Đề tài Các giải pháp thúc đẩy sự tham gia của các trung gian tài chính trên thị trường chúng khoán Việt Nam

I. PHẦN MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNGI: SỰ THAM GIA CỦA CÁC TRUNG GIAN TÀI CHÍNH VÀO THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN (TTCK) 4

1- KHÁI NIỆM CHUNG VỀ CÁC TRUNG GIAN TÀI CHÍNH 4

1.1. Khái niệm trung gian tài chính 4

1.2. Những trung gian tài chính chủ yếu 4

1.3. Vai trò của các trung gian tài chính trênTTCK 5

2. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 8

2.1. Khái niệm thị trường chứng khoán 8

2.2 Phân loại TTCK 8

2.2.1. Phân loại theo hàng hoá 8

2.2.2. Phân loại theo quá trình luân chuyển vốn . 9

2.2.3. Phân loại theo hình thức tổ chức của thị trường 9

2.2.4. Phân loại theo cơ chế giao dịch 10

2.3.Vai trò của thị trường chứng khoán 10

3. MỘT SỐ MÔ HÌNH TRUNG GIAN TÀI CHÍNH TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THẾ GIỚI 11

3.1. Mô hình định chế tài chính đa năng 12

3.2. Mô hình công ty chuyên doanh chứng khoán. 13

4. CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA TRUNG GIAN TÀI CHÍNH TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 14

4.1 Sự tham gia của các ngân hàng thương mại vào quá trình thành lập công ty chứng khoán 14

4.2 Tham gia của các ngân hàng vào dịch vụ lưu ký chứng khoán. 15

4.3. Tham gia của các ngân hàng đóng vai trò ngân hàng chỉ định thanh toán, ngân hàng giám sát 16

4.4. Tham gia của các trung gian tài chính vào bảo lãnh phát hành,đại lý phân phối chứng khoán trên TTGDCK. 16

4.5. Tham gia dịch vụ kiểm toán các tổ chức tham gia thị trường chứng khoán. 17

4.6. Tham gia của các trung gian tài chính vào việc thành lập các tổ chức định mức tín nhiệm 18

5.CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ THAM GIA CỦA CÁC TRUNG GIAN TÀI CHÍNH TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 19

5.1 Ảnh hưởng của môi trường kinh tế vĩ mô 19

5.2. Chịu ảnh hưởng của sự phát triển thị trường tiền tệ 20

5.3. Chịu ảnh hưởng của sự phát triển của thị trường chứng khoán 21

5.4. Chịu ảnh hưởng bởi các chính sách vế thuế ,phí , lệ phí 22

5.5. Chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật 23

CHƯƠNG II:THỰC TRẠNG VÀ GIẢ PHÁP THÚC ĐẨY SỰ THAM GIA CỦA CÁC TRUNG GIAN TÀI CHÍNH TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 24

1.THỰC TRẠNG THAM GIA CỦA CÁC TRUNG GIAN TÀI CHÍNH VÀO TTCK Ở VIỆT NAM 24

1.1. Các tổ chức trung gian tài chính ở Việt Nam 24

1.1.1. Các Ngân hàng thương mại 24

1.1.2 Công ty tài chính 25

1.1.3 Công ty cho thuê tài chính 27

1.1.4. Công ty bảo hiểm 28

1.1.5 Công ty kiểm toán 29

1.1.6 Quỹ đầu tư 30

1.2 Thực trang tham gia của các trung gian tài chính vào thị trường chứng khoán ở Việt Nam 31

1.2.1. Sự tham gia của các trung gian tài chính vào quá trình thành lập công ty chứng khoán 31

1.2.2. Tham gia của các ngân hàng vào dịch vụ lưu ký chứng khoán. 33

1.2.3. Tham gia của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển vào Ngân hàng chỉ định thanh toán. 34

1.2.4. Tham gia của các trung gian tài chính vào đấu thầu và bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ trên TTGDCK. 35

1.2.5. Tham gia dịch vụ kiểm toán các tổ chức tham gia thị trường chứng khoán. 35

2. CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY SỰ THAM GIA CỦA TRUNG GIAN TÀI CHÍNH VÀO THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 36

2.1 Các giải pháp vĩ mô 36

2.1.2 Tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định. 36

2.1.2. Tạo lập thị trường tiền tệ hoạt động lành mạnh, ổn định tỷ giá hối đoái và kiểm soát được lạm phát 39

2.1.3. Khuyến khích phát triển thị trường thông qua các công cụ tài chính, thuế, phí và lệ phí ưu đãi đối với tổ chức tham gia thị trường chứng khoán . 40

