Đề tài Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư, giải thích tình hình kích cầu đầu tư ở nước ta

MỤC LỤC

CHƯƠNG I: LÍ LUẬN CHUNG VỀ CHI TIÊU ĐẦU TƯ VÀ KÍCH CẦU ĐẦU TƯ

I.Một số khái niệm cơ bản

1.Khái niệm về đầu tư

2.Phân loại đầu tư

3. Chi tiêu đầu tư

II. Các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư

1. Lợi nhuận kì vọng

2. Lãi suất tiền vay

3. Sản lượng quốc gia

4. Chu kì kinh doanh

5. Đầu tư nhà nước

6. Môi trường đầu tư

7. Lợi nhuận thực tế

8. Các nhân tố vĩ mô khác

III. Kích cầu đầu tư

1. Khái niệm

2. Ý nghĩa của kích cầu đầu tư

3. Các biện pháp kích cầu đầu tư

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ VÀ TÌNH HÌNH KÍCH CẦU ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 ĐẾN NAY

I.Thực trạng đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2000 đến nay

1.Đầu tư trong nước

a. Đầu tư nhà nước

b. Đầu tư dân doanh trong nước

2.Đầu tư từ nước ngoài

a. Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI

b. Viện trợ phát triển chính thức ODA

c. Nguồn kiều hối của kiều bào ở nước ngoài

II.Tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam

1.Chính sách lãi suất

2.Chính sách thuế

3.Đầu tư nhà nước

4.Chính sách tỷ giá

5.Bình ổn giá, kiềm chế lạm phát

6. Xúc tiến thương mại

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT NÂNG CAO HIỆU QUẢ

CHI ĐẦU TƯ VÀ KÍCH CẦU ĐẦU TƯ Ở NƯỚC TA

 

I.Nhóm giải pháp thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn

1. Huy động và sử dụng nguồn vốn nhà nước

2. Huy động và sử dụng nguồn vốn FDI

3. Huy động và sử dụng nguồn vốn ODA

II. Nhóm giải pháp cải thiện môi trường đầu tư

1.Nhóm giải pháp về luật pháp, chính sách

2.Nhóm giải pháp về qui hoạch

3.Nhóm giải pháp về cải thiện cơ sở hạ tầng

4.Nhóm giải pháp về nguồn nhân lực

5.Nhóm giải pháp về khoa học công nghệ

6.Nhóm giải pháp về giải phóng mặt bằng

7.Nhóm giải pháp về phân cấp, cải cách hành chính

8.Nhóm giải pháp về xúc tiến đầu tư

9.Nhóm giải pháp ổn định hóa môi trường vĩ mô

III.Nhóm giải pháp nhằm tăng hiểu quả các gói kích cầu

1.Về phía Cơ quan quản lý Nhà nước

2.Về phía các đối tượng được thụ hưởng lợi ích từ gói kích cầu

 

doc68 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 6449 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư, giải thích tình hình kích cầu đầu tư ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ứng khoán… cùng với việc cho mở rộng lĩnh vực được phép đầu tư và nâng số phần trăm vốn được đóng góp trong liên doanh đã giúp doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chủ động và làm ăn có lãi. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, giai đoạn 2001-2010, Việt Nam thu hút 12.213 dự án ĐTNN, với tổng vốn đăng ký khoảng 192 tỷ USD và vốn thực hiện khoảng 63 tỷ USD. Sự xuất hiện của những dự án ĐTNN ở nhiều địa phương đã tạo cú hích thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Trong 5 năm 2001 – 2005 khu vực đầu tư nước ngoài đóng góp khoảng 15,5% GDP. Giá trị xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) cũng gia tăng nhanh chóng qua các năm trong năm 2001 – 2005 đạt trên 34 tỷ USD, đóng góp 35% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước; tính cả dầu thô tỷ lệ này là 56%. Riêng năm 2006, xuất khẩu đạt 14,6 tỷ USD tăng 30,1% so với năm trước. Trong vài năm gần đây, rất nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã bắt đầu có lãi. Đó là một nhân tố đáng khích lệ. FDI đã giúp Việt Nam phát triển nhiều ngành công nghiệp và sản phẩm. Hiện nay, FDI chiếm 100% về khai thác dầu, sản xuất ô tô, máy giặt, tủ lạnh, máy điều hoà nhiệt độ, thiết bị văn phòng, … . FDI cũng chiếm 60% sản lượng thép tấm, 28% xi măng, 33% sản phẩm điện/điện tử, 76% thiết bị y tế. FDI cũng đã giúp Việt Nam có một bước tiến lớn hơn vào các thị trường quốc tế, cải thiện tiềm năng xuất khẩu của Việt nam. FDI chiếm một tỷ lệ đáng kể trong các ngành công nghiệp chủ đạo của Việt Nam, cụ thể là 42% công nghiệp giầy da, 25% trong may mặc và 84% trong điện tử, máy tính và các linh kiện. Đóng góp của FDI cho Ngân sách Nhà nước trong giai đoạn 2001 - 2005 là khoảng 3,67 tỷ đô-la Mỹ, với mức tăng nộp ngân sách năm sau cao hơn năm trước, năm 2006 đạt 1,4 tỷ USD, tăng 36,3% so với năm 2005 Nhìn vào cơ cấu vốn đăng ký, một điều dễ nhận thấy là vốn đăng ký giảm mạnh chủ yếu do vốn đăng ký mới sụt giảm. Với 839 dự án đã được cấp Giấy chứng nhận đầu tư trong năm 2009, số dự án mới chỉ bằng 53,9% so với 2008 và vốn đăng ký mới ước đạt 16,34 tỉ USD, chỉ bằng 24,6% so với năm 2008. Điều này là hệ quả của suy thoái kinh tế toàn cầu, các nhà đầu tư trở nên dè dặt hơn trong các quyết định đầu tư mở rộng hoạt động ra nước ngoài. Nếu như năm 2008, năm thu hút FDI đạt mức kỷ lục 71,7 tỉ USD, số dự án có quy mô vốn đăng ký trên 1 tỉ USD là 11 dự án, mức vốn đăng ký bình quân một dự án khoảng 65 triệu USD thì năm 2009, số lượng dự án quy mô trên 1 tỉ USD đã giảm 50%, chỉ còn 5 dự án, quy mô bình quân 1 dự án cũng chỉ bằng 1/3 của năm 2008, khoảng 25 triệu USD/dự án. Điều này dường như phản ánh sự thận trọng hơn của các nhà đầu tư khi quyết định đăng ký đầu tư. Mặc dù số dự án và số vốn đăng ký FDI trong năm 2009 chỉ đạt ở mức thấp khoảng 21,48 tỷ USD (bằng 30% so với năm 2008), nhưng ngược lại, vốn thực hiện vẫn đạt ở mức khá (khoảng 10 tỷ USD, chỉ giảm 13% so với năm 2008).   