Đề tài Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách

Mục lục

 

C/ YẾU TỐ GIÁO DỤC VÀ SỰ HÌNH THÀNH, 4

PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH 4

I. Khái niệm giáo dục 4

II. Vai trò của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách 12

1. Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển nhân cách 13

2. Điều kiện để giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự phát triển nhân cách 20

1. Những “lỗ hổng” trong giáo dục nhân cách trẻ em 23

III. Kết luận sư phạm 25

D/ Hoạt động cá nhân đối với sự phát triển và hình thành nhân cách trẻ. 26

I. Khái niệm. 26

1. Hoạt động là gì? 26

2. Hoạt động cá nhân là gì? 27

II. Vai trò của yếu tố hoạt động cá nhân đối với sự hình thành và phát triển nhân cách. 27

1. Hoạt động của cá nhân. 28

2. Giao tiếp với nhân cách. 29

III.Liên hệ sư phạm 34

 

 

docx39 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 13521 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rí-tín, Mặc gia lấy “kiêm ái” để trị nước, còn Đạo gia theo “vô vi nhị trị”, thì Pháp gia đề cao pháp luật trong phép trị nước. Đại biểu cho Pháp gia là: Quản Trọng-Thận Đáo-Thân Bất Hại-Thương Ửơng-Hàn Phi Tử. Vai trò của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách Giáo dục là quá trình hoạt động tự giác, chủ động đến con người nhằm thỏa mãn nhu cầu hình thành và phát triển nhân cách cá nhân và đáp ứng yêu càu của xã hội. Giáo dục là toàn bộ những tác động của nhà trường, gia đình và xã hội. Trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách, giáo dục giữ vai trò chủ đạo, Điều đó được thể hiện như sau: + Giáo dục vạch ra nội dung và chiều hướng của sự phát triển nhân cách và tổ chức cho nhân cách phát triển theo nội dung và chiều hướng đã vạch ra. + Giáo dục là con đường thuận lợi nhất để cá nhân tiếp thu kinh nghiệm lịch sử, xã hội để tạo ra sự phát triển nhân cách. + Giáo dục là yếu tố tác động vào sự phát triển nhân cách có hiệu quả nhất vì đó là hoạt động có tổ chức, có kế hoạch, có phương pháp khoa học… + Giáo dục có thể phát huy những mặt ưu điểm của các yếu tố khác và khắc phục, bù đắp những khiếm khuyết của các yếu tố khác VD: Bồi dưỡng trẻ có năng khiếu thành tài năng, giáo dục cho trẻ mù, thiểu năng trí tuệ, người có hoàn cảnh khó khăn… + Giáo dục còn có khả năng uốn nắn những sai lệch của nhân cách cho phù hợp với yêu cầu của xã hội. Tuy vậy, chúng ta cũng không nên tuyệt đối hóa vai trò của giáo dục, coi giáo dục là vạn năng. Bởi vì nhân cách con người còn chịu sự chi phối của nhiều yếu tố khác. Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển nhân cách Theo thuyết tiền đỉnh(thuyết sinh học) Sự phát triển nhân cách do yếu tố di truyền quyết định, môi trường và giáo dục không có vai trò gì trong sự phát triển nhân cách Quan điểm đặc trung cho dòng phái nguồn gốc sinh học trong việc giải thích sự phát triển nhân cách là quan điểm về “những đặc điểm bẩm sinh”của trẻ là xu thế, hiểu hành vi và sự phát triển của con người một cách đơn giản, máy móc. Đối với những người theo học thuyết nguồn góc sinh học thì nhân tố sinh học, mà trước hết là tính di truyền là nhân tố có tác dộng quyết định. Sai lầm cơ bản của thuyết này là tuyệt đối hóa ảnh hưởng của yếu tố di truyền Theo thuyết duy cảm Môi trường là yếu tố quyết định sự phát