Đề tài Cách tính và công thức tính dự trữ bắt buộc tại Việt Nam

MỤC LỤC

Phần I: CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUỐC GIA

I. Mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia

1. Quan điểm về chính sách tiền tệ quốc gia

2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ

II. Các công cụ của chính sách tiền tệ quốc gia

1. Cơ chế tác động của các công cụ chính sách tiền tệ đến các biến số kinh tế vĩ mô

2. Công cụ của chính sách tiền tệ

Phần 2 : XÁC LẬP MÔ HÌNH TOÁN VÀ HƯỚNG DẪN CÁCH TÍNH DỰ TRỮ BẮT BUỘC

I. Thiết Lập Lý Luận – Tính Tỉ Lệ DTBB

1. Cơ Sở Xác Định Tỉ Lệ Dtbb

2. Tính Tỉ Lệ Dtbb

II. Xác Định Nguyên Tắc Tính Toán DTBB

1. Tính DTBB

2. Tính DTBB tại Việt Nam

PHẦN 3: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÔNG CỤ DỰ TRỮ BẮT BUỘC Ở NƯỚC TA.

I. Khái Quát Thực Trạng Sử Dụng Công Cụ Dự Trữ Bắt Buộc Ở Nước Ta .

II. Thực Trạng Sử Dụng Công Cụ Dự Trữ Bắt Buộc Của Nước Ta Những Năm Gần Đây.

III. Các Góp Ý Để Sử Dụng Công Cụ Dự Trữ Bắt Buộc Hiệu Quả

 

 

 