Tuy nhiên, lĩnh vực thu hút đầu tư lại có sự dịch chuyển mạnh mẽ. Trong khi năm 2008 các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp (912 dự án cấp mới với tổng mức đầu tư 35,6 tỷ USD, chiếm 58,6% số dự án và 53,4% tổng số vốn cấp mới), thì trong năm qua dòng vốn tập trung vào các ngành dịch vụ, đặc biệt là kinh doanh BĐS và lĩnh vực dịch vụ lưu trú và ăn uống. Số dự án cấp mới ngành dịch vụ năm 2009 là 498 dự án với 13,2 tỷ USD (59,3% số dự án và 81,2% tổng FDI cấp mới), các dự án công nghiệp giảm mạnh chỉ đạt 325 dự án với 3 tỷ USD. Cũng theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), trong tháng 3 đã có 1,39 tỷ USD vốn FDI được giải ngân, mức cao nhất kể từ đầu năm đến nay. Tính chung, 3 tháng qua, vốn FDI giải ngân đạt 2,54 tỷ USD, cao hơn cả con số 2,37 tỷ USD vốn đăng ký. Có thể nhận thấy, vốn FDI giải ngân đã có bước tăng trưởng khá mạnh kể từ đầu năm, khởi đầu chỉ có 420 triệu USD trong tháng 1, tiếp đến tăng lên 730 triệu USD tại tháng 2, và trong tháng 3 đã tăng gần gấp đôi so với tháng trước. Trong khi đó, vốn đăng ký tăng thêm cũng trong xu hướng gia tăng. Cụ thể, vốn FDI đăng ký tăng thêm tháng 1 là 5 dự án với 5 triệu USD, tháng 2 là 9 dự án và 81 triệu USD, thì trong tháng 3 đã có 23 dự án đăng ký tăng vốn với tổng vốn đăng ký 248 triệu USD. Như vậy, trong quý 1 đã có 37 dự án tăng vốn với cam kết 334 triệu USD, so với cùng kỳ chỉ bằng 31% về số dự án nhưng lại chiếm 83% về vốn đăng ký, tỷ lệ khá cao so với nhiều tháng trước đó. Cũng trong quý I/2011 đã có 76 dự án FDI trong lĩnh vực chế biến, chế tạo được cấp chứng nhận đầu tư, với tổng vốn đăng ký trên 1,3 tỷ USD. Nếu tính cả 200 triệu USD của 30 dự án tăng vốn, thì cả vốn đăng ký và cấp mới trong lĩnh vực này của quý đầu năm nay là khoảng 1,55 tỷ USD, chiếm 65,4% tổng vốn FDI vào Việt Nam trong vòng 3 tháng qua. Tổng hợp lại, quý 1/2011 đã có 2,37 tỷ USD vốn FDI đăng ký cả cấp mới và tăng vốn, tương đương khoảng 67% cùng kỳ năm 2010. "Nhiều người lo vốn FDI đăng ký mới không cao, nhưng bù lại, vốn giải ngân vẫn rất tích cực. Khi các dự án trong lĩnh vực chế biến, chế tạo đi vào hoạt động, sẽ góp phần gia tăng năng lực sản xuất, tạo hàng hóa cho thị trường Việt Nam", GS- TSKH. Nguyễn Mại, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư bình luận. Theo Tổng cục Thống kê, trong 3 tháng đầu năm, các doanh nghiệp FDI đã đóng góp 10,457 tỷ USD (tính cả dầu thô) trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và đang xuất siêu gần 1 tỷ USD (nếu không tính dầu thô, vẫn nhập siêu 588 triệu USD). Ngược lại, các doanh nghiệp trong nước đã nhập siêu tới gần 4 tỷ USD. 3 tháng đầu năm, nhập siêu của Việt Nam đã giảm dần so với trước, trong khi Trung Quốc, nhà xuất khẩu lớn của thế giới lại bắt đầu nhập siêu. Đây là một chiều hướng rất tích cực và có sự đóng góp đáng kể của các doanh nghiệp FDI   Không thể phủ nhận những đóng góp của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào sự phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam như tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, du nhập công nghệ và phương thức quản lý… Tuy nhiên, đã đến lúc cần phải đánh giá thực sự đúng mức về những mặt trái của FDI tại Việt Nam cũng như giá trị thực mà dòng vốn này mang lại. Nghiên cứu của GS. Nguyễn Quang Thái và Bùi Trinh cho thấy, trong 10 năm (1999- 2009), hệ số sử dụng vốn (ICOR) của khu vực nhà nước, tư nhân và FDI lần lượt là 7,76; 3,54 và 7,91. Hệ số TFP (chuyển giao công nghệ) của các khu vực này trong thời gian đó tương ứng là 8,6; 3,1 và – 17,6. Điều này chứng tỏ hiệu quả đầu tư của khu vực FDI là rất thấp, còn chuyển giao công nghệ hầu như là không có. Trong báo cáo năng lực cạnh tranh Việt Nam do CIEM và Học viện Cạnh tranh Châu Á cùng thực hiện cũng rút ra một số kết luận quan trọng. Theo báo cáo, FDI vào Việt Nam có đóng góp đáng kể đến tăng trưởng xuất khẩu, góp phần tạo việc làm, nhưng không giúp tăng nhiều mức độ thịnh vượng của quốc gia ngoài việc tạo công ăn việc làm ở mức tiền lương tối thiểu trong khu vực chế tạo Nghiên cứu của các cơ quan thực hiện báo cáo cũng chỉ rõ: “Không thấy nhiều bằng chứng về tác dụng tràn của FDI đối với phần