triển nhân cách , giáo dục là van năng Quan điểm của John locke (là đại biểu của triết học duy vật duy cảm Anh) đưa ra nguyên lí “tabula- tấm bảng sạch’, linh hồn chúng ta khi mới sinh ra, có thể nói như một tờ giấy trắng, không có một kí hiệu hay ý niệm nào cả. mọi tri thức con người không phải là bẩm sinh, mà là kết quả của nhận thức. chúng dần có được nhờ kinh nghiệm. mọi quá trình nhận thức đều phải xuất phát từ các co quan trong cảm tính. Linh hồn con ngưởi không đơn giản là tấm bảng sạch hoàn toàn thụ động trướn hoàn cảnh xung quanh, mà có vai trò nhất định. Thuyết này cho rằng trẻ em như tờ giấy trắng, môi trường và giào dục tác động như thế nào thì sẽ phát triển như thế ấy. sai lầm cơ bản của thuyết này là tuyệt đối hóa ảnh hưởng của yếu tố môi trường và giáo dục Giáo dục tự do Quan niệm của Jean Jacques Rousseau (nhà triết học khai sáng Pháp) đề nghị nên giáo dục xã hội theo nguyên tắc tự nhiên và nguyên tắc tự do. Theo ông, khi mới sinh ra con người có những khuynh hướng tự nhiên và tích cực.Ông cho rằng trẻ em không thụ động tiếp nhận các chỉ dẫn của người lớn, mà tham gia một cách tích cực và chủ động vào việc hình thành trí tuệ và nhân cách của mình. Mọi sự can thiệp của người lớn vào sự phát triển của trẻ em đều có hại. vậy lên ông mướn giáo dục theo nguyên tắc tự do. Quan điểm của Macxit về vai trò của giáo dục T Đóng góp lớn lao nhất của Mác về mặt giáo dục là đã phát hiện ra bản chất xã hội của con người. Đó chính là quy luật của sự phát triển và giáo dục nhân cách con người trong xã hội loài người, đó là sự khác biệt giữa con người và con vật. - C.Mác đã tiếp thu tất cả những quan điểm duy vật của nhân loại về con người và bản chất người. Mác cũng thừa nhận rằng con người là một thực tế tự nhiên, là một thực thể sinh vật do quá trình biến đổi của hoàn cảnh tự nhiên và hoàn cảnh xã hội. - Song, Mác lại khẳng định hoàn cảnh tạo ra con người trong chừng mực con người tạo hoàn cảnh , nghĩa là cái hoàn cảnh tạo ra con người ấy cũng chính là do con người đã tạo ra. - Theo Mác, trong quá trình hình thành nhân cách, điều kiện quyết định là hoạt động thực tiễn, hoạt động lao động và hoạt động xã hội. Đó là quan điểm biện chứng để phân biệt Mác với các quan điểm phi Mác xít. Hoạt động xã hội và lao động vừa là điều kiện để hình thành nhân cách vừa là thước đo, đánh giá tính chủ thể của mỗi cá nhân. - Đối với giáo dục, giai cấp vô sản ý thức sâu sắc rằng muốn đào tạo con người phát triển toàn diện, muốn xây dựng một nền giáo dục mới thì phải tiến hành cuộc cách mạng chính trị, cách mạng xã hội làm thay đổi quan hệ xã hội, thiết lập xã hội mới, và chỉ trên quan hệ xã hội đó mới xây dựng nhân cách của con người xã hội tương lai được. - Luận đề của Mác về bản chất xã hội của con người là cơ sở lý luận để các nhà giáo dục hiểu rõ bản chất, động lực, các quy luật của quá trình giáo dục, dạy học xã hội chủ nghĩa. Chỉ có quán triệt sâu sắc luận đề bản chất xã hội của con người mới có thể giải thích được tất cả những hiện tượng giáo dục vô cùng phức tạp đã xảy ra trong xã hội loài người. - Ở góc độ giáo dục, phải thấy hết những đóng góp của Mác là cung cấp cho khoa học giáo dục một phương pháp luận vững chắc để xây dựng lý luận giáo dục xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền giáo dục xã hội chủ nghĩa và tổ chức thực hiện quá trình giáo dục con người của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. T Mác đã vạch ra quy luật tất yếu của xã hội tương lai là đào tạo, giáo dục những con người phát triển toàn diện. - Con người phát triển toàn diện là mơ ước của con người, vì con người có ý thức vươn tới sự toàn diện và đó là sự khác biệt giữa con người và con vật. - Tri thức tối thiểu và cũng là ước muốn tối đa của người nguyên thủy là kinh nghiệm lao động hái lượm, săn bắt, tổ chức thị tộc, bộ lạc, lễ nghi tôn giáo. Đến khi xã hội loài người phân chia giai cấp thì quá trình giáo dục cũng được phân chia theo giai cấp. - Việc đào tạo, giáo dục các thế hệ phát triển toàn diện là điều kiện để phát triển xã hội xây dựng kinh tế, văn hóa, khoa học kĩ thuật. - Theo tinh thần của Mác, con người phát triển toàn diện sẽ là mục đích của nên giáo dục cộng sản chủ nghĩa, và con người phát triển toàn diện là người phát triển đầy đủ, tối đa năng lực sẳn có về tất cả mọi mặt đạo đức, trí tuệ, thể chất, tình cảm, nhận thức, năng lực, óc thẩm mỹ và có khả năng cảm thụ được tất cả những hiện tượng tự nhiên, xã hội xảy ra xung quanh, đồng thời có thể sáng tạo ra những cái mới theo khả năng của bản thân. - Vì vậy, con người phát triển toàn diện theo quan điểm của Mác, trước hết phải là sự phát triển không ngừng của tất cả các mặt. song, điều đó không mâu thuẩn với sự phát triển thiên hướng, phát triển năng khiếu chuyên biệt, mà ngược lại, sự phát triển các mặt là tạo điều kiện cho các năng lực chuyên biệt càng hoàn thiện và càng phát triển tốt hơn. T Mác đã vạch ra những nguyên tắc cơ bản để đào tạo, giáo dục những con người phát triển toàn diện của xã hội tương lai. - Đó là sự kết hợp một cách hợp lý giữa giáo dục đạo đức, thể dục, trí dục và lao động sản xuất, đó là sự kết hợp giữa lao động sản xuất và thực hiện giáo dục bách khoa (giáo dục kĩ thuật tổng hợp) trong việc tổ chức cho trẻ em tham gia hoạt động thực tiển, hoạt động xã hội. - Mác đã đi đến nhận định rằng trong xã hội tương lai “lao động kết hợp với trí dục và thể dục, đó không những là một phương pháp làm tăng thêm sản xuất xã hội mà còn là một phương pháp duy nhất và độc nhất để đào tạo những con người phát triển toàn diện”. - Theo Mác, việc tổ chức lao động sản xuất cần để cho trẻ vận dụng những tri thức tiếp thu được qua quá trình trí dục, phải đảm bảo hiệu quả kinh tế và nhằm phát triển thể lực và giáo dục đạo đức, cần phát huy ý thức tự giác của trẻ và xuất phát từ đặc điểm tâm lý của trẻ. - Giáo dục kĩ thuật tổng hợp liên quan mật thiết với giáo dục lao động và tổ chức lao động sản xuất. Theo Mác, xã hội tương lai mới có đủ điều kiện thực hiện giáo dục kĩ thuật tổng hợp. giáo dục kĩ thuật tổng hợp vừa là một bộ phận hợp thành nội dung các mặt giáo dục, đồng thời lại vừa như một nguyên tắc của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. - Ngày nay, nền sản xuất công nghệ hiện đại ở các nước phát triển đã buộc phải thực hiện những lý tưởng giáo dục kĩ thuật tổng hợp theo quan điểm của C.Mác. T Những ý kiến của Mác về nội dung giáo dục cộng sản chủ nghĩa. - Theo Mác, giáo dục gồm 3 bộ phận + Trí dục + Thể dục, tức giáo dục thể chất và huấn luyện quân sự + Giáo dục bách khoa ( là giáo dục kĩ thuật) tức là giới thiệu các nguyên tắc cơ bản về quá trình sản xuất và