docx22 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 13906 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cách tính và công thức tính dự trữ bắt buộc tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dụng tích cực, hiệu quả trong việc điều tiết nền kinh tế đói hỏi chúng ta phải nghiên cứu thật kỹ, đầy đủ, chính xác tình hình thực tiễn của đất nước để có thể đề ra được chính sách tiền tệ thích hợp và thực hiện tốt, có hiệu quả. Thực tế qua nhiều năm việc điều hành chính sách tiền tệ đã thực sự đem lại hiệu quả kinh tế tích cực to lớn cho nền kinh tế, tuy nhiên nó cũng còn có nhiều hạn chế và bất cập đòi hỏi tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, sáng tạo để có một chính sách tiền tệ hoàn thiện với hiệu quả cao nhất. Với vai trò quan trọng như trên của chính sách tiền tệ, thì việc nghiên cứu chính sách tiền tệ là hết sức cần thiết, đặc biệt đối với những sinh viên kinh tế, để nâng cao tầm hiểu biết của mình về các vấn đền kinh tế. Đề tài nghiên cứu này em chủ yếu tập trung nghiên cứu và việc sử dụng công cụ của chính sách tiền tệ để điều hành chính sách tiền tệ ở nước ta thời gian qua. Trong đó tập trung chủ yếu vào nghiên cứu chính sách tỉ lệ dự trữ bắt buộc. Bài nghiên cứu không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế chúng em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của thầy và các bạn. Phần I: CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUỐC GIA MỤC TIÊU CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUỐC GIA. 1. Quan điểm về chính sách tiền tệ quốc gia. Đối với bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới, muốn cho đất nước phát triển đi lên, ổn định . đều phải hoạch định đề ra và thực hiện các chính sách ở tầm vĩ mô. Mỗi một lĩnh vực: kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá tồn tại một hệ thống chính sách để định hướng và vạch ra những đường lối chiến lược để phát triển lĩnh vực đó. Cũng như các lĩnh vực khác, kinh tế là một phần rất quan trọng đóng góp vào sự ổn định phát triển phồn vinh của một đất nước.Sau đổi mới, từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn đáng kể. Những thành tựu này ngoài sự nổ lực to lớn của toàn dân cả nước thì việc hoạch định thực thi các chính sách kinh tế vĩ mô cũng có vai trò rất quan trọng đối với những thành tựu vượt bậc này. Trong hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô thì chính sách tiền tệ quốc gia là một trong những chính sách trọng yếu góp phần quan trọng trong việc điều chỉnh nền kinh tế quốc dân tăng trưởng liên tục ở mức cao và tương đối ổn định. Vậy chính sách tiền tệ quốc gia được hiểu như thế nào? Nói chung, chính sách tiền tệ quốc gia là một chính sách vĩ mô của Nhà nước giao cho Ngân hàng Nhà nước thực hiện nhằm một mục tiêu chung là tăng trưởng và ổn định nền kinh tế. Theo điều 2 của luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì: “chính sách tiền tệ là một bộ phận của chính sách kinh tế tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống nhân dân”. Với chính sách này, Nhà nước thống nhất quản lý mọi hoạt động của Ngân hàng, động viên các nguồn lực trong nước, đồng thời tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, tạo nguồn vốn để phát triển kinh tế. Trên cơ sở đó giữ vững định hướng XHCN, giữ vững chủ quyền quốc gia, mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xí nghiệp, góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chính sách tiền tệ là một chính sách nằm trong hệ thống chính sách vĩ mô nói chung, nó thống nhất và có quan hệ chặt chẽ với các chính sách vĩ mô khác về mặt quản lý thực hiện, tác động và đều nhàm mục tiêu chung là tăng trưởng ổn định để đi đến phát triển. Khi nói đến chính sách tiền tệ quốc gia ta phải hiểu chính sách này được Nhà nước giao cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực thi chính sách này thay mặt Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nắm trong tay các công cụ tiền tệ sẽ thay mặt Nhà nước điều hành chính sách tiền tệ nhằm các mục tiêu màNhà nước đã định hướng. 