thói quen mua thiết bị ngoại nhập mà không chú trọng việc tự nghiên cứu, tự sản xuất. Nhiều thiết

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21101.doc
Tài liệu liên quan