Đề tài Các giải pháp huy động vốn cho đầu tư - phát triển nền kinh tế

Tên đề mục Trang

LỜI MỞ ĐẦU 1

NỘI DUNG 2

I. CÁC NGUỒN HUY ĐỘNG CHO ĐẦU TƯ - PHÁT TRIỂN KINH TẾ 2

1. Vai trò của vốn cho sự phát triển kinh tế 2

2. Nguồn vốn huy động trong nước 6

2.1. Tài chính dân cư 6

2.2. Ngân sách Nhà nước 6

2.2.1. Thuế 6

2.2.2. Phí và lệ phí 6

2.2.3. Thu từ các hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp 7

2.2.4. Thu từ hoạt động tài chính 7

3. Nguồn vốn huy động từ nước ngoài 7

3.1. Nguồn vốn huy động đầu tư trực tiếp 7

3.2. Nguồn vốn đầu tư gián tiếp 8

3.2.1. Nguồn vốn viện trợ 8

3.2.2. Nguồn vốn vay ưu đãi 9

3.3. Vay nợ thương mại 9

3.4. Kiều hối 9

II. THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH HUY ĐỘNG VỐN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY 10

1. Nhu cầu vốn để phát triển kinh tế 10

2. Thực trạng quá trình huy động vốn trong nước 12

3. Thực trạng huy động vốn từ nguồn nước ngoài 13

III. CÁC GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 15

1. Huy động từ nguồn trong nước 15

1.1. Huy động qua kênh Ngân sách Nhà nước 16

1.2. Phát huy tiềm năng vốn từ các nguồn tài nguyên và tài sản còn bỏ phí 16

1.3. Huy động vốn qua các tổ chức tín dụng tài chính 16

1.4. Huy động vốn qua các Doanh nghiệp 17

1.5. Huy động vốn qua dân cư 18

1.6. Huy động vốn qua Thị trường chứng khoán 19

2. Huy động vốn từ nguồn nước ngoài 20

2.1. Cải thiện môi trường pháp lý 21

2.2. Đào tạo nguồn nhân lực 22

2.3. Huy động vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài 23

2.4. Huy động vốn từ nguồn vay nợ, viện trợ 24

KẾT LUẬN 26

MỤC LỤC 27

TÀI LIỆU THAM KHẢO 29

 