hướng dẫn cho trẻ em và thanh niên có thói quen sử dụng tất cả các công cụ sản xuất đơn giản - Một nền sản xuất đáp ứng được những đòi hỏi không ngừng của con người thì khoa học kĩ thuật giữ vị trí quyết định. Muốn vậy nền giáo dục của xã hội tương lai ấy phải lấy trí dục làm nhiệm vụ chủ yếu. - Về nội dung của các mặt giáo dục, Mác cũng có những ý kiến, tuy chưa thật cụ thể, nhưng đó là những phương hướng quan trọng. + Về trí dục • Mác đòi hỏi phải trang bị cho thế hệ trẻ những tri thức khoa học hiện đại vì “khoa học” là lực lượng thúc đẩy cách mạng trong lịch sử. • Mác yêu cầu việc giảng dạy trong nhà trường phải cung cấp những tri thức hệ thống, cơ bản; những quy luật, những tri thức hiện đại để con người có khả năng vận dụng những tri thức đó vào cải tạo tự nhiên và xã hội. + Về đức dục • Đóng góp lớn lao nhất của Mác là ở chỗ vạch trần tính chất giai cấp của đạo đức, lên án sâu sắc đạo đức tư sản. • Hiểu theo quan điểm của Mác, không chỉ là hình thành ở thế hệ trẻ những chuẩn mực của quan hệ cư xử như đức hạnh, mà đó là lập trường tư tưởng, ý thức giai cấp, đó là nhân sinh quan, thế giới quan khoa học. + Về thể dục và quân sự • Là một mặt nhằm đào tạo con người phát triển toàn diện, góp phần tích cực thúc đẩy và hoàn thiện trí tuệ, tâm hồn… và làm cho con người có đủ khả năng làm chủ bản thân, tham gia vào các quá trình sản xuất và hoạt động xã hội. • Làm cho con người vui tươi, hạnh phúc giúp con người nâng cao hiệu quả, hiệu suất của hoạt động và lao động sản xuất, sức nhạy bén, nhanh nhẹn, chính xác, tính kỹ luật, sự dũng cảm... được phát triển. • Mác cũng quan niệm rất đúng đắn rằng giáo dục thể chất và quân sự phải phù hợp với đặc điểm tâm lý, sinh lý lứa tuổi và ngoài các hình thức thể dục bình thường, nên tăng cường du lịch, kết hợp với tổ chức lao động sản xuất hợp lý. + Về mĩ dục • cũng như thể dục Mác coi đó là một thành phần nhằm hình thành con người toàn diện. • muốn giáo dục, đào tạo những con người có nhận thức đúng, tình cảm trong sáng không thể coi nhẹ mĩ học. yêu cầu của mĩ dục là hình thành quan điểm thẩm mĩ đúng đắn, tình cảm thẩm mĩ sâu sắc và phải có khả năng sáng tạo ra cái đẹp, đánh giá đúng giá trị nghệ thuật của người khác sáng tạo. Giáo dục thẩm mĩ phải thông qua dạy học và hoạt động nghệ thuật. ♣ Kết Luận - Ngoài những nội dung chủ yếu ở trên Mác còn là người đặt nền móng cho những luận điểm rất cơ bản của giáo dục vô sản như: vấn đề quần chúng với giáo dục, bản chất của giáo dục và tính chất của nhà trường, chủ nghĩa nhân đạo trong giáo dục, vấn đề tôn giáo trong nhà trường, những vấn đề tâm lý học trong giáo dục… - Tuy những vấn đề trên chưa cụ thể chi tiết nhưng những ý kiến của Mác là phương hướng, là kim chỉ nam, có tính nguyên tắc để phân biệt lý luận giáo dục xã hội chủ nghĩa với giáo dục tư sản về bản chất. - Những tư tưởng giáo dục của Mác là kim chỉ nam cho giai cấp vô sản trong hoat động thực tiển, những tư tưởng đó là lần đầu tiên được thử nghiệm sau khi công xã Paris được thành lập và được thực hiện một cách triệt để từ sau cách mạng tháng 10 – 1917. Giáo dục định hướng và tổ chức dẫn dắt quá trình hình thành, phát triển nhân cách của cá nhân Xác định mục đích giáo dục cho cả hệ thống, cho từng bậc học, trường học và từng hoạt động giáo dục cụ thể. Xây dựng nội dung, chương