còn lại của nền kinh tế trong việc nâng cao năng suất và trình độ công nghệ” Cũng báo cáo cho rằng các lợi thế của Việt Nam trong thu hút FDI như lao động chi phí thấp đang dần mất đi, trong khi kỹ năng lao động chưa được cải thiện tương ứng. “Việt Nam cần một chiến lược mới nếu muốn thu hút FDI chất lượng cao, tạo nhiều giá trị hơn là chỉ tạo việc làm với mức lương tối thiểu”, báo cáo kết luận. Lâu nay, mục tiêu quan trọng nhất đặt ra khi mở của đón đầu tư nước ngoài là thu hút vốn, công nghệ, trình độ quản lý nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh Việt Nam đã không còn được quan tâm đầy đủ. Những chuyển biến trong nhận thức của cơ quan quản lý, rõ nhất chỉ mới giới hạn ở hoán đổi chú ý đến vốn giải ngân, thay vì vốn đăng ký trước đây. 2.2. Viện trợ phát triển chính thức ODA Năm 1993 được lấy làm mốc kể từ ngày Việt Nam bắt đầu tiếp nhận nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) từ các nhà tài trợ song phương, đa phương cũng như các tổ chức phi chính phủ. Đa phần vốn vay ODA ưu đãi đều dùng cho công cuộc xoá đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp nông thôn, giao thông vận tải và thông tin liên lạc. Hiện nay, ngân hàng thế giới là cơ quan viện trợ đa phương lớn nhất, Nhật Bản là quốc gia viện trợ song phương lớn nhất cho Việt Nam. Xét về viện trợ không hoàn lại thì Pháp là lớn nhất và Đan Mạch là thứ nhì. Ngoài ra theo số liệu đến năm 2008, hiện có trên 50 Nhà tài trợ song phương và đa phương đã cung cấp nguồn Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam với mức cam kết năm sau cao hơn năm trước tổng cộng trên 42 tỷ USD. Các ngành nghề được hưởng ODA nhiều nhất ở VN là các ngành thuộc hạ tầng: Giao thông, đô thị, nước sạch và môi trường; thuộc lĩnh vực xoá đói giảm nghèo, thuộc lĩnh vực phát triển con người (y tê/ giáo dục), nông nghiệp (thuỷ sản). Vốn ODA đã có những đóng góp quan trọng trong xóa đói giảm nghèo và hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn tại Việt Nam. Điển hình như sau tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ mức 58%vào năm 1983 xuống còn 37% năm 1998; 28,9% năm 2002 và ước dưới 10% năm 2004. Kết quả này cho thấy Việt Nam đã vượt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs) mà nước ta cam kết với thế giới. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) mà các nhà tài trợ đã cung cấp cho Việt Nam từ năm 1993 đến nay thực sự là nguồn lực quan trọng hỗ trợ cho Việt Nam trong phát triển kinh tế - xã hội, phát triển cơ sở hạ tầng, tăng cường thể chế, phát triển y tế, bảo vệ môi trường, phát triển nông thôn, đặc biệt là trong công cuộc xoá đói, giảm nghèo và phát triển bền vững. Tuy khả năng thu hút ODA của chúng ta tăng trưởng ở mức khá nhưng việc thực hiện vốn cam kết hay nói cách khác là tốc độ giải ngân của Việt Nam còn chậm và chưa đạt được hiệu quả cao và đang có xu hướng sút giảm trong thời gian 3 năm trở lại đây. Tốc độ giải ngân chậm gây ra việc lãng phí, thất thoát vốn gây ra gánh nặng nợ không cần thiết cho thế hệ sau và gây ảnh hưởng xấu cho khả năng thu hút các nguồn đầu tư quốc tế khác. Năm Vốn Cam Kết (Tỷ đô) Vốn Giải Ngân (Tỷ đô) Tỷ Lệ Giải Ngân (%) 2000 2.4 1.65 68.8 2001 2.4 1.5 62.5 2002 2.5 1.53 61.1 2003 2.83 1.42 50.2 2004 3.44 1.65 48 2005 3.44 1.853 53.9 2006 3.75 1.8 48 2007 4.5 2 44.44 2008 5.426 2.2 40.55 2009 5.914 3 50.7 2010 8.064 3.5 43.4 Trong thời gian qua, cộng đồng tài trợ tại Việt Nam đã được mở rộng rất nhiều và hiện có 51 nhà tài trợ, bao gồm 28 nhà tài trợ song phương và 23 nhà tài trợ đa phương đang hoạt động thường xuyên tại Việt Nam. Ngoài các nước là thành viên của Tổ chức OECD-DAC còn có các nhà tài trợ mới nổi như