doc29 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1423 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp huy động vốn cho đầu tư - phát triển nền kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh tế công cộng về vốn. 2.2.3 Thu từ các hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp: Hiện nay, ở Việt Nam những khoản này thường bằng không, thậm chí âm. Chỉ một số ít Doanh nghiệp làm ăn có lãi. Tuy nhiên, không thể phủ nhận, đây là nguồn vốn quan trọng trong tương lai. Các khoản thu từ các Doanh nghiệp này vừa là nguồn cung cấp thêm cho thị trường tài chính (còn nam) vừa góp phần đầu tư cho các Doanh nghiệp để phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh. 2.2.4. Thu từ hoạt động tài chính: Các cơ sở hoạt động tài chính mang tính trung gian và cũng là đơn vị kinh doanh thu lời. Các tổ chức này hoạt động linh hoạt, huy động, luân chuyển vốn từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn. Nó góp phần làm cho nguồn thu của NSNN tăng thêm. Ngoài ra, nguồn thu NSNN còn bao gồm cả các nguồn thu từ tài sản công còn bỏ phí hoặc từ các tài sản công do các đơn vị hành chính sự nghiệp, lực lượng quân đội... nắm giữ. 3. Nguồn vốn huy động nước ngoài 3.1. Nguồn vốn huy động đầu tư trực tiếp (FDI): Đầu tư trực tiếp NN là một loại hình di chuyển vốn quốc tế trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn. Đầu tư trực tiếp được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới với quyền sở hữu và quản lý phụ thuộc vào mức độ đóng góp của mỗi bên. Trong đó, bên nước ngoài phải góp một số vốn tối thiểu tuỳ theo vốn pháp định và luật Đầu tư nước ngoài đồng thời lợi nhuận thu được cũng chia theo tỷ lệ này. Hiện nay FDI, có các xu hướng vận động sau: Xu hướng tự do hoá đầu tư: thể hiện trên 3 bình diện quốc gia, khu vực và quốc tế. Đó là việc giảm dần những hạn chế về hình thức đầu tư, vốn góp, nhân công, chuyển giao công nghệ... đồng thời tăng cường đào tạo nguồn nhân lực khuyến khích về tài chính..., hình thành hiệp định song và đa phương. Vai trò của các tập đoàn xuyên quốc gia ngày càng nổi bật trong việc cung cấp tài chính và chuyển giao công nghệ cùng kinh nghiệm quản lý cũng là một xu hướng mới. Xu hướng mới là có sự vận động luân chuyển vốn giữa các nước phát triển. Vốn FDI, tuy nhiên, cũng có sự biến đổi tăng dần về qui mô và tốc độ phân vốn vào các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước Châu á - Thái Bình Dương. Cuối cùng là xu hướng chuyển dần lĩnh vực đầu tư từ khai thác sang chế tạo và dịch vụ, vào những ngành đòi hỏi sử dụng lao động có trình độ cao, tạo được hiệu quả kinh tế – xã hội lớn... Đầu tư trực tiếp hiện nay chủ yếu trên 3 hình thức: hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng, doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Đầu tư trực tiếp mang lại cả mặt tích cực và tiêu cực, song nói chung, cả với nước tiếp nhận và nước đầu tư đều có lợi ở nhiều mặt như: ở nước tiếp nhận sẽ tiếp thu được khoa học – kỹ thuật – công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý, sử dụng vốn một cách hiệu quả hơn..., đối với nước đi đầu tư: vốn đầu tư được sử dụng với hiệu quả cao, chiếm lĩnh thị trường, tận dụng được nguồn nhân công rẻ mạt, tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch,... Tuy nhiên, cũng có những mặt tiêu cực như: nếu môi trường chính trị – Kinh tế không ổn định sẽ khó thu hút FDI, dễ bị nhập những công nghệ lạc hậu kém hiệu quả, phá hoại môi trường,... 