2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ. Như định nghĩa của chính sách tiền tệ trong luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chỉ ra ta thấy mục tiêu của chính sách tiền tệ là: “ổn định giá đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống nhân dân”. Qua định nghĩa này ta thấy được các mục tiêu cụ thể của chính sách tiền tệ như sau: a. Ổn định tiền tệ: Chính sách tiền tệ quốc gia phải đảm bảo sự ổn định tiền tệ trong nước, đồng tiền không bị mất giá một cách đột ngột, nghiêm trọng, kiểm soát được lượng tiền cung ứng để từ đó điều chỉnh lượng tiền cung ứng nhằm vào các mục tiêu khác. b. Ổn định giá cả: Lạm phát luôn là căn bệnh kinh niên của nền kinh tế thị trường. Lạm phát làm cho mức giá cả chung tăng lên gây nên tình trạng bấp bênh của nền kinh tế, khi lạm phát ở mức cao thì việc lập kế hoạch trong tương lai khó khăn, việc ra các quyết định kinh tế rất khó khăn, chứa nhiều rủi ro, gây căng thẳng cho các quan hệ xã hội của đất nước lạm phát có tác động rất sấu đến nền kinh tế khi nó ở mức cao. Vì thế một mục tiêu quan trọng của chính sách tiền tệ đó là kiềm chế lạm phát, giữ cho lạm phát ở mức thấp để có thể “kích thích” nền kinh tế tăng trưởng, tức là giữ cho mức giá chung ổn định và ở mức tăng nhẹ phù hợp với tình hình kinh tế hiện đại. c. Ổn định lãi suất: Lãi suất là biểu hiện quan trọng của sự cân đối giữa cung và cầu tiền tệ trong nền kinh tế. Khi cung và cầu tiền tệ (cầu hay cung trái phiếu) biến động sẽ làm cho mức lãi suất chung trong nền kinh tế thay đổi. Nếu sự biến động của lãi suất lớn sẽ ảnh hưởng lớn đến các quyết định kinh tế (cho vay, đi vay, đầu tư, mua tài sản, tiêu dùng ) nền kinh tế không ổn định. Lãi suất còn tác động đến nhiều biến số kinh tế vĩ mô khác (tổng cầu, GDP ), do đó việc điều chỉnh cho lãi suất ở mức thích hợp, ổn định luôn là một mục tiêu quan trọng của chính sách tiền tệ quốc gia. d. Ổn định tỷ giá: Việc hội nhập kinh tế toàn cầu đã và đang đưa lại cho chúng ta nhiều cơ và thách thức lớn đối với việc tăng trưởng và phát triển kinh tế. tỷ giá có tác động đến kim ngạch xuất nhập khẩu, khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong nước đối với hàng hoá nước ngoài. Do vậy việc điều chỉnh chính sách tiền tệ với mục tiêu ổn định trên thị trường ngoại hối, ổn định tỷ giá ở mức độ sao cho có lợi nhất cho sự phát triển kinh tế đất nước để xu hướng hội nhập giao lưu với quốc tế thực sự có hiệu quả luôn là mục tiêu cần thiết và quan trọng. e. Ổn định các thị trường tài chính: Thị trường tài chính ra các nguồn vốn để phát triển kinh tế. Khi thị trường tài chính không ổn định sẽ có ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực (đầu tư, tiêu dùng, vốn, tăng trưởng ) và gây nên sự bất ổn cho nền kinh tế. Sự biến động của thị trường tài chính quốc tế luôn tác động đến thị trường tài chính của mỗi quốc gia. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực Đông Nam Á đã lan ra cả khu vực rộng trên thế giới và nó cũng tác động sấu đến thị trường tài chính nước ta và nền kinh tế. (1997). Chính vì vậy, mục tiêu của chính sách tiền tệ còn là việc giữ ổn định thị trường tài chính. Mục tiêu này có quan hệ chặt chẽ với các mục tiêu khác như lãi suất, giá cả  f. Đảm bảo công ăn việc làm cao: Việc làm cao không những là một mục tiêu kinh tế mà còn là một mục tiêu xã hội đối với chính sách tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác. . Đặc biệt, đối với nước ta chúng ta đang xây dựng XHCN để tiến lên CNCS thì việc đảm bảo làm sao cho “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”, “ai cũng có cơm ăn áo mặc” là mục tiêu hàng đầu và lâu dài, nên công ăn việc làm đầy đủ góp phần thực hiện mục tiêu mang tính chất chiến lược trên. h. Tăng trưởng và phát triển kinh tế: Đây là mục tiêu chung, bao trùm lên các mục tiêu khác và là mục tiêu cốt lõi của chính sách kinh tế vĩ mô. Ở đây ta cần quan tâm và phân biệt hai mục tiêu là tăng trưởng và phát triển. Mục tiêu tăng trưởng chỉ nói lên được phần lượng của phát triển, tăng trưởng phải