Trung Quốc, Ấn độ, Hung-ga-ri, Séc,... Ngoài nguồn vốn tài trợ ODA, ở Việt nam còn có khoảng 600 các tổ chức phi Chính phủ quốc tế hoạt động với số tiền viện trợ hàng năm lên đến 200 triệu USD trong nhiều lĩnh vực khác nhau, liên quan trực tiếp đến đời sống người dân tại các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Thông qua Hội nghị CG thường niên, tổng vốn ODA đã được các nhà tài trợ cam kết đạt 60tỷ USD với mức cam kết năm sau cao hơn năm trước, kể cả những năm kinh tế thế giới gặp khó khăn như khủng hoảng tài chính khu vực châu Á vào năm 1997 và khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008. Số vốn ODA cam kết nói trên được giải ngân dựa trên tình hình thực hiện các chương trình và dự án được ký kết giữa Chính phủ và các nhà tài trợ. Từ năm 1993 đến nay (tính đến hết tháng 10 năm 2008), Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ đã ký các điều ước quốc tế cụ thể về ODA với tổng số vốn đạt 35,217 tỷ USD, chiếm 82,98% tổng vốn ODA cam kết trong thời kỳ này, trong đó vốn ODA vay ưu đãi chiếm khoảng 80%, vốn ODA không hoàn lại chiếm khoảng 20%. Giải ngân vốn ODA có tiến bộ, song chưa đủ. Việt Nam nhận thức rằng cam kết vốn ODA mới chỉ là sự ủng hộ về chính trị của cộng đồng tài trợ quốc tế, việc giải ngân nguồn vốn này nhằm tạo ra các công trình, sản phẩm kinh tế - xã hội cụ thể để đóng góp vào quá trình phát triển của đất nước mới là quan trọng. Trong thời kỳ 1993-2008 (tính đến hết tháng 10 năm 2008), tổng vốn ODA giải ngân đạt 22,065 tỷ USD, chiếm 52% tổng vốn ODA cam kết và 62,65% tổng vốn ODA ký kết. Có thể nhận thấy trong thời kỳ này tình hình giải ngân vốn ODA có những cải thiện nhất định với chiều hướng tích cực qua các năm. Tuy nhiên, mức giải ngân này vẫn chưa đạt mục tiêu đề ra trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và tỷ lệ giải ngân vẫn còn thấp hơn mức trung bình của thế giới và khu vực đối với một số nhà tài trợ cụ thể. Ưu điểm của vốn ODA: Ta có thể dễ dàng nhận thấy những ưu điểm của nguồn vốn này qua những đặc điểm hay cũng như yêu cầu để một nguồn vốn đầu tư nước ngoài được gọi là ODA đã được nêu ở trên. Thứ nhất: Đây là nguồn vốn viện trợ không hoàn lại hoặc với lãi suất rất thấp và có thời hạn rất dài cho nên chúng ta có thể tận dụng để phát triển cơ sở hạ tầng qua đó tạo môi trường thuận lợi thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài khác như FDI hay các nguồn vốn tài trợ khác của các công ty, tổ chức kinh tế quốc tế khác. Thứ hai: xoá đói giảm nghèo, phát triển xã hội. Thứ ba: tăng cường bảo vệ môi trường và phát triển bền vững: Nhiều dự án ODA hỗ trợ bảo vệ môi trường ở các thành phố lớn. Nhiều dự án ODA đã dành cho việc tăng cường hệ thống cấp nước sạch ở đô thị và nông thôn; cải thiện hệ thống thoát nước thải ở các thành phố lớn. Bảo tồn các di tích văn hóa hay cá danh lam thắng cảnh. Thứ tư: tăng cường thể chế: ODA đã góp phần tăng cường năng lực và thể chế thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính và xây dựng chính sách quản lý kinh tế theo lịch trình phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước và lộ trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường năng lực con người... Thông qua các dự án ODA, hàng ngàn cán bộ Việt Nam được đào tạo và đào tạo lại; nhiều công nghệ sản xuất, kỹ năng quản lý hiện đại được chuyển giao. Thứ năm: quan hệ đối tác chặt chẽ: Quan hệ giữa phía Việt Nam và các nhà tài trợ đã được thiết lập trên cơ sở quan hệ đối tác, đề cao vai trò làm chủ của bên tiếp nhận ODA thông qua các hoạt động hài hoà và tuân thủ các quy trình và thủ tục ODA. Điều này được thể hiện trên nhiều lĩnh vực như phát triển các quan hệ đối tác trong nông nghiệp, lâm nghiệp, hiệu quả viện trợ... nghiên cứu áp dụng các mô hình viện trợ mới (hỗ trợ ngân sách, tiếp cận ngành,...), hài hoà quá trình chuẩn bị dự án, thống nhất hệ thống báo cáo, hài hoà hoá quá trình mua sắm, tăng cường năng lực toàn diện về quản lý ODA. Nước ta được lựa chọn là nước điển hình về tiến hành hài hoà quy trình thủ tục ODA, tuân thủ hệ thống quản lý quốc gia về nâng cao hiệu quả viện trợ. Các nhà tài trợ và Chính Phủ đã có nhiều hợp tác để nâng cao hiệu quả viện trợ theo tuyên bố Hà Nội. Nhược điểm của vốn ODA: Do ODA có một phần là vốn vay với lãi suất thấp và thời hạn vay dài. Mặc dù ta thừa nhận đây là 1 ưu điểm nổi trội của ODA tuy nhiên ta phải thừa nhận thực tế vay thì phải đi kèm với nghĩa vụ trả nợ do thời hạn vay dài cho nên sẽ dẫn tới gánh nặng nợ cho tương lai. Đây là 1 sự rủi ro tiềm ẩn đối với khả năng thanh toán của một quốc gia và Việt Nam chúng ta cũng nằm trong tình trạng này. Điều thứ hai về nhược điểm của ODA và các nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận khi sử dụng nguồn vốn này chính là những điều kiện của các nước cho ODA. Đó là những điều kiện về mở rộng hàng rào thuế quan, sự phụ thuộc về thương mại quốc tế. Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc biệt nhập khẩu tối đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc nước tiếp nhận ODA phải chấpnhận một khoản ODA là hàng hoá, dịch vụ do họ sản xuất. Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông thường, các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của nước viện trợ, dù không trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia.... 2.3. Nguồn kiều hối của kiều bào ở nước ngoài Kiều hối là một nguồn lực quý giá theo nhiều nghĩa, là một kênh mang lại ngoại tệ mạnh cho đất nước mà không một kênh nào có thể sánh nổi về hiệu quả. Bởi vì ngoại tệ thu được từ xuất khẩu tuy rất quý nhưng xuất khẩu thì phải mất chi phí để sản xuất hàng, chi phí vận chuyển mang ra nước ngoài, lại còn phải chịu thuế nhập khẩu, chịu hạn ngạch, chịu kiện bán phá giá, chi phí tiếp thị, quảng cáo... Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam đứng hàng thứ 16/30 quốc gia trên thế giới có lượng kiều hối chuyển về nhiều nhất. Tính đến hết tháng 11/2010, nguồn thu từ kiều hối đã đạt 7,6 tỷ USD. Ước tính lượng kiều hối trong cả năm 2010 là 8 tỷ USD, tăng khoảng 25,6% so với tổng lượng kiều hối của cả năm 2009. Phần lớn các ngân hàng thương mại cho biết, lượng kiều hối gửi về tăng trên 20% so với năm 2009. Kết thúc năm 2010, doanh số kiều hối chuyển qua Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) đạt 1,3 tỷ USD, tăng 45% so với năm 2009. Doanh số kiều hối qua Công ty kiều hối Đông Á đạt 1,2 tỉ USD, tăng 20% so với năm 2009. Lượng kiều hối chuyển qua Ngân hàng TMCP Ngoại thương cũng đạt trên 1,2 tỉ USD. Mức tăng đột biến của dòng kiều hối về Việt Nam trong năm 2010 là khá bất ngờ bởi năm 2009 kiều hối chuyển về nước giảm gần 13% so với năm 2008, xuống 6,3 tỉ USD.       Ngoài ra, theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam đứng hàng thứ 16/30 quốc gia trên thế giới có lượng kiều hối chuyển về nhiều nhất. Nhìn nhận về bức tranh kiều hối khả quan  nêu trên, WB dự báo năm 2011, lượng kiều hối chuyển về Việt Nam có thể sẽ còn tăng thêm  trên 6%.       