3.2. Nguồn vốn đầu tư gián tiếp (ĐTGT): ĐTGT là loại hình di chuyển vốn giữa các quốc gia trong đó người chủ sở hữu vốn không trực tiếp quản lý vốn và điều hành các hoạt động sử dụng vốn, họ không chịu trách nhiệm về kết quả đầu tư mà hưởng lãi suất theo tỷ lệ số vốn đầu tư. Đầu tư nước ngoài gián tiếp chủ yếu dưới hình thức viện trợ phát triển chính thức (ODA). ODA là tất cả các khoản hỗ trợ không hoàn lại hoặc các khoản tín dụng ưu đãi (vay dài hạn và lãi suất thấp) của các tổ chức thuộc Liên Hợp Quốc, các tổ chức phi Chính phủ, và một số các nước cũng như các tổ chức tài chính quốc tế. ODA gồm có các khoản viện trợ và vay ưu đãi. 3.2.1. Nguồn vốn viện trợ: Là các khoản mà các đối tác của ODA chuyển vào một quốc gia (đặc biệt là cho các dự án phát triển) dưới hình thức hoàn lại hay không hoàn lại. Thông thường, nó sẽ đi kèm với các điều kiện về chính trị. 3.2.2. Nguồn vốn vay ưu đãi: Là việc các đối tác của ODA cho các nước đang phát triển vay với lãi suất thấp, trong thời gian dài. Song việc cho vay ưu đãi cũng gắn chặt với thái độ chính trị của các Chính phủ và các tổ chức kinh tế quốc tế khác nhau. ODA có các đặc điểm chung là: bên tiếp nhận vốn được toàn quyền sử dụng vốn, vay với lãi suất thấo, trong thời gian dài nhưng nói chung là bị lệ thuộc về chính trị đối với nước và tổ chức cho vay. Bên cạnh các hình thức đầu tư trên còn có vay nợ thương mại và Kiều hối. 3.3. Vay nợ thương mại: Là hình thức vay từ các tổ chức tài chính quốc tế với lãi suất và thời gian cụ thể. Lãi suất này thường cao hơn nhiều so với lãi suất của vay ưu đãi và thời gian lại ngắn hơn nên các nước thường cố gắng để hạn chế khoảng vay này. 003.4. Kiều hối: Là việc chuyển tiền của người lao động Việt Nam ở nước ngoài về trong nước. Người lao động ra nước ngoài chủ yếu qua 2 hình thức là xuất khẩu lao động và Việt Kiều. Như vậy, trong những năm qua, Việt Nam đã huy động vốn như thế nào từ các nguồn này? II. Thực trạng quá trình huy động vốn của Việt Nam hiện nay 1. Nhu cầu vốn để phát triển kinh tế Việt Nam đang thực hiện quá trình đổi mới toàn diện nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đồng thời thực hiện mở cửa nền kinh tế từng bước hội nhập với khu vực và quốc tế. Mục tiêu lớn của Việt Nam về phát triển kinh tế – xã hội đã được xác định rõ trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII và tiếp tục được khẳng định tại Đại hội lần thứ VIII với một quyết tâm rất cao là: Tới năm 2020, Việt Nam sẽ trở thành một nước công nghiệp. Muốn đạt được mục tiêu này thì vốn đầu tư hàng năm phải đạt mức 25 – 30% GDP. Do vậy nhu cầu vốn đối với Việt Nam là rất lớn. Chính phủ đã có những giải pháp tích cực, kịp thời nên mặc dù trong bối cảnh như vậy nền kinh tế Việt Nam vẫn có những bước chuyển biến tích cực. So với năm 2001, nhịp độ tăng trưởng GDP năm 2002 dự kiến đạt khoảng 7%, giá trị sản xuất công nghiệp ước tăng 14,4% trong đó khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 11,9%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 19,3%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 14,7%. Sản xuất nông nghiệp chuyển dịch bước đầu về cơ cấu sản xuất cây trồng vật nuôi, tốc độ tăng trưởng khá cao, đạt 5%. Tốc độ tăng giá trị sản xuất các ngành dịch vụ ước đạt 6,7%... Các cân đối lớn trong nền kinh tế nhìn chung được bảo đảm. Việc sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước cũng có bước tiến đáng kể. Ước tính trong năm 2002, có khoảng 250 – 300 doanh nghiệp được cổ phần hoá; đã chuyển một số Tổng công ty Nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ – công ty con. Kết quả điều tra mới đây đối với 422 doanh nghiệp được cổ phần hoá trên 1 năm tại 15 tỉnh, thành phố cho thấy cổ phần hoá đã thực sự góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chuyển đổi, tăng động lực cho người lao động, cho doanh nghiệp. Khu vực kinh tế dân doanh cũng có những chuyển biến mạnh mẽ. Luật Doanh nghiệp, các chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển làng nghề... đã góp phần huy động tốt các nguồn lực trong các thành phần kinh tế đưa vào đầu tư phát triển. Thực thi Luật Doanh nghiệp từ năm 2000 tính tới tháng 10/2002 đã có khoảng 52.000 doanh nghiệp được thành lập mới với số vốn đăng ký mới và bổ sung của các doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp đạt khoảng 92.200 tỷ đồng (6 tỷ USD). Năm 2002, khu vực kinh tế tư nhân trong nước đóng góp khoảng 39% GDP. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục duy trì khả năng phát triển khá, tạo thêm một số mặt hàng mới, thị trường mới, tăng thêm sức cạnh tranh của sản phẩm, đóng góp khoảng 13,4% GDP năm 2002. Cho đến nay, có hơn 3600 dự án có vốn đầu tư nước ngoài đang còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký hơn 38 tỷ USD, trong đó 1.900 dự án đã đi vào sản xuất kinh doanh và hơn 1.000 dự án đang trong giai đoạn xây dựng cơ bản. Năm 2002, số vốn cấp mới ước đạt trên 2 tỷ USD và số vốn thực hiện đạt 2,3 tỷ USD. Bên cạnh những kết quả tích cực, tình hình kinh tế xã hội 2002 còn nhiều yếu kém, chi phí sản xuất và chi phí dịch vụ của nhiều sản phẩm còn ở mức cao, làm giảm khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư có chưa cao, cơ cấu đầu tư chưa thật hợp lý, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm... Kỳ họp thứ hai Quốc hội Khoá XI vừa thông qua Nghị quyết về nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội năm 2003 và quyết định một số chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch năm tới là: tốc độ tăng GDP khoảng 7,5%; giá trị các ngành dịch vụ tăng khoảng 7%; tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 7 – 8%; lạm phát dự kiến 4%; tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng 15% so với năm 2002 và bằng 35,2% GDP. Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2001 ước thực hiện 150 nghìn tỷ đồng, bằng 30,8% GDP. Dự kiến, tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội năm 2002 sẽ đạt 175 nghìn tỷ đồng, tăng 17% so với năm 2001 và bằng khoảng 32% GDP. 2. Thực trạng quá trình huy động vốn trong nước Có thể nói, vốn nước ngoài đã đáp ứng một phần quan trọng nhu cầu vốn để thực hiện các mục tiêu đầu tư phát triển, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội, nhất là việc tập trung vốn đầu tư vào một số lĩnh vực then chốt nhằm tạo đà phát triển nền kinh tế. Tuy nhiên, Việt Nam là một nước có nợ nước ngoài trên GDP tương đối lớn, nên vấn đề tìm nguồn vốn từ nội bộ nền kinh tế là yêu cầu bức xúc trong giai đoạn hiện nay. Tỷ lệ tiết kiệm của dân cư đã tăng lên đáng kể. Các hình thức huy động đã phát huy được điểm mạnh của mình. Từ 1995 đến 2000, tỷ lệ tiết kiệm trong nước tăng từ 18,2% lên 272. Tổng quĩ tích luỹ tăng trung bình hàng năm trên 9,5%. Tích luỹ tài sản so với GDP từ 1995 đến 2000 tăng từ 27,2% đến 29,5%... Điều đó cho thấy, vốn cho phát triển, đầu tư đã tăng lên đáng kể, việc huy động vốn đạt hiệu quả cao hơn. NSNN đã được cơ cấu lại theo hướng hiệu quả hơn trong đó, thu từ thuế và phí, lệ phí vào khoảng 94,2% làm tăng thu NSNN, tổng thu NSNN tăng trung bình lớn hơn 8,7%. Theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê về vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong năm 1999 – 2000, nếu xét về cơ cấu nguồn vốn cho đầu tư phát triển xã hội, thì năm 2000 NSNN cấp 34.600 tỷ đồng, chiếm 23,5%; vốn vay ngân hàng và vay tín dụng là 44.000 tỷ đồng, chiếm 29,8%; vốn tự có của các doanh nghiệp và các đơn vị kinh doanh là 57.700 tỷ đồng, chiếm 39,1%; các nguồn vốn khác là 11.300 tỷ đồng, chỉ chiếm 7,6%. Như vậy, vốn tự có luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong những năm gần đây. Sở dĩ có tình hình khả quan này là do các doanh nghiệp nhà nước tự đầu tư trên 8.000 tỷ đồng mỗi năm. Công cuộc