2.1.4. Hoàn thiện môi trường pháp lý thúc đẩy sự tham gia của các trung gian tài chính vào thị trường chứng khoán 41

2.2 Các giải pháp cụ thể 42

2.2.1 Đẩy mạnh việc thành lập công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ thông qua việc thành lập công ty trực thuộc (công ty con) 42

2.2.2. Tăng khả năng tham gia của các định chế quỹ đầu tư hiện có (quỹ đầu tư phát triển) thông qua tái cấu trúc các mô hình quỹ đầu tư hiện có. 43

2.2.3. Đẩy mạnh việc tham gia bảo lãnh và đấu thầu phát hành trái phiếu Chính phủ trên TTCK 44

2.2.4. Đẩy mạnh tham gia vào dịch vụ ngân hàng lưu ký, giám sát 45

2.2.5. Tham gia của các định chế ngân hàng-tài chính vào việc thành lập tổ chức định mức tín nhiệm ở Việt nam. 47

2.2.6. Đẩy mạnh việc tham gia của các tổ chức kiểm toán vào cung ứng dịch vụ kế toán-kiểm toán và tư vấn tài chính đối với các công ty niêm yết và công ty chứng khoán. 51

PHẦN KẾT LUẬN 53

 

doc58 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1244 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp thúc đẩy sự tham gia của các trung gian tài chính trên thị trường chúng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gian của trung gian tài chính vào TTCK như: tham gia là tổ chức lưu ký, bảo lãnh phát hành,đại lý phân phối chứng khoán, Ngân hàng chỉ định thanh toán… sự tham gia đó đem lại cho các định chế này nhưng khoản phí và lệ phí thu về nhất định,thị trường càng phát triển thì khoản nay thu được càng lớn. Bên cạnh đó sự phát triển của TTCK làm cho các công cụ huy động vốn của các tổ chức này như trái phiếu,cổ phiếu giấy chứng nhận tiền gửi… có môi trường giao dịch từ đó tạo khả năng thanh khoản cao cho các công cụ này và đảm bảo cho các tổ chức này có khả năng huy động vốn nhanh va rẻ hơn. Với một thị trường phát triển sôi động và ổn định sễ thúc đẩy các trung gian tham gia tích cực hơn bởi lợi ích của việc tham gia TTCK đem lại là rất lớn, nó sẽ khẳng định vị thế và uy tín đối với thị trường từ có thể đem lại được lợi nhuận lơn nhất cho mình 5.4. Chịu ảnh hưởng bởi các chính sách vế thuế ,phí , lệ phí Trong việc thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô, thuế được Chính phủ sử dụng như một công cụ quan trọng tác động lên toàn bộ qua trình phát triển cảu nền kinh tế .Thông qua chính sách thuế Chính phủ thực hiện chính sách ưu đãi khuyến khích hoặc hạn chế sự phát triển cảu các ngành nghề lĩnh vực theo từng vùng lãnh thôe trong nền kinh tế quốc dân. Về phí đây là khoản tiền mà các chủ thể tham gia thị trường phải đòng góp cho Nhà nước ví dụ: phí thành viên, phí lưu ký,…Lệ phí đây là khoản tiền mà tổ chức phải nộp cho Nhà nước để nhận được các giấy phép cần thiết cho hoạt động của mình. Chính sách thuế, phí và lệ phí có tác dụng lớn trong việc khuyến khích các trung gian tài chính tham gia,nếu có một chính sách thúê hợp lý sẽ thúc đẩy các tổ chức trung gian tham gia tích cực hơn bởi khi đó lợi ích mang lại sẽ nhiều hơn.Đặc biệt ở các thị trường chứng khoán mới nổi chính sách này có tác dụng rất lớn. Về thuế các công ty chứng khoán là một trong những đối tương được hưởng ưu đãi thuế nhiều nhất.Như ở Việt Nam các công ty đựơc miễn thuế GTGT đố với các hoạt động kinh doanh chứng khoán được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong năm đầu tiên và 50% trong 2 năm tiếp theo. Để có thể thu hút đựợc các trung gian tham gia vừa với tư cánh nhà cung ứng cá dịch vụ với tư cánh nhà đầu tư cần có một chinh sách thuế rõ ràng và thống nhất để các tổ chứuc này có chính sách hợp lý và yên tâm khi tham gia,chính sách thuế ,phí ,lệ phí phù hợp với sự phát triển của TTCK sẽ là đòn bẩy tích cực,là động lưc thúc đẩy các trung gian tài chính tham gia. 5.5. Chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Hệ thống pháp lý sẽ là công cụ không thể thiếu để duy trì cho TTCK hoạt động nhịp nhàng, lành mạnh, có hiệu quả và