Bên cạnh nguồn kiều hối thông thường của người dân gửi về hàng năm, theo nhận định và đánh giá của một số chuyên gia kinh tế có uy tín tạiViệt Nam, sở dĩ năm nay lượng kiều hối đổ về Việt Nam có phần tăng lên chủ yếu nhờ vào các yếu tố chính sau: - Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới vẫn còn phải đang chống đỡ và gượng dậy sau khủng hoảng, nhất là sự bất ổn tài chính gần đây của đồng tiền Eurozon, việc chuyển tiền và đầu tư về Việt Nam có xu hướng thuận lợi hơn. Một trong các hạng mục được chú ý nhất là việc đầu tư vào bất động sản có giá như đất đai ở những vị trí đẹp, thuận lợi dành cho khai thác du lịch, văn phòng và khách sạn. Một số tài liệu báo cáo thống kê gần đây cho thấy có đến 45-50% lượng kiều hối  đã được đầu tư vào thị trường bất động sản. -  Hầu hết các chuyên gia đều nhắc đến yếu tố thông thoáng và cởi mở trong chính sách kiều hối của Việt Nam, đó là việc cho phép gửi và nhận tiền bằng đồng USD. Trong đó, có phần đóng góp đáng kể của các ngân hàng thương mại với việc triển khai và nâng cấp liên tục dịch vụ kiều hối trên các kênh trực tiếp tại trụ sở, trực tuyến và thậm chí, đến tận gia đình. -  Đáng chú ý  và cũng là yếu tố chính, tạo động lực cho việc “khơi thông dòng chảy  kiều hối” là sự chênh lệch lãi suất, trong khi lãi suất của đồng USD trên thế giới hiện nay khá thấp (lãi suất cho vay liên ngân hàng thế giới chỉ dao động quanh 0,23-0,78%/năm cho tất cả các kỳ hạn) thì tại Việt Nam, các ngân hàng thương mại áp dụng mức lãi suất huy động USD xoay quanh 5%/năm là mức cao. Người gửi tiền chắc chắn cũng muốn đồng tiền của họ sinh lợi nhiều hơn nên đã gửi về đây để nhận lãisuất tốt hơn. Xét trên cả 3 yếu tố tạo ra nguồn kiều hối nêu trên thì hai yếu tố sau là cơ sở bền vững cho việc tạo nguồn. Căn cứ vào báo cáo tổng kết năm 2010 của Bộ Xây dựng, mặc dù giá nhà, đất vẫn đang tăng và đứng ở mức cao nhưng thị trường này vẫn mang đầy rủi ro, dễ trồi sụt…Đây là kết quả của việc quản lý bất cập, chứ không phải giá trị đích thực của thị trường đem lại. Do vậy, để “dòng chảy kiều hối” phát huy được hiệu quả, thiết nghĩ, đây là những kênh thông tin tham khảo cần thiết cho việc hoạch định chính sách quản lý ngoại hối theo sát được diễn biến tình hình, tiến tới việc chủ động duy trì nguồn kiều hối góp phần giảm áp lực khan hiếm USD và phát triển kinh tế đất nước.           II. TÌNH HÌNH KÍCH CẦU ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 ĐẾN NAY: 1.Chính sách lãi suất. Giai đoạn 2000-2007, lãi suất được giữ ở mức tương đối ổn định, trung bình khoảng 9%/năm; nhưng tới cuối năm 2007 tới nay, do diễn biến phức tạp của khủng hoảng tài chính thế giới và bối cảnh nền kinh tế Việt Nam bất ổn, lãi suất có nhiều thay đổi linh hoạt để xốc dậy nền kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô và quan trọng hơn cả là hỗ trợ hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp. Năm 2008, để chống chọi lại những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã quyết định điều chỉnh lãi suất, cụ thể là giảm lãi suất cơ bản từ 14%/năm qua 5 lần cắt giảm xuống còn 8,5%/năm. Quyết định đúng thời điểm này của NHNN đã giúp các doanh nghiệp cắt giảm được chi phí sản xuất kinh doanh, duy trì hoạt động và vượt qua giai đoạn khó khăn. Bước sang năm 2009, NHNN tiếp tục hạ các loại lãi suất cơ bản như sau: Loại lãi suất %/năm Tăng % Lãi suất cơ bản 7 % -1,5% Ls cho vay tối đa của các tổ chúc tín dụng 10,5% -2,7% Lãi suất tái cấp vốn 8% -1,5% Lãi suất tái chiết khấu 6% -1,5% * Tới cuối năm 2009, khi nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng đã dần bước qua giai đoạn khủng hoảng và từng bước phục hồi, lãi suất cơ bản được nâng lên 8%/năm, lãi suất cho vay của các Ngân hàng thương mại lúc này là 12%/năm nhằm hỗ trợ thực hiện các mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên thì các hậu quả của cuộc khủng hoảng để lại vẫn còn rõ nét, năm 2008 có khoảng 20% DN phá sản, 60% DN gặpkhó khăn, 20% DN còn đứng vững, quả là những con số đáng lo ngại đối với một nền kinh tế đang phát triển. Đứng trước tình