cải cách hệ thống thuế về cơ bản là có hiệu quả, hình thành được hệ thống thuế, cơ cấu thuế tương đối hợp lý giúp thu NSNN chủ yếu từ thuế đạt hơn 90%. Thiết lập và nâng cao hệ thống tài chính trung gian (NHTM), hiện đại hoá ngành ngân hàng từng bước phù hợp với hệ thống ngân hàng thế giới. Thành lập và đi vào hoạt động của TTCK Việt Nam đã góp phần huy động một nguồn vốn đầy tiềm năng từ dân cư và nước ngoài. Chính phủ đã có nhiều biện pháp tích cực như gặp gỡ, nói chuyện, đưa ra các hình thức hỗ trợ và sự quan tâm tới các Việt Kiều để tăng khả năng thu hút vốn đầu tư từ nguồn Kiều hối. 3. Thực trạng huy động vốn từ nguồn nước ngoài Vốn chảy vào Việt Nam chủ yếu dưới dạng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vay nước ngoài (ODA và vay thương mại), và kiều hối. Đầu tư trực tiếp nước ngoài: Đây là nguồn vốn trung – dài hạn chủ yếu của Việt Nam. Hơn 10 năm qua, kể từ khi có Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTNN) đã đóng góp khoảng 30% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội. Bên cạnh đó, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài không chỉ góp phần tích cực vào việc tăng nhanh tổng sản phẩm quốc nội (GDP) mà còn góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu và tạo nhiều công ăn việc làm. Các dự án đầu tư nước ngoài tích cực tham gia vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP, tạo thêm năng lực mới về sản xuất và xuất khẩu trong một số ngành quan trọng. Ngoài ra, ĐTNN cũng là một “kênh” đưa vào Việt Nam những công nghệ tiên tiến và góp phần tích cực cho tiến trình hội nhập của Việt Nam với khu vực và thế giới. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, dự kiến, trong kế hoạch 5 năm, 2001 – 2005, tổng vốn ĐTNN có thể lên tới 16 tỷ USD, tăng 24% so với 5 năm trước. Đó là dự báo rất lạc quan trong việc thu hút nguồn vốn nước ngoài để phát triển. Tuy nhiên, lĩnh vực đầu tư nước ngoài cũng còn nhiều điều bất cập. Để thu hút vốn đầu tư nước ngoài cần xác định rõ rằng: (1) Mục tiêu quan trọng nhất không phải là số lượng vốn thu nhận được mà phải là hiệu quả kinh tế xã hội do nguồn vốn này đem lại; (2) Kết hợp hài hoà lợi ích trong nước với lợi ích của nhà đầu tư; (3) việc lựa chọn hình thức đầu tư và quy mô của dự án cũng phải căn cứ vào hiệu quả kinh tế xã hội. Trong lĩnh vực ngân hàng, với chủ trương chung của Đảng và Nhà nước là khuyến khích và thu hút đầu tư nước ngoài, Ngân hàng Nhà nước đã cấp giấy phép hoạt động tại Việt Nam cho các tổ chức tín dụng (TCTD) quốc tế để qua đó thu hút hơn nữa vốn ĐTNN, nâng cao sức cạnh tranh của ngân hàng trong nước, đưa vào áp dụng những dịch vụ, công nghệ ngân hàng hiện đại, đào tạo đội ngũ cán bộ và thực hiện chuyển giao chính thức. Có thể nói rằng, các TCTD nước ngoài hoạt động tại Việt Nam đều là những ngân hàng lớn, có uy tín, độ an toàn cao, khả năng cạnh tranh lớn và đã đóng góp một phần đáng kể trong việc cung cấp tín dụng cho nền kinh tế. Năm 2000, tổng dư nợ cho vay của các TCTD nước ngoài chiếm gần 13% thị phần. Tài trợ phát triển chính thức (ODA): Bên cạnh nguồn vốn ĐTNN, nguồn vốn ODA cũng góp phần quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Theo số liệu của Chính phủ, kể từ năm 1993 đến nay, tổng giá trị các dự án và chương trình ODA đã đạt hơn 14 tỷ USD và giải ngân được khoảng 9,2 tỷ USD. Trong đó, tổng lượng vốn ODA được giải ngân trong năm 2001 đạt tới 1,75 tỷ USD, cao hơn con số 1,6 tỷ USD của năm 2000. Có thể nói rằng, khoảng cách giữa khoản tiền được giải ngân đang ngày càng thu hẹp lại. Điều này cho thấy các nhà tài trợ ngày càng tập trung vào việc sử dụng có hiệu quả vốn vay ODA tại Việt Nam. Trong năm 2002, các nhà tài trợ quốc tế cam kết hỗ trợ Việt Nam 2,4 tỷ USD vốn ODA. Góp