trình, kế hoạch dạy học và giáo dục, lựa chọn phương pháp, phương tiện và hình thức giáo dục đáp ứng mục đích giáo dục, phù hợp với nội dung và đối tượng, điều kiện giáo dục cụ thể. Tổ chức các hoạt động giao lưu. Đánh giá, điều chỉnh nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục… Sự định hướng của giáo dục không chỉ thích ứng với những yêu cầu của xã hội hiện tại mà còn phải thích hợp với yêu cầu phát triển của tương lai để thúc đẩy sự phát triển của xã hội. vì vậy, giáo dục phải đi trước, đón đầu sự phát triển. Muốn đi trước, đón đầu sự phát triển, giáo dục căn cứ trên những dự báo về gia tốc phát triển của xã hội, thiết kế nên mô hình nhân cách của con người thời đại với hệ thống định hướng giá trị tương ứng. Giáo dục can thiệp, điều chỉnh các yếu tố khác nhằm tạo sự thuận lợi cho quá trình phát triển nhân cách Các yếu tố bẩm sinh- di truyền, môi trường và hoạt động cá nhân đều có ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách ở các mức độ khác nhau, tuy nhiên yếu tố giáo dục lại có thể tác động đến cá yếu tố này để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển nhân cách. Đối với di truyền Giáo dục tạo điều kiện thuận lợi để những mầm mống của con người có trong chương trình gen được phát triển. VD: trẻ được di truyền cấu tạo cột sống với dáng đi thẳng nhưng nếu không có sự giáo dục thì sẽ không đi thẳng được như trường hợp của em bé người Ấn Độ sống với chó sói nên di chuyển bằng tứ chi. Giáo dục rèn luyện, thúc đẩy sự hoàn thiện của các giác quan và vận động cơ thể. Giáo dục phát hiện những tư chất của cá nhân và tạo điều kiện đẻ phát huy năng khiếu thành năng lực cụ thể. Giáo dục tìm cách khắc phục những khiếm khuyết của cơ thể để khạn chế những khó khăn của người khuyết tật trong sự phát triển nhân cách. Ngoài ra, giáo dục còn góp phần tăng cường nhận thức trong xã hội về trách nhiệm của cộng dồng đối với người khuyết tật và tổ chức cho toàn xã hội chia sẻ, hỗ trợ người khuyết tật vượt qua khó khăn và bất hạnh của mình. Đối với môi trường Giáo dục tác động đến môi trường tự nhiên qua việc trang bị kiến thức và ý thức bảo vệ môi trường của con người,, khắc phục được sự mất cân bằng sinh thái, làm cho môi trường tự nhiên trở nên trong lành, đẹp đẽ hơn. Giáo dục tác động đến môi trường xã hội lớn thông qua các chức năng kinh tế- xã hội, chức năng chính trị- xã hội, chức năng tư tưởng văn hóa của giáo dục. Giáo dục còn làm thay đổi tính chất của môi trường xã hội nhỏ như gia đình, nhà trường, khu phố,…Để các môi tường nhỏ tạo nên những tác động lành mạnh, tích cực đến sự phát triển nhân cách con người Đối với hoạt động cá nhân Giáo dục tổ chức nhiều loại hình hoạt động giao tiếp bổ ích, lành mạnh nhằm phát huy những phẩm chất và năng lực của cá nhân. VD: Sân chơi ở các nhà văn hóa cho mội lứa tuổi, các câu lạc bộ xây dựng gia đình hạnh phúc tại địa phương - Công tác giáo dục luôn xây dựng các mối quan hệ giao tiếp tích cực giữa thầy trò, giữa bạn bè với nhau đồng thời tổ chức và định hướng cho trẻ tham gia vào các hoạt động chủ đạo ở từng lứa tuổi để thúc đẩy sự phát triển nhân cách. - Giáo dục tạo tiền đề cho tự giáo dục ở cá nhân. Tự giáo dục thể hiện tính chủ thể của cá nhân khi con người đáp ứng hoặc tự vận động nhằm chuyển hóa các yêu cầu của giáo dục thành phẩm chất và năng lực của bản