ngày càng phát triển. Muốn có một TTCK ổn định phải có một hệ thống luật pháp hoàn chỉnh. Tính ổn định của TTCK nói lên sự thành công của thị trường.Hệ thống pháp luật quyết định tới vịêc tham gia cảu các trung gian tài chính vào các loại hình dịch vụ nào. Hệ thông pháp luật thống nhất và đồng bộ sẽ tạo môi trường ổn định ,các chủ thể tham gia có sự phân định rõ ràng về chức năng nhiệm vụ,quyền hạn sẽ giảm bớt sự chống chéo về thủ tục hành chính,các chủ thể tham gia sẽ không bị chi phối bởi nhiều quy định nhiều loại luật và quy định.Không phải bất kỳ tổ chức nào muốn tham gia thị trương là có thể tham gia được nó phải đảm bảo những quy định bắt buộc của cơ quan quản lý.Hệ thống pháp luật của mỗi nước sẽ quy đinh việc tham gia của các trung gian tài chính vào thị trường Chương II:Thực trạng và giả pháp thúc đẩy sự tham gia của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán 1.Thực trạng tham gia của các trung gian tài chính vào TTCK ở Việt Nam 1.1. Các tổ chức trung gian tài chính ở Việt Nam 1.1.1. Các Ngân hàng thương mại Từ giữa năm 1987, hệ thống ngân hàng Việt Nam mới bắt đầu có những đổi mới về tổ chức và hoạt động, mô hình ngân hàng hai cấp dần được hình thành, thay thế cho mô hình ngân hàng một cấp trước kia. Bên cạnh NHNN, các loại hình ngân hàng chuyên doanh, ngân hàng cổ phần cũng dần dần xuất hiện. Năm 1990, hai Pháp lệnh ngân hàng ra đời, góp phần khẳng định thêm mô hình ngân hàng hai cấp với NHNN đóng vai trò ngân hàng trung ương, nằm trong cơ cấu Chính phủ; các NHTM là các doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm mục tiêu. Qua hơn mười năm hoạt động, mô hình ngân hàng hai cấp đã dần thích nghi với nền kinh tế thị trường và đã có những đóng góp đáng kể cho công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động ngân hàng cũng đã bộc lộ những nhược điểm cần khắc phục, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ hai đã thông qua hai luật: Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các TCTD, đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Với việc ban hành hai luật này, NHNN đã được tăng cường quyền lực và sức mạnh để thực hiện chức năng quản lý nhà nước và đảm nhiệm vai trò ngân hàng của các ngân hàng; các TCTD cũng có được môi trường pháp lý thuận lợi để phát triển cả về số lượng và chất lượng cũng như đa dạng hoá về loại hình. Tính đến nay, hệ thống NHTM Việt Nam gồm có:6 NHTM nhà nước: Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu long và Ngân hàng Phục vụ Người nghèo, hơn 51 NHTM cổ phần trong đó 28 NHTM cổ phần đô thị và 23 NHTM cổ phần nông thôn, có nhiều ngân hàng liên doanh với nước ngoài,hơn 26 chi nhánh ngân hàng nước ngoài…. Như vậy, hệ thống NHTM Việt Nam đã có bước phát triển đột biến cả về nội dung cũng như số lượng, loại hình và khung khổ pháp lý cho hoạt động. Ngoài ra, trên lãnh thổ Việt Nam còn có rất nhiều văn phòng đại diện nước ngoài và tổ chức quốc tế, gồm văn phòng đại diện thuộc ngân hàng và công ty tài chính của hơn 21 quốc gia, 3 văn phòng đại diện của các tổ chức tài chính thế giới (Quỹ Tiền tệ Quốc tế - IMF, Ngân hàng Thế giới - WB, Ngân hàng phát triển châu á - ADB).Các NHTM Việt Nam mới được hình thành, trong đó nhóm NHTM nhà nước chiếm vị trí chủ đạo Các NHTM nhà nước trước đây là những ngân hàng chuyên doanh mới được tách khỏi Ngân hàng Nhà nước từ hơn 10 năm nay, chủ yếu vẫn kinh doanh theo từng lĩnh vực, chưa thực sự trở thành những ngân hàng đa năng; Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu long và Ngân hàng Phục vụ Người nghèo thực chất là hai ngân hàng chính sách, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Nhóm các NHTM cổ phần tuy nhiều về số lượng nhưng phần lớn là các ngân hàng nhỏ, hiệu quả kinh doanh chưa cao lại tiềm ẩn nhiều rủi ro. Các NHTM nước ngoài và liên doanh tuy đang có xu hướng tăng nhưng hiện còn hạn chế về số lượng và