phần lớn vào kết quả này là các khoản vay được giải ngân từ chương trình Miyazawa của Nhật và từ chương trình tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo năm 2001 của Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Tuy nhiên, theo đánh giá của các nhà tài trợ thì tốc độ giải ngân vốn ODA trong thời gian qua tuy có tiến bộ nhưng vẫn còn chậm so với các nước trong khu vực. Việc giải ngân chậm đã làm cho các dự án ODA không thể đưa vào sử dụng đúng tiến độ, ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư của dự án. Kiều hối: Trên thực tế, Chính sách kiều hối của Việt Nam đã thông thoáng hơn khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 170-TTCP ngày 19/8/1999, khuyến khích người Việt ở nước ngoài chuyển tiền về nước, trong đó bãi bỏ thuế thu nhập cá nhân đánh trên kiều hối và cho phép được nhận kiều hối bằng ngoại tệ. Có thể nói rằng, trên bình diện vĩ mô, kiều hối đã góp phần cải thiện cán cân thanh toán, tạo nguồn vốn phát triển sản xuất – kinh doanh, tạo công ăn việc làm và nâng cao đời sống của một bộ phận dân cư trong xã hội. Với lượng kiều hối ngày càng tăng (Năm 1998: 950 triệu USD; Năm 1999: 1.200 triệu USD; Năm 2000: 1.757 triệu USD), kiều hối đã trở thành nguồn nội lực không thể không xem xét khi đánh giá sự tăng trưởng chung của nền kinh tế. Tuy nhiên, việc nhận kiều hối bằng ngoại tệ cũng góp phần làm tăng tình trạng Đô la hoá, ảnh hưởng đến mục tiên quản lý ngoại hối là trên lãnh thể Việt Nam chỉ sử dụng Đồng Việt Nam. Theo báo cáo phát triển năm 2002, Ngân hàng Thế giới dự đoán là để hỗ trợ cho chi phí cải cách và yêu cầu nhập khẩu, Việt Nam sẽ cần lượng vốn giải ngân (hoặc tổng nguồn vốn chảy vào) khoảng 2,7 tỷ USD trong năm 2002. III. Các giải pháp huy động vốn cho đầu tư - phát triển nền kinh tế 1. Huy động từ nguồn trong nước Nguồn vốn trong nước luôn được coi là nguồn chủ yếu, dự tính chiếm 2/3 tổng số vốn huy động cho đầu tư, phát triển. Đây là nguồn nội lực có vai trò quyết định cho đầu tư phát triển, dự kiến huy động: từ Ngân sách Nhà nước sẽ chiếm khoảng 25%; tín dụng Nhà nước 14%; huy động từ các doanh nghiệp 28% và từ dân cư sẽ là 33%. 1.1 Huy động qua kênh NSNN: - Tăng hiệu quả thu thuế, phí, lệ phí: + Quản lý chặt chẽ đối với số lượng và các loại hình kinh doanh. + Điều chỉnh mức thuế hợp lý. + Tăng cường chống thất thu các nguồn thuế bằng cách nắm chắc các nguồn thu, các đối tượng phải thu. + Đối với cơ chế quản lý thu: thu trực tiếp nộp vào kho bạc Nhà nước. Thực hiện triệt để đốc thu, chống dây dưa, nợ, đọng thuế để thu về Ngân sách kịp thời và đầy đủ nhất. - Phát hành trái phiếu, kỳ phiếu. 1.2. Phát huy tiềm năng vốn từ các nguồn tài nguyên và tài sản công còn bỏ phí: - Qui hoạch khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách hiệu quả. - Mở rộng đấu thầu khai thác cho mọi thành phần (cá nhân, tổ chức trong nước, ngoài nước,...). - Chú trọng việc “đổi đất lấy vốn”, nghĩa là Nhà nước xây dựng các công trình nhà cửa, hạ tầng cơ sở và chuyển giao mới lại cho các cá nhân, doanh nghiệp để thu hồi vốn ban đầu. - Quản lý chặt chẽ hơn một số nguồn tài sản công do các đơn vị hành chính sự nghiệp, các lực lượng vũ trang nắm giữ. 1.3. Huy động vốn qua các tổ chức tín dụng – tài chính: - Ngày một phát triển hơn nữa hệ thống Ngân hàng thương mại (NHTM) về tổ chức quản lý cũng như về công nghệ. + Điều chính mức lãi suất hợp lý. + Ngày càng đơn giản hoá các điều kiện cho doanh nghiệp và dân cư gửi tiền tiết kiệm cũng như vay vốn từ Ngân hàng. + Mở rộng và nâng cao chất lượng các dịch vụ của hệ thống NHTM. - Đa dạng hoá các hình thức tiết kiệm (như tiết kiệm chiều tối, tiết kiệm bằng ngoại tệ...). - Phát triển Hợp tác xã tín dụng, đặc biệt là quĩ tín dụng nhân dân ở xã, phường, thị