thân. Trình độ, khả năng tự giáo dục của cá nhân phần lớn bắt nguồn từ sự định hướng của giáo dục. Giáo dục đúng đắn và đầy đủ sẽ giúp con người hình thành khả năng tự giáo dục, đè kháng trước những tác động tiêu cực của xã hội để phát triển nhân cách mạnh mẽ. “chỉ có những người biết tự giáo dục mới là những người thực sự có giáo dục.” (Bennet-Anh) Điều kiện để giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự phát triển nhân cách - Như vậy thông qua các tác động đón đầu sự phát triển,giáo dục koong chỉ tác động sự phát triến nhâ cách cá nhân mà còn thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên giáo dcj không phải là vạn năng, không thể một mình quyết định toàn bộ tiến trình phát triển nhân cách. Giáo dục không chỉ là một trong các yếu ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển nhân cách thông qua những tác động có tính chủ đạo. Vì vậy, để giáo dục thực sự đóng vai trò chủ đạo đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cần có cách điều kiện sau: + Công tác dự báo về xu hướng phát triển của xã hội phải đưa ra những định hướng đúng đắn để giáo dục thực hiện đúng chức năngđón đầu sự phát triển. + Các yếu tố trong giáo dục phải thống nhất với nhau, nhà giáo dục phải giữ vai trò chủ đạo, người được giáo dục phải thể hiện vai trò chủ động. + Phải có sự kết hợp chặt chẽ ba lực lượng giáo dục: gia đình, nhà trường và xã hội, trong đó nhà trường đóng vai trò chủ đạo. Những yếu kèm của giáo dục thường có nguyên nhân từ sự thiếu phối hợp đồng bộ giữa ba lực lượng này. + Nhà giáo dục phải nắm vững đặc điểm tâm sinh lí của người được giáo dục. + Nhà giáo dục phải co phẩm chất và năng lực để làm tốt công tác giáo dục. Giáo dục qua từng thời kì lịch sử ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách con người. - Lịch sử là diễn biến có thật của sự vật, hiện tượng. Sự xuất hiện, tồn tại và biến đổi của sự vật, hiện tượng. Giáo dục thời kì công xã nguyên thủy Xã hội công xã nguyên thủy kéo dài hàng triệu năm. Sống dựa vào tự nhiên.Lao động rất đơn giản như săn bắn, hái lượm với công cụ chủ yếu chế tạo từ đá, cây và xương thú. Cuộc sống thấp kém, đói rét, bệnh tật và sự yếu đuối trước tự nhiên là nguyên nhân chủ yếu của sự phát triển rất chậm thời kì này. Xã hội thị tộc, đùm bọc nhau theo dòng mậu hệ. Bước chuyển quan trọng của người nguyên thủy là chuyển từ săn bắn, hái lượm sang trồng trọt và chăn nuôi. Việc tìm ra lửa là phát kiến vĩ đại của người nguyên thủy. Lửa, lao động và sự phát triển của công cụ lao động cùng với ngôn ngữ đã làm phát triển xã hội nguyên thủy. Cuối thời kì này gia đình xuất hiện và xã hội thay đổi. -Kinh nghiệm lao động và sinh hoạt xã hội được tiếp thu trực tiếp trong cuộc sống. -Học gắn liền với sự tồn tại, lao động và sinh hoạt xã hội. -Học bằng cách quan sát, bắt chước; tự nhiên, bột phát, thực tiễn, hành động là cách học của con người nguyên thủy. -Chưa có trường học và người dạy -Cuối thời kì này mới bắt đầu xuất hiện những người chuyên lo cho công việc GD. -Nội dung giáo dục là những kinh nghiệm sản xuất, chống lại sự khắc nghiệp của tự nhiên, thú dữ, phong tục tập quán, lễ nghi tôn giáo, luật lệ công xã. -Phương pháp GD là lĩnh hội trực tiếp, phương tiện chủ yếu là lời nói, trực quan và hoạt động thực tiễn Giáo dục thời kì chiếm hữu nô lệ Xuất hiện nhà