phạm vi kinh doanh 1.1.2 Công ty tài chính Đây là mô hình thí điểm thực hiện Luật Doanh nghiệp Nhà nước và Luật Các TCTD và bước đầu đã được thành lập trong năm tổng công ty nhà nước, đó là các Tổng Công ty Cao su, Bưu chính-Viễn thông, Dệt-May, Công nghiệp Tàu thuỷ và Dầu khí; hoạt động theo giấy phép được cấp bởi Thống đốc Ngân hàng Nhà nước; với mục tiêu hỗ trợ vốn cho các công ty con trong tổng công ty bằng cách huy động các nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời trong các đơn vị thành viên và cán bộ, công nhân viên để điều hoà vốn trong tổng công ty; đồng thời là kênh dẫn vốn từ các NHTM cho các dự án sản xuất kinh doanh của tổng công ty Trong thời gian qua, hoạt động của các công ty tài chính này đã đạt được một số kết quả, góp phần đáng kể vào thành tích hoạt động kinh doanh của các tổng công ty cũng như của hệ thống tài chính-tiền tệ và tín dụng - ngân hàng nói chung. Chẳng hạn, đã góp phần tạo vốn cho các dự án đóng tàu viễn dương, tàu chở dầu, khai thác và cung ứng các sản phẩm dầu khí; các dự án về thông tin, bưu chính-viễn thông; các dự án về nâng cao chất lượng hàng dệt may, sản phẩm cao su, v.v. Tuy nhiên, hoạt động thí điểm trong mấy năm qua đã cho thấy mô hình công ty tài chính hiện hành, hoạt động trong khuôn khổ Luật Các TCTD có một số tồn tại cần được nghiên cứu chỉnh sửa.. Hàng năm Chính phủ cấp tín dụng ưu đãi hàng trăm tỷ đồng cho các tông công ty, tạo ra tâm lý ỷ lại, trông chờ, làm giảm tính chủ động tích cực trong việc tìm kiếm các nguồn vốn của các công ty tài chính. Hơn nữa, các tổng công ty có công ty tài chính hiện nay đều là những đơn vị kinh tế có mối quan hệ kinh doanh quốc tế rộng, có các đơn vị thành viên là những doanh nghiệp nước ngoài hoặc liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài lên đến hàng trăm triệu USD nên họ thường xuyên phải sử dụng các ngoại tệ mạnh như USD, , v.v. trong lúc các công ty tài chính của họ lại không được phép làm các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối nên chưa phát huy hết khả năng, đặc biệt là khả năng huy động các nguồn vốn bằng ngoại tệVề mặt cho vay vốn, các công ty tài chính cũng như các TCTD vẫn phải tuân thủ quy định của Luật Các TCTD không được phép cho vay một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của mình để hạn chế rủi ro. Điều này cũng đang gây khó khăn cho các công ty tài chính nói riêng và các TCTD nói chung, bởi vốn tự có của các công ty tài chính hiện nay còn rất nhỏ bé, chỉ khoảng từ 40 đến 90 tỷ VND, trong lúc đó vốn đầu tư cho mỗi một dự án thường vượt quá 15% mức vốn này. v.v. Thực tế hoạt động đang đòi hỏi phải có thêm văn bản hướng dẫn để kinh doanh ngoại hối được thông thoáng và đòi hỏi nhanh chóng có giải pháp bổ sung vốn tự có của các công ty tài chính để tăng năng lực trong kinh doanh 1.1.3 Công ty cho thuê tài chính Việt Nam bước vào nền kinh tế thị trường, bên cạnh một số doanh nghiệp từ thời bao cấp để lại với công nghệ và thiết bị lạc hậu, hàng ngàn doanh nghiệp khác đã ra đời. Để cạnh tranh và tồn tại, bắt buộc các doanh nghiệp phải luôn đổi mới công nghệ và thiết bị để nâng cao chất lượng sản phẩm. Trong khi đó, hầu hết các doanh nghiệp đều thiếu vốn nghiêm trọng nhưng chưa đủ điều kiện hoặc chưa dám vay những món nợ lớn trực tiếp tại các NHTM. Loại trung gian tài chính này đã được thành lập và hoạt động có hiệu quả ở hầu khắp các quốc gia công nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật, Hàn quốc, v.v. Tại Mỹ, người ta cho thuê từ các thiết bị lớn như máy bay đến các thiết bị nhỏ như máy photocopy, máy fax, v.v. ở Việt Nam, hoạt động cho thuê tài chính vẫn còn mới mẻ đối với các cá nhân cũng như doanh nghiệp nên tình hình phát triển còn rất chậm so với nhu cầu thị trường. Nhưng hiện tại, cả nước mới có tám công ty cho thuê tài chính được cấp phép; trong đó, năm công ty trực thuộc bốn NHTM