hình này, năm 2009, Chính phủ đã ban hành Quyết định 131/CP, hỗ trợ lãi suất ngắn hạn cho khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa, trị giá 1 tỷ USD. Theo đó: Nguyên tắc hỗ trợ lãi suất là các ngân hàng thương mại cho vay các nhu cầu vốn lưu động để hoạt động sản xuất – kinh doanh theo cơ chế tín dụng thông thường và thực hiện hỗ trợ lãi suất theo đúng quy định của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư hướng dẫn; không được từ chối hỗ trợ lãi suất, nếu khoản vay thuộc đối tượng được hỗ trợ lãi suất; định kỳ báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để kiểm tra, giám sát tình hình hỗ trợ lãi suất. Thời hạn vay được hỗ trợ lãi suất tối đa là 08 tháng kể từ ngày giải ngân, áp dụng trong năm 2009 đối với các khoản vay theo hợp đồng tín dụng được ký kết và giải ngân trong khoảng thời gian từ ngày 01 tháng 02 đến 31 tháng 12 năm 2009; các khoản vay có thời hạn vay vượt quá năm 2009, thì chỉ được hỗ trợ lãi suất đối với khoảng thời gian vay của năm 2009; các khoản vay quá hạn trả nợ, được gia hạn nợ vay thì không được tính hỗ trợ lãi suất đối với khoảng thời gian quá hạn trả nợ và gia hạn nợ vay. Mức lãi suất hỗ trợ cho khách hàng vay là 4%/năm, tính trên số dư nợ vay và thời hạn cho vay thực tế nằm trong khoảng thời gian từ ngày 01 tháng 02 đến 31 tháng 12 năm 2009. Tháng 11 năm 2009, tăng trưởng tín dụng lúc này quá nóng, đã vượt 34% và tạo sức ép tới tỷ giá nên việc hỗ trợ lãi suất ngắn hạn phải dừng lại trước ngày 31/12/2009; mặc dù trước đó chủ trương của Chính phủ là ổn định chính sách tiền tệ và duy trì chính sách kích cầu ngắn hạn đến hết quý I năm 2010 để hỗ trợ doanh nghiệp bứt phá hẳn khỏi khủng hoảng với mức lãi suất giảm từ 4% xuống 2%. Năm 2010, Nhà nước tiếp tục hỗ trợ lãi suất 2%/năm cho các khoản vay (bằng Việt Nam đồng) trung và dài hạn để thực hiện đầu tư mới phát triển sản xuất - kinh doanh đối với các ngành và lĩnh vực kinh tế: nông nghiệp và lâm nghiệp; thủy sản; công nghiệp chế biến; hoạt động khoa học công nghệ; ; hoạt động thu mua và kinh doanh các mặt hàng nông sản, lâm sản, thủy sản, muối. Ngày 9/10/2010, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam đã chính thức quyết định kéo dài việc hỗ trợ lãi suất 4% đối với các tổ chức, cá nhân vay vốn trung, dài hạn đến ngày 31/12/2011 (được hướng dẫn cụ thể trong thông tư 21) thay cho Thông tư 05 hết hạn vào 31/12/2009. Tổng kết sơ bộ tình hình thực hiện gói hỗ trợ lãi suất năm 2009, theo báo cáo nhanh của các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất (HTLS) bằng đồng Việt Nam đến ngày 17/12/2009 là 415.216,48 tỷ đồng. So với ngày 10/12/2009, số dư nợ cho vay tăng 387,74 tỷ đồng (tương đương tăng 0,09%). Cụ thể, dư nợ theo nhóm tổ chức tín dụng: Nhóm NHTM nhà nước và Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương là 276.668,75 tỷ đồng, tăng 191,8 tỷ đồng (tương đương tăng 0,07%); nhóm ngân hàng thương mại cổ phần là 108.762,04 tỷ đồng, giảm 180,72 tỷ đồng (tương đương giảm 0,16%); nhóm ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng 100% vốn nước ngoài là 21.222,83 tỷ đồng, tăng 117,04 tỷ đồng (tương đương tăng 0,55%); công ty tài chính là 8.562,86 tỷ đồng, tăng 259,62 tỷ đồng (tương đương tăng 3,12%). Ngoài ra, dư nợ phân theo đối tượng khách hàng vay vốn: Doanh nghiệp nhà nước 59.817,17 tỷ đồng; doanh nghiệp ngoài nhà nước (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài …) 290.093,48 tỷ đồng; hộ sản xuất là 65.305,84 tỷ đồng.(Nguồn: SBV,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐỀ TÀI- Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư Giải thích tình hình kích cầu đầu tư ở nước ta.doc
Tài liệu liên quan