đồng thời với ổn định nền kinh tế, nâng cao mức sống người dân, tỷ lệ thất nghiệp thấp, lạm phát được kiềm chế ở mức vừa phải đó sẽ là mục tiêu phát triển. Chính sách tiền tệ quốc gia cần cân nhắc và hướng vào mục tiêu cốt lõi nhất là phát triển kinh tế. Các mục tiêu trên của chính sách tiền tệ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chúng liên hệ bổ xung thúc đẩy nhau và cũng có khi tác động trái ngược nhau.Chính vì vậy mà việc điều hành chính sách tiền tệ phải nhằm vào các mục tiêu cụ thể nào và luôn phải xem xét trên tất cả các mục tiêu khác để nhằm vào mục tiêu này mà không ảnh hưởng lớn và hạn chế đến mục tiêu khác và luôn phải hướng vào mục tiêu lâu dài cốt lõi. Luôn đặt chính sách tiền tệ đi liền và quan hệ chặt chẽ với chính sách vĩ mô khác để nhằm vào mục tiêu chung là phát triển nền kinh tế xã hội ở mức cao. II. CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUỐC GIA Cơ chế tác động của các công cụ chính sách tiền tệ đến các biến số kinh tế vĩ mô Gồm có 6 công cụ sau: Công cụ tái cấp vốn: là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối với các Ngân hàng thương mại. Khi cấp 1 khoản tín dụng cho Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở cho Ngân hàng thương mại tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán của họ. Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc: là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện cần vô hiệu hóa trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toan (cho vay) của các Ngân hàng thương mại. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: là hoạt động Ngân hàng Trung ương mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ của các Ngân hàng thương mại, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các Ngân hàng thương mại dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ. Công cụ lãi suất tín dụng: đây được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện chính sách tiền tệ bởi vì sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm hãm sản xuất. Nó là 1 công cụ rất lợi hại. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương chính sách và giải pháp cụ thể của Ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định. Công cụ hạn mức tín dụng: là 1 công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của Ngân hàng Trung ương để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung ương buộc các Ngân hàng thương mại phải chấp hành khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Tỷ giá hối đoái:Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiên quan hệ cung cầu ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiện tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn dầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ. Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc của chính sách tiền tệ. a.Khái niệm Dự trữ bắt buộc là một phần vốn huy động tiền gửi mà các tổ chức tín dụng bắt buộc phải dự trữ theo luật định. Trước đây, dự trữ bắt buộc nhằm đảm bảo khả năng thanh toán cho TCTD trước nhu cầu rút tiền mặt của khách hàng và do đó hạn chế rủi ro thanh khoản cho cả hệ thống. Tuy nhiên, theo thời gian ý nghĩa này giảm dần vì cho dù TCTD có duy trì một mức dự trữ bắt buộc lớn bao nhiêu thì khi rủi ro thanh khoản xảy ra, mức dự trữ này cũng không thể giúp TCTD chống đỡ được nguy cơ phá sản; Mặt khác, TCTD cũng không thể duy trì một mức dự trữ bắt buộc quá lớn vì đặc điểm của dự trữ bắt buộc là ko sinh lời, dự trữ bắt buộc càng cao thì lợi nhuận của TCTD càng giảm, điều này đi ngược lại mục tiêu hoạt động vì lợi nhuận của TCTD; Bên cạnh đó, sự phát triển của công nghệ ngân hàng luôn cho phép Các TCTD có thể sử dụng đa dạng các hình thức bảo hiểm rủi ro mà không cần phụ thuộc quá nhiều vào dự trữ tiền mặt. Chính vì vậy hiện nay các nước thường duy trì một tỷ lệ dự trữ bắt buộc thấp. Theo quyết định số 379/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN Việt Nam ngày 24/02/2009 về việc điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc của Các