nhà nước (Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn có hai công ty hoạt động ở hai miền Nam và Bắc), hai công ty liên doanh và một công ty 100% vốn nước ngoài. Vốn pháp định của các công ty trong nước khoảng trên 50 tỷ VND còn công ty nước ngoài và liên doanh khoảng 140 tỷ VND.Tuy nhiên hoạt động của các công ty cho thuê tài chính còn gặp nhiều bế tắc nên đã hạn chế tốc độ phát triển và chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường. Về mặt pháp lý cũng còn nhiều vướng mắc. Chẳng hạn, chưa có các văn bản pháp luật phân định rõ mối quan hệ giữa quyền sử dụng và quyên sở hữu đối vơí các tài sản cho thuê nên đã dẫn đến những rắc rối không đáng có về việc quản lý tài sản trong quá trình thực hiện hợp đồng cũng như khi kết thúc hợp đồng hoặc khi hợp đồng có xẩy ra tranh chấp. Bên cạnh đó, do vốn điều lệ của các công ty còn quá thấp, trình độ nghiệp vụ của cán bộ-nhân viên các công ty còn bất cập, các doanh nghiệp sản xuất chưa xây dựng được nhiều dự án khả thi mang tính thuyết phục cũng đã ảnh hưởng đến việc mở rộng thị phần cũng như độ an toàn trong hoạt động kinh doanh của các công ty cho thuê tài chính. 1.1.4. Công ty bảo hiểm Để đảm bảo đời sống cho người lao động và giữ gìn sự ổn định trật tự xã hội, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thực hiện hai loại hình bảo hiểm: Bảo hiểm xã hội – mang tính bắt buộc và Bảo hiểm rủi ro – mang tính tự nguyện. Ơ Việt Nam, bảo hiểm xã hội do nhà nước tổ chức và quản lý, đươc thực hiện chủ yếu đối với những người làm công hưởng lương; hiện nay có khoảng hơn 5 triệu người tham gia loại bảo hiểm này. Còn các loại hình bảo hiểm rủi ro, nhà nước chủ trương cho thực hiện từng bước một, phù hợp với nhu cầu thực tế và khi điều kiện kinh tế – xã hội cho phép. Vào cuối năm 1987, thực hiện chiến lược đổi mới nền kinh tế, nhà nước ta đã ban hành luật về đầu tư nước ngoài vào Việt Nam; cho phép các nhà đầu tư, các liên doanh được phép thực hiện bảo hiểm tại Bảo Việt hoặc tại các công ty bảo hiểm khác do thoả thuận, đã mở đầu cho việc phát triển thị trường bảo hiểm tại Việt Nam. Cùng với sự gia tăng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, bãi bỏ bao cấp trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước, đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp, nghị định 100/CP ngày 18-12-1993 của Chính phủ về kinh doanh bảo hiểm đã làm cho nhu cầu bảo hiểm tăng lên, thị trường bảo hiểm phát triển một cách đột biến; 7 công ty bảo hiểm mới ra đời, hơn 36 văn phòng đại diện của các công ty bảo hiểm nước ngoài được phép hoạt động (trước đó chỉ có Bảo Việt). Riêng bảo hiểm nhân thọ, được Bảo Việt triển khai đầu tiên vào năm 1996 và đến cuối năm 1999, Bộ Tài chính đã cho phép 4 công ty bảo hiểm nhân thọ nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Đến nay, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có gần 20 doanh nghiệp bảo hiểm, tái bảo hiểm và môi giới bảo hiểm, trong đó có trên 50% là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Quy mô thị trường cũng phát triển nhanh chóng Sự tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm trong thời gian này chủ yếu thuộc khu vực bảo hiểm nhân thọ, tốc độ tăng trưởng trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ chỉ vào khoảng 15%/năm trong những năm gần đây. Sản phẩm bảo hiểm cũng đa dạng và phong phú hơn, trước thời kỳ đổi mới chỉ có khoảng 20 loại sản phẩm, thu hẹp trong một số lĩnh vực truyền thống như bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, bảo hiểm tàu biển, bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm tai nạn con người. Đến nay, các sản phẩm bảo hiểm đã bao trùm hầu hết các lĩnh vực khác nhău của đời sống xã hội. 1.1.5 Công ty kiểm toán Đến nay, Việt Nam đã có 18 công ty kiểm toán độc lập, bao gồm 5 công ty nhà nước, 8 công ty tư nhân, 4 công ty 100% vốn nước ngoài và 