trấn, tạo điều kiện cho nhân dân, đặc biệt là nông dân vay vốn phát triển sản xuất, nâng cao đời sống. - Triển khai rộng rãi các hình thức tín dụng thuê mua đối với NHTM và các công ty tài chính. - Thu hút vốn thông qua các hình thức khác: + Tiết kiệm bảo hiểm: Giải pháp này tập trung vào phát triển thị trường bảo hiểm nhân thọ, thúc đẩy cạnh tranh của các Công ty bảo hiểm nhân thọ, thu hút các Công ty bảo hiểm nhân thọ tham gia mạnh mẽ hơn vào thị trường tiền tệ, đa dạng hoá các lĩnh vực đầu tư vốn của các tổ chức bảo hiểm. + Tiết kiệm bưu điện: Không ngừng nâng cao hiệu quả huy động vốn qua hình thức tiết kiệm bưu điện. Hiện nay đang có hai quan điểm phát triển của tổ chức này, đó là cho thành lập ngân hàng tiết kiệm bưu điện và hoàn thiện Công ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện. 1.4. Huy động vốn qua các Doanh nghiệp: - Đảm bảo sự bình đẳng về nghĩa vụ nộp thuế giữa các Doanh nghiệp trong nước cũng như Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Tạo các điều kiện ưu đãi cho Doanh nghiệp mới hay Doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. - Tạo ra cơ chế bắt buộc DNNN sử dụng lợi nhuận sau thuế, đặc biệt là quĩ đầu tư phát triển của Doanh nghiệp để tái sản xuất. - Nhà nước cần có các định chế tài chính hợp lý cho DNNN để Doanh nghiệp có thể: + Thay đổi cơ cấu vốn, tài sản phù hợp với mục tiêu kinh doanh. + Đánh giá lại nguồn tài nguyên giao cho DNNN quản lý để tính sát với giá trị sinh lời. 1.5. Huy động vốn qua dân cư: Trong những năm qua hệ thống ngân hàng luôn chiếm trên 90% tổng số vốn huy động của dân cho đầu tư phát triển. Tính đến hết năm 2001, tổng nguồn vốn huy động trong dân của các TCTD trong toàn quốc lên tới khoảng gần 190.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, hiệu quả huy động vốn trong dân của hệ thống Ngân hàng cho thực hiện CNH – HĐH theo chiến lược do Đại hội IX đề ra sẽ không cao nếu chúng ta không đề cập đến những giải pháp: - Ngân hàng tạo sự tin tưởng và nâng cao hiểu biết của dân đối với hoạt động ngân hàng. Ngoài tuyên truyền, quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, cán bộ ngân hàng phải gần gũi, giúp đỡ, tư vấn, góp ý một cách trung thực, chân thành cho dân trong việc tiết kiệm và sử dụng tiền. Phải giải thích để dân thấy được những lợi ích và sự an toàn khi gửi tiền vào Ngân hàng trước mắt cũng như lâu dài. - Giúp dân xoá được thói quen để tiền ở nhà. Muốn hạn chế việc dân để tiền ở nhà, Ngân hàng cần phải khuyến khích mở tài khoản cá nhân để dân chúng gửi tiền chi tiêu qua Ngân hàng. Bí mất tuyệt đối số dự trên tài khoản và những chi tiêu của chủ tài khoản. Cải tiến giờ giấc làm việc không nên làm việc theo giờ hành chính nhất là các quầy tiết kiệm. - Khuyến khích tinh thần tiết kiệm để làm giàu, nhân điển hình trong dân chúng. Có chính sách hướng dẫn tiêu dùng để tiết kiệm, có biện pháp đối với những thói tiêu dùng lãng phí, xa xỉ. Đồng thời Ngân hàng nên có chính sách cho vay phù hợp để tạo vốn cho sự phát triển kinh tế hộ gia đình... nhằm tăng nguồn thu. 1.6. Huy động qua thị trường chứng khoán (TTCK): Hoàn thiện khung pháp lý cho TTCK. Trước mắt cần sửa đổi các văn bản pháp luật hiện hành theo hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh cho hệ thống và phù hợp với thực tiễn, yêu cầu phát triển của thị trường. Trong đó chú trọng tới việc sửa đổi, bổ sung Nghị định 48/1998/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn; về dài hạn, nghiên cứu xây dựng Luật chứng khoán và thị trường chứng khoán, trong đó ngoài những quy định về CK & TTCK còn có những quy định rõ ràng về địa vị pháp lý của UBCKNN cho phù hợp với vai trò quản lý nhà nước về TTCK trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện các giải