trường là nơi chăm sóc giáo dục cho con chủ nô, đào tạo người lính. Xuất hiện những người làm nhiệm vụ giáo dục. Tồn tại hai loại giáo dục: Giáo dục của tầng lớp trên Giáo dục của những người bình dân và nô lệ. Giao dục mang tính giai cấp. Phát triển giáo dục hiện nay Hai mươi năm từ năm 1986 đến năm 2005 ngành giáo dục đã thực hiện đổi mới giáo dục phục vụ cho đường lối đổi mới kinh tế xã hội do Đảng ta đề ra. Giáo dục Việt Nam đã quán triệt quan điểm ” Giáo dục là quốc sách hàng đầu “, ” Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển “. Kết quả của đổi mới giáo dục từ 1986 đến 2005, đặc biệt trong 10 năm bản lề nước ta có những tự hào to lớn. ít nhất có thể nêu lên bốn thành quả lớn sau đây: - Giáo dục phục vụ có kết quả nhất định cho đào tạo nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hoá và hội nhập quốc tế. - Giáo dục phục vụ cho xoá đói giảm nghèo thực hiện công bằng, bình đẳng xã hội. - Giáo dục phục vụ cho sự chấn hưng văn hoá giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. - Giáo dục phục vụ cho việc giữ vững an ninh chính trị trong đời sống cộng đồng. Giáo dục góp phần tạo ra sự bình ổn, ổn định của cộng đồng làm tăng năng xuất lao động xã hội thì thành tựu của giáo dục là rất to lớn. 1. Những “lỗ hổng” trong giáo dục nhân cách trẻ em - Người lớn cứ hay ngỡ ngàng trước những hành động bạo lực, trước sự vô cảm, vô văn hóa của một bộ phận trẻ em mà không tĩnh tâm để nhìn lại xem họ đã giáo dục trẻ em như thế nào? Người lớn đã quên mất rằng, một đứa trẻ ngoan ngoãn, chăm chỉ, hiền lành không phải sinh ra đã được như vậy mà nhờ được người lớn chăm sóc giáo dục. Bác Hồ cũng đã từng viết “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn/ Phần nhiều do giáo dục mà nên” (Nửa đêm- Nhật ký trong tù). Một đứa trẻ lớn lên, hình thành được một tính cách tốt hay xấu trước hết nó phụ thuộc vào sự giáo dục của người lớn trong gia đình, nhà trường mà các em học và môi trường xã hội, các hoạt động xã hội mà trẻ em tham gia. Nhìn vào “ba lực lượng” giáo dục này nhiều lúc chúng ta phải giật mình bởi cách giáo dục còn thiên lệch, khắc kỷ hoặc là buông lỏng một cách đến vô tâm. Với gia đình là nền tảng, là tế bào của xã hội, và trẻ em là người được học những bài học đầu tiên và thường xuyên về nhân cách trong gia đình. Thế nhưng, trước sự tác động của cuộc sống hiện đại, trước nhu cầu mưu sinh của nhiều gia đình mà giáo dục con cái bị sao nhãng. Có gia đình, nhất là ở nông thôn, bố mẹ sinh con gửi lại ông bà để đi làm kinh tế. Chỉ lo tiền cho con mà không biết rằng con cái thiếu thốn tình cảm, cần tình thương, sự ôm ấp vỗ về, động viên an ủi của cha mẹ khi chúng gặp những trở ngại trong cuộc sống. Những đứa trẻ thiếu tình thương thường sống lạnh lùng, vô cảm.. Muốn con ngoan học tốt nhưng cha mẹ nhiều khi lại không dành thời gian để quan tâm đến con cái. Ngày thì bận làm việc, tối xem vô tuyến hoặc ngủ, để cho trẻ loay hay nơi bàn học muốn làm gì thì làm. Với cách “quan tâm” đến con cái như vậy nên chưa bao giờ như bây giờ một không khí cô đơn bao trùm lên giới trẻ ngay chính trong ngôi nhà với người thân của mình lại đậm đặc như vậy. (nguồn ảnh: Thethaovanhoa.vn) Trẻ em cảm thấy cô đơn nên chúng phải tìm cách giải trí bằng cách kết thân với bạn bè, bằng các trò chơi Game online…Ông bà ta đã từng dạy “chọn bạn mà chơi” nhưng trong lúc cô đơn lại thiếu sự định hướng của người lớn thì chúng gặp ai cũng có thể kết thân được, tốt có, xấu có. Thậm chí có em còn không phân biệt được đâu là tốt, là xấu nên còn có những hành động làm theo bạn bè một cách mù quáng, thiếu bản lĩnh, học theo những thói xấu dễ dẫn tới phạm pháp, sa ngã. Không kết bạn ngoài đời thì chúng kết bạn ảo trên mạng hoặc chơi game bạo lực. Nếu bất kỳ ai đi vào bất kỳ một quán “net” nào cũng thấy trên 90% là thanh thiếu niên đang chơi game online mà phần lớn là game bạo lực. Điều này nó ảnh hưởng đến nhân cách một cách tiêu cực nhiều hơn là tích cực. Các vụ phạm tội do thanh thiếu niên gây ra đang gia tăng (ảnh minh họa) Ở thành thị có đôi ba tiệm cho thuê sách truyện để các em thuê đọc. Đây cũng là một cách giải trí tốt nhưng thị hiếu của các em lại thích truyện tranh mà truyện tranh cho trẻ em hiện nay cũng còn nhiều điều đáng bàn như ngôn ngữ phần lớn là khẩu ngữ (ít nhiều còn ảnh hưởng đến sự trong sáng của tiếng Việt), truyện tranh có rất nhiều chuyện của người lớn, hình ảnh khiêu gợi, kích thích trí tò mò của các em thì không đúng lúc. Ở nông thôn thì gần như không có sách để cho các em đọc. Các bưu điện văn hóa xã toàn sách dành cho người già và sách kỹ thuật nông nghiệp không đủ sức giữ chân các em. Rất ít xã có thư viện riêng vì thế các em không được giải trí lành mạnh bằng đọc sách, không học được lời hay lẽ phải, tri thức tiến bộ của nhân loại từ những trang sách. Đây cũng là một lỗ hổng trong giáo dục và cũng là một thiệt thòi lớn cho các em hiện nay. Đối với nhà trường hiện nay thì xu hướng vẫn còn coi trọng dạy chữ hơn dạy người. Các em gần như phải học cả ngày. Học sinh phổ thông từ lớp 1 cho đến lớp 12 ngoài học buổi chính còn học buổi hai (nâng cao, củng cố kiến thức). Dưới áp lực của thi cử và các chỉ tiêu nhà trường đặt ra, mà thường là chỉ tiêu về chất lượng học lực đã làm cho giáo viên phải đầu tư nhiều vào việc truyền thụ kiến thức văn hóa nên còn rất ít thời gian cho giáo  dục đức, thể, mĩ. Dẫn đến trẻ em cũng căng thẳng, mệt mỏi chán chường, sợ học và giảm hứng thú vui vẻ khi đến trường nên hiệu quả của việc giáo dục kỹ năng sống cho các em còn nhiều hạn chế. Để khắc phục được những điều còn bất cập trong giáo dục nhân cách cho trẻ hơn ai hết người lớn phải thấy được trách nhiệm giáo dục con cái của chính mình. Tổ chức đoàn thanh niên (ở địa phương cũng như trong nhà trường) phải đẩy mạnh các hoạt động thường xuyên, phù hợp với nhu cầu và đáp ứng được yêu cầu của giới trẻ, tạo được môi trường tốt để giáo dục tình cảm, lí tưởng cũng như những kỹ năng sống mà các em cần. Nhà trường chú ý hơn đến giáo dục toàn diện, cân bằng các chỉ tiêu giáo dục để trẻ em được phát triển hài hòa có trí thức, có văn hóa và đời sống tâm hồn phong phú. III. Kết luận sư phạm - Nhà trường cần phải điều chỉnh nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục cho phù hợp. - Giáo viên phải là những tấm gương tốt cho trẻ noi theo                               - Các thầy cô giáo nên coi trọng việc khuyến khích các em vừa phấn đấu học tập tốt vừa có ý thức xây dựng tập thể, đối xử thân mật và sẵn lòng giúp đỡ b

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxYếu tố hoạt động cá nhân đối với sự hình thành và phát triển nhân cách.docx
Tài liệu liên quan