1 công ty liên doanh với tất cả trên 1500 lao động; trong đó, khoảng 300 người đã được cấp chứng chỉ kiểm toán viên quốc gia và một số người đã có chứng chỉ kiểm toán viên quốc tế. Cùng với việc phát triển nhanh chóng về số lượng, việc tạo lập và hoàn thiện từng bước môi trường pháp lý và hệ thống các nguyên tắc, thông lệ, chuẩn mực về nghiệp vụ kiểm toán cũng được tiến hành song song và đã tạo được các điều kiện thuận lợi ban đầu để hệ thống kiểm toán Việt Nam phát triển, từng bước đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước cũng như chuẩn bị tham gia hội nhập vào thị trường tài chính khu vực Tuy nhiên, trên thực tế, ngành kiểm toán Việt Nam vẫn còn nhiều yếu kém, nhất là kinh nghiệm nghề nghiệp của kiểm toán viên và năng lực quản lý của các công ty. Trong lúc đó, còn nhiều quy định hạn chế phạm vi hoạt động của các công ty kiểm toán nước ngoài và các công ty kiểm toán Việt Nam thì vẫn được nhà nước bảo hộ nhiều nên chưa tạo được môi trường cạnh tranh lành mạnh để kích thích các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao chất lượng hoạt động, dẫn đến tình trạng khách hàng không mấy thoả mãn khi sử dụng các thông tin kinh tế-tài chính do các công ty kiểm toán Việt Nam đưa ra. Môi trường pháp lý cho hoạt động kiểm toán còn thiếu và chưa thực sự đồng bộ, chưa phù hợp với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế; đặc biệt là sự ràng buộc về trách nhiệm pháp lý đối với các thông tin kế toán do kiểm toán xác nhận cũng như những chuẩn mực về đạo đức nghề nghiệp của các chức danh kiểm toán nhằm đảm bảo tính độc lập, khách quan, trung thực trong hành nghề kiểm toán. Tuy vậy, trong thời gian qua vẫn có một số doanh nghiệp kiểm toán hoạt động tốt, giữ được niềm tin của khách hàng và mở rộng được thị trường Sự ra đời của hệ thống kiểm toán Việt Nam gồm kiểm toán nhà nước, kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ được xem là một trong những thành tựu quan trọng đạt được của công cuộc đổi mới nền kinh tế và kiểm toán được công nhận là một trong những ngành thương mại dịch vụ quan trọng của nền kinh tế Việt Nam hiện nay 1.1.6 Quỹ đầu tư Sự đa dạng hoá các trung gian tài chính trong bối cảnh chuyển đổi sang kinh tế thị trường đã góp phần ra đời các loại hình quỹ đầu tư tại Việt Nam. Trong đó phải kể đến hệ thống quỹ đầu tư phát triển (mô hình quỹ nhà nước) và quỹ đầu tư nước ngoài hiển diện tại Việt Nam. Quỹ đầu tư phát triển: Các quỹ này là những tổ chức tài chính được thành lập bằng các quyết định của Thủ tướng Chính phủ, do Uỷ ban nhân dân địa phương trực tiếp quản lý. Chức năng và nhiệm vụ của mỗi quỹ đầu tư có phần khác nhau tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế của từng địa phương. Đặc điểm hoạt động của quỹ cho phép khả năng huy động vốn rộng rãi trong công chúng, đầu tư vào các dự án lớn, đặc biệt là các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội, mà lâu nay những dự án loại này vẫn phải chờ ngân sách. hiện nay chúng ta mới chỉ có Quỹ đầu tư nhà nước, chưa có các quỹ đầu tư tập thể để có thể khắc phục được những hạn chế nhất định của Quỹ đầu tư Nhà nước. Hiện nay, ngoài Quỹ đầu tư Nhà nước còn có khá nhiều loại, mô hình quỹ khác hoạt động tại Việt Nam cùng với tên gọi Quỹ. Có quỹ xuất phát từ mục tiêu lợi nhuận, có quỹ không tự hình thành, tự quản lý và cũng tự xử lý khi có sự việc xảy ra Quỹ đầu tư nước ngoài ở Việt Nam:Hiện nay có rất nhiều quỹ đầu tư nước ngoài ở Việt Nam như :Vietnam Fund Ltd, Beta vietnam Fund Ltd, Vietnam Enterprise Fund, Beta Mecong Fund Ltd, Lazard Vietnam Fund Ltd…. Tất cả các quỹ đầu tư hoạt động tại Việt Nam đều là Qũy đóng. Người đầu tư muốn rút vốn có thể trao đổi với nhau hoặc mua bán tại Sở giao dịch nơi quỹ niêm yết. Cách thức hoàn vốn của các qũy là rất khác nhau, có thể hoàn vốn tại một thời điểm nhất định, hoặc cho phép chiết khấu sau mỗi thời hạn