TCTD, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam của Các TCTD là 1% - 3% , đối với tiền gửi bằng ngoại tệ là 2% - 7% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc. b. Cơ chế tác động của dự trữ bắt buộc _ Tác động đến lượng tiền cung ứng: Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi nếu: ·     NHTW giảm các yêu cầu về dự trữ bắt buộc (giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc)-> vốn khả dụng của các TCTD tăng -> hệ số nhân tiền tăng, cơ sở tiền tệ không thay đổi -> lượng tiền cung ứng tăng. ·     NHTW tăng các yêu cầu về dự trữ bắt buộc (tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc) -> vốn khả dụng của các TCTD giảm -> hệ số nhân tiền giảm, cơ số tiền tệ không thay đổi -> lượng tiền cung ứng cũng giảm. _  Tác động đến lãi suất thị trường tiền tệ: Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi nếu: NHTW tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc => Vốn khả dụng của các TCTD giảm. Khả năng cho vay đối với nền kinh tế của Các TCTD giảm    -> Cung vốn giảm. Khả năng tạo tiền của hệ thống ngân hàng giảm   -> m giảm -> MS giảm. NHTW giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc -> vốn khả dụng của các TCTD tăng -> cung vốn tăng, MS tăng -> lãi suất thị trường giảm. Dự trữ bắt buộc tại Việt Nam Các TCTD phải duy trì đầy đủ dự trữ bắt buộc tại Ngân hàng Nhà nước trong kỳ duy trì dự trữ bắt buộc theo nguyên tắc sau: ·     Số dư bình quân tài khoản tiền gửi thanh toán của tổ chức tín dụng tại Ngân hàng Nhà nước không thấp hơn tiền dự trữ bắt buộc trong kỳ. ·     Số dư tài khoản tiền gửi thanh toán của tổ chức tín dụng tại Ngân hàng Nhà nước hàng ngày trong kỳ duy trì dự trữ bắt buộc có thể thấp hơn hoặc cao hơn tiền dự trữ bắt buộc của kỳ đó.    Cách tính dự trữ bắt buộc cho kỳ duy trì dự trữ bắt buộc  ·     Kỳ xác định dự trữ bắt buộc là khoảng thời gian của tháng trước kể từ ngày 01 đầu tháng đến hết ngày cuối cùng của tháng.   Kỳ duy trì dự trữ bắt buộc là khoảng thời gian của tháng hiện hành kể từ ngày 01 đầu tháng đến hết ngày cuối cùng của tháng. Phần II : XÁC LẬP MÔ HÌNH TOÁN VÀ HƯỚNG DẪN CÁCH TÍNH DỰ TRỮ BẮT BUỘC Thiết lập lý luận – Tính tỉ lệ DTBB Cơ sở xác định tỉ lệ DTBB Lượng cung tiền trong kì trước: M20 = Trong đó: + MB: tiền cơ sở hay còn gọi là đồng tiền mạnh + rc: tỉ lệ tiền mặt + rr: tỉ lệ DDBB + re: tỉ lệ dự trữ thừa tại ngân hàng thương mại + rf: tỉ lệ thay đổi của các yếu tố ngoại lai khác Lượng cung tiền trong kì này: M2t = (2.1) Trong đó: “rr + t”: tỉ lệ DDBB trong kì này ó ó(1) Nếu gọi M2t = a M20 (a khác 0), ta có: ó ó ó (2.2) Giả sử đã biết M20 và cố định MB(1 + rc + rf), ta có: “ t ” phụ thuộc vào a như sau : + a>1 => -1 = rr + t cung tiền tăng + a 0 rr + t > rr => cung tiền giảm + a=1 => t=0 => rr + t = rr => cung tiền không đổi Tính tỉ lệ DTBB * Tiếp theo để xác định cụ thể rr của kì này, ta phải xác định được cầu tiền trong nền kinh tế: Bảng cân đối khảo sát tiền tệ nhìn chung được thể hiện như sau: MOQ = NFA + NDCg + DCp + OIN (2.3) MOQ = tiền rộng = tiền + gần như tiền (Quasi Money) NFA = Tài sản có, ngoại tệ ròng = FA trừ FL (Tài sản có, ngoại tệ gộp - Tài sản nợ, ngoại tệ gộp) NFA = NFAcb + NFA cob NFAcb= NFA của ngân hàng trung ương NFA cob =NFA của ngân hàng thương mại NDCg = Tín dụng trong nước ròng cho chính phủ DCp = Tín dụng trong nước cho khu vực tư nhân OIN = Các khoản mục ròng khác = các tài sản còn lại trừ cho nợ còn lại khác Hàm Cầu Tiền : (MOQ/P)d = L( i, Y ) (2.4) * Wong đã chỉ định hàm cầu tiền cho một số nước đang phát triển như sau: (MOd) t= g[ Ye t, CRe t, ( ΔPt/Pt-1 )e , ut ] (2.5) Trong đó: MOt là lượng tiền trung bình (tức là tiền trong lưu thông cộng với tiền gửi không kỳ hạn) trong thời kỳ t (MOd) t là cầu tiền trong dài hạn trong thời kỳ t Yt là GDP danh nghĩa trong thời kì t CRt là chỉ số của bậc hạn chế tín dụng trong thời kì t ΔPt/Pt-1 là phần trăm thay đổi trong chỉ số giá (hoặc tỷ lệ lạm phát) trong thời kỳ t ut là nhiễu ngẫu nhiên Sử dụng lược đồ điều chỉnh bộ phận và kỳ vọng thích nghi, phân tích một số