pháp tăng cường hàng hoá cho TTCK. Đẩy mạnh việc phát hành trái phiếu Chính phủ qua TTGDCK để huy động vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng; phát hành trái phiếu của Quỹ hỗ trợ đầu tư cho nhu cầu đầu tư phát triển; khuyến khích tăng số lượng công ty phát hành chứng khoán ra công chúng, gồm các doanh nghiệp cổ phần hoá, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài và cả các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Xây dựng và mở rộng hoạt động của các Trung tâm tài chính, các tổ chức hỗ trợ phát triển thị trường; nâng quy mô vốn, mở rộng phạm vi và loại hình nghiệp vụ của các Công ty CK; phát triển các tổ chức đăng ký chuyển nhượng chứng khoán; phát triển các tổ chức định mức tín nhiệm; xây dựng trung tâm lưu ký chứng khoán độc lập;... Đi đôi với việc phát triển của TTCK, cần phải tiếp tục triển khai nhanh chóng và hiệu quả việc áp dụng thông lệ quốc tế và quản trị công ty, trong đó có việc nâng cao chất lượng, đạo đức nghề nghiệp của các tổ chức kiểm toán độc lập. Tăng cường hoạt động kiểm tra và giám sát thị trường thông qua việc tổ chức và hoàn thiện các hoạt động theo dõi, kiểm tra, thanh tra các hoạt động trên thị trường để kịp thời ban hành chính sách điều chỉnh phù hợp và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; xây dựng hệ thống các chỉ tiêu giám sát đối TTCK; tăng cường công tác phổ biến pháp luật về CK & TTCK để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật; tăng cường công tác đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác điều hành và quản lý TTCK... Hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật, trong đó chú trọng tới hệ thống giao dịch và giám sát thị trường của TTGDCK; nối mạng giữa các công ty chứng khoán với TTGDCK và người đầi tư để tạo điều kiện tiếp cận thông tin và tham gia thị trường cho người đầu tư ở tất cả các địa phương trong cả nước cũng như các nhà đầu tư ở nước ngoài... Tăng cường hợp tác và hội nhập quốc tế về CK & TTCK trên các phương diện: Tư vấn chính sách phát triển và quản lý thị trường, xây dựng khuôn khổ pháp luật cho TTCK, đào tạo đội ngũ cán bộ; từng bước mở cửa và hội nhập với các TTCK trên thế giới theo các lộ trình mà chúng ta đã cam kết. Có thể nói, TTCK là một kênh huy động vốn có hiệu quả của nền kinh tế thị trường và có liên quan đến nhiều vấn đề, nhiều lĩnh vực, nhiều mối quan hệ khác nhau của đời sống kinh tế – xã hội. Do vậy, các giải pháp để nâng cao khả năng huy động vốn của TTCK cần có sự vận dụng linh hoạt phù hợp với tình hình, điều kiện và nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của nước ta trong từng thời điểm cụ thể. Có như vậy mới phát huy được hiệu quả cao nhất của TTCK, và hạn chế đến mức thấp nhất những khuyết tật và rủi ro của thị trường. 2. Huy động từ vốn nguồn nước ngoài Đây là một nguồn lực có ý nghĩa quan trọng. Theo tính toán, nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển 1996 – 2000 và cân đối các nguồn đảm bảo thì số vốn huy động từ nước ngoài phải đạt khoảng 50% tổng số vốn cần thiết. Việc huy động vốn từ nước ngoài chủ yếu là dưới hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài và vốn từ vay nợ, viện trợ. 2.1. Cải thiện môi trường pháp lý: Việc cải thiện môi trường đầu tư mạnh mẽ hơn nữa trở nên vấn đề cấp bách đối với Việt Nam, nhất là phải cạnh tranh với các nước trong khu vực về vấn đề này trong bối cảnh đầu tư nước ngoài của toàn thế giới đang có xu hướng giảm sút mạnh. Cần rà soát lại các văn bản, quy định có liên quan đến việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài như lĩnh vực cấp phép đầu tư có điều kiện, lĩnh vực yêu cầu phải xuất khẩu theo một

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc62772.DOC
Tài liệu liên quan