nhất định. Quỹ đầu tư chứng khoán:Theo quy định quỹ này do công ty quản lý quỹ cùng vói các tổ chức cá nhân Việt nam và nước ngoài thành lập ,vốn điều lệ tố thiểu là 5 tỷ dồng Việt nam việc lập quỹ có phát hành chứng chỉ quỹ ra công chúng phải được UBCK chấp nhận.Hiện nay thị trường của chúng ta chỉ có quỹ đầu tư chứng khoán VF1,quỹ VF1 thành lập theo giây phép thành lập và phát hành chứng chỉ quỹ ra công chúng ngày 24/3/2004 do UBCKNN cấpvới số vốn điều lệ là 300 tỷ và số lượng chứng chỉ quỹ là 30triệu đơn vị quỹ,thời hạn hoạt đọng của quỹ là 10 năm.Quỹ này đầu tư tối thiểu 60%tổng giá trị tài sản vào các loại chứng khoán dang và sẽ niêm yết, phần còn lại đầu tư vào các loại tài sản khácnhư công cụ của thị trường tiền tệ , bất động sản tiền mặt dự trữ 1.2 Thực trang tham gia của các trung gian tài chính vào thị trường chứng khoán ở Việt Nam 1.2.1. Sự tham gia của các trung gian tài chính vào quá trình thành lập công ty chứng khoán Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, phát triển nền kinh tế Việt nam theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ngay từ những năm đầu thập kỷ 90, lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán đã bước đầu được triển khai nghiên cứu và chuẩn bị, trong đó những người đi tiên phong phải kể đến chính là các cơ quan ngân hàng, thể hiện đầu tiên là việc thành lập Ban nghiên cứu thị trường vốn đặt tại Ngân hàng nhà nước Việt Nam (NHNN). Đồng thời, NHNN cũng đã chỉ đạo các Ngân hàng thương mại (NHTM) xúc tiến việc nghiên cứu các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán, chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện về nhân lực và vật lực để có thể tham gia ngay từ đầu khi thị trường chứng khoán Việt nam ra đời và đi vào hoạt động.Thực hiện Quyết định số 172/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc các tổ chức tín dụng thành lập công ty chứng khoán và tham gia niêm yết chứng khoán, ngày 2/11/1999 NHNN đã có Thông tư số 04/1999/TT-NHNN5 hướng dẫn về việc thành lập công ty chứng khoán của NHTM, theo đó NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần của nhà nước và nhân dân được thành lập công ty chứng khoán trực thuộc, có tư cách pháp nhân và hạch toán độc lập. Hiện nay, các công ty chứng khoán thuộc hệ thống ngân hàng đang giữ vị trí nòng cốt trong số các công ty chứng khoán đang hoạt động trên thị trường. Cho đến nay, NHNN đã chấp thuận cho 4 NHTM quốc doanh gồm NHĐT&PT Việt Nam, Ngân hàng công thương việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam,Ngân hàng ngoại thương Việt nam và các NHTM cổ phần là Ngân hàng á Châu và Ngân hàng thương mại cổ phần quân đội,Ngân hàng Đông á được thành lập công ty chứng khoán. Các công ty chứng khoán trong thời gian vừa qua đều đã triển khai nhiều nghiệp vụ khác nhau như môi giới chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư...và bước đầu thu được những kết quả nhất định. Sự tham gia của Tổng công ty bảo hiểm Việt nam vào thành lập công ty chứng khoán Bảo Việt(BVSC). Nhằm phát huy tối đa mạng lưới chi nhánh sẵn có, cộng với đội ngũ cán bộ nhân viên có năng lực chuyên môn cao trong lĩnh vực tài chính, Tổng công ty Bảo hiểm Việt nam đã có chiến lược thành lập công ty chứng khoán từ rất sớm. Công ty đã triển khai việc đào tạo cán bộ và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật song song với tiến trình thành lập thị trường chứng khoán Việt Nam. Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt là công ty chứng khoán đầu tiên được nhận giấy phép hoạt động của UBCKNN. Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt có trụ sở chính ở Hà nội và chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh để thực hiện tốt vai trò là tổ chức trung gian, BVSC đã sớm tổ chức thực hiện các điểm giao dịch từ xa như điểm giao dịch tại Hải Phòng và Long An thông qua các công ty thành viên của Bảo Việt để phục vụ cho cổ đông của các công ty niêm yết. BVSC cũng đã thực hiện việc điều tra nghiên cứu để triển khai thêm các điểm giao dịch từ xa tại các địa bàn, khu vực kinh tế lớn và phát triển thành các Đại lý nhận lệnh giao dịch 1.2.2. Tham gia của các ngân hàng vào dịch vụ lưu ký chứng khoán. ở Việt Nam, Quy chế lưu ký, thanh toán bù trừ và đăng ký chứng khoán được ban hành kèm theo quyết định số 05/1999/QĐ-UBCK ngày 27/3/1999 và Quyết định số 43/2000/QĐ-UBCK3 ngày 14/6/2000 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế lưu ký, thanh toán bù trừ và đăng ký chứng khoán ban hành kèm theo quyết định số 05/1999/QĐ-UBCK3, được xem là cơ sở pháp lý ban đầu cho việc thành lập và phát triển của một loại hình định chế tài chính phụ trợ hết sức mới mẻ mà không kém phần quan trọng vào sự thành công của thị trường là các thành viên lưu ký của Trung tâm giao dịch chứng khoán. Theo đó thành viên lưu ký bao gồm thành viên lưu ký trong nước và thành viên lưu ký nước ngoài, thành viên lưu ký trong nước là các công ty chứng khoán, ngân hàng thương mại Việt Nam được phép cung cấp các dịch vụ về lưu ký chứng khoán cho các tổ chức và cá nhân trong nước, thành viên lưu ký nước ngoài là các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty chứng khoán liên doanh tham gia cung cấp dịch vụ về lưu ký chứng khoán cho các tổ chức và cá nhân nước ngoài. Đến nay, UBCKNN đã cấp giấy phép hoạt động lưu ký chứng khoán cho 16 tổ chức tham gia làm thành viên lưu tại Trung tâm giao dịch chứng khoán, bao gồm: 13 công ty chứng khoán và 3 chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động hợp pháp tại Việt Nam là tập đoàn ngân hàng HSBC; ngân hàng Deutsche Bank; ngân hàng Standard Chartered Bank. Trong đó, việc tham gia của 3 ngân hàng thương mại làm thành viên viên lưu ký được xem là sự tham gia trực tiếp của các ngân hàng vào dịch vụ chứng khoán mà không cần thiết phải thành lập các công ty con, và đây cũng là 3 ngân hàng thương mại duy nhất ở Việt Nam (bao gồm cả ngân hàng thương mại trong nước và quốc tế) được UBCKNN cấp giấy phép hoạt động lưu ký chứng khoán. 1.2.3. Tham gia của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển vào Ngân hàng chỉ định thanh toán. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam hiện nay có quan hệ đại lý với hơn 400 ngân hàng và quan hệ thanh toán với 50 ngân hàng trên thế giới. Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện dịch vụ chuyển tiền VND cho nhiều chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt nam thông qua mạng lưới chi nhánh rộng lớn tại hầu hết các tỉnh, thành phố trên toàn quốc và hệ thống thanh toán tập trung an toàn, tiện lợi. Dịch vụ chuyển tiền VND góp phần làm phong phú thêm hoạt động thanh toán của ngân hàng và tăng cường quan hệ hợp tác với các ngân hàng nước ngoài tại Việt nam. Đây chính là điều kiện đặc biệt quan trọng để Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt nam được UBCKNN lưạ chọn làm ngân hàng chỉ định thanh toán phục vụ cho hoạt động của TTGDCK. Cho đến nay Ngân hàng Đầu tư và Phát triển đã mở và quản lý tài khoản giao dịch của TTGDCK, 13 công ty chứng khoán thành viên; mở và quản lý tài khoản ký quỹ cho 16 thành viên tham gia đấu thầu trái phiếu chính phủ; thực hiện thanh toán bù trừ chính xác, kịp thời các thanh toán giao dịch chứng khoán giữa các công ty chứng khoán thông qua TTGDCK, đảm bảo thanh toán tiền mua, bán chứng khoán thông suốt cho hàng nghìn nhà đầu tư trên toàn quốc thông qua hệ thống BIDV. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển đã thực hiện tốt các lệnh thanh toán bù trừ bằng tiền, thực hiện lệnh sử dụng Quỹ hỗ trợ thanh toán an toàn theo đúng giới hạn về quỹ hỗ trợ thanh toán, tổ chức tốt việc đối chiếu, kiểm tra các số liệu chuyển tiền thanh toán

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0947.doc
Tài liệu liên quan