giả thiết, ta ước lượng các hàm cầu tiền dạng: (MO/P)t = a0 + a1Yt + a2CRt + a3(ΔPt/Pt-1) + a4 (MO/P)t-1 + ut (2.6) Hoặc log(MO/P)t = b0 + b1logYt + b2logCRt + b3log(ΔPt/Pt-1) + b4log(MO/P)t-1+ vt (2.7) Với điều kiện nền kinh tế Việt Nam, bậc hạn chế tín dụng được lựa chọn là: CR = - DC/GDP, trong đó: CD là tín dụng nội địa ròng của hệ thống ngân hàng GDP là thu nhập thực tế. P là chỉ số giá tiêu dùng *** Trong trường hợp cân bằng ta sẽ có: M2t = (MOQ/P)d (= (MO/P)t ) (2.8) Từ đó ta có: a = Để kinh tế phát triển và ổn định, ta sẽ cho M2t > (MOQ/P)d Từ đó => a = II. Xác định nguyên tắc tính toán DTBB: +) Số tiền DTBB = Số dư bình quân ngày của tiền gửi huy động thuộc diện tính DTBB trong kì xác định * Tỷ lệ DTBB +) Số dư bình quân ngày của tiền gửi huy động thuộc diện tính DTBB trong kì xác định Tổng số dư tiền gửi huy động cuối các ngày của kì xác định (từ ngày đầu tiên đến ngày cuối kỳ) Số ngày của kì xác định = +) Cách tính DTBB thực hiện thức tế của các TCTD: Số tiền gửi bình quân ngày tại NHNN kỳ duy trì Tổng số dư tiền gửi cuối các ngày của kì xác định (từ ngày đầu tiên đến ngày cuối kỳ) Số ngày của kỳ duy trì = VÍ DỤ: tính dự trữ bắt buộc, dự trữ thực tế tại Việt Nam Cách tính dự trữ bắt buộc và dự trữ thực tế: Đối với kỳ duy trì dự trữ bắt buộc tháng 1/2013: Kỳ xác định dự trữ bắt buộc: từ đầu ngày 01/12/2012 đến cuối ngày 31/12/2013. Kỳ duy trì dự trữ bắt buộc: từ đầu ngày 01/01/2013 đến cuối ngày 31/01/2013. Cách tính dự trữ bắt buộc trong kỳ duy trì dự trữ bắt buộc tháng 1/2013: Tiền dự trữ bắt buộc của từng loại tiền gửi trong kỳ duy trì dự trữ bắt buộc tháng 1/2013 = Số dư tiền gửi huy động bình quân từ ngày 01/12/2012 đến 31/12/2012 của từng loại tiền gửi phải dự trữ bắt buộc x Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tương ứng của từng loại tiền gửi của tổ chức tín dụng Cách tính số dư tiền gửi huy động bình quân trong kỳ xác định dự trữ bắt buộc: Số dư tiền gửi huy động bình quân Tổng số dư cuối ngày của tài khoản tiền gửi huy động từ ngày 01 đến 31/12/2012 = 31 Cách tính dự trữ thực tế trong kỳ duy trì dự trữ bắt buộc tháng 1/2013 Dự trữ thực tế = Tổng số dư cuối ngày của tài khoản tiền gửi thanh toán của tổ chức tín dụng tại Ngân hàng Nhà nước từ ngày 01 đến 31/01/2013 31 PHẦN 3: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÔNG CỤ DỰ TRỮ BẮT BUỘC.      Với Việt Nam , trong điều kiện nền kinh tế chuyển đổi , vận hành theo cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý điều tiết của nhà nước , việc nghiên cứu để lập và thực thi chính sách tiền tệ là mọt đòi hỏi bức xúc cả về lý luận và thực tiễn . Để chính sách tiền tệ thực sự phát huy tính hiệu quả và vai trò của nó thiết nghĩ cần có những giải pháp khác nhau với những cách thức tác động khác nhau . Bài viết này xin được tập trung vào việc vận dụng công cụ dự trữ bắt buộc vào việc nâng cao hiệu quả của công cụ dự trữ bắt buộc ở Việt Nam trong thời gian thực hiện luật ngân hàng . I . Khái Quát Thực Trạng Sử Dụng Công Cụ Dự Trữ Bắt Buộc Ở Nước Ta .      Luật Ngân hàng Nhà nước được chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công bố ngày 26/ 12 / 1997 , có hiệu lực 1/ 10/ 1998 , đánh dấu bước mới trong hoạt động ngân hàng . Đối với công cụ dự trữ bắt buộc đang được áp dụng trong hệ thống ngân hàng đã bộc lộ một số nhược điểm chưa tương thích với quy định của pháp luật và đáp ứng với yêu cầu của chính sách tiền tệ đó là :    Một là , tỷ lệ dự trữ bắt buộc 10% tính trên quy mô vốn huy động là quá cao , tất Yếu làm tăng chi phí của tổ chức tín dụng , trong điều kiện chênh lệch lãi suất cho vay và tiền gửi được hưởng của tổ chức tín dụng ở mức thấp hoặc có xu hướng giảm .       Hai là , việc duy trì tỷ lệ dự trữ bắt buộc ở mức cao lại tính bao gồm cả tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng đã phát sinh mâu thuẫn với các công cụ khác . Thí dụ với chính sách lãi suất , khống chế lãi suất tín dụng ở mức thấp nhưng tổ chức tín dụng lại khó có thể thực hiện được việc giảm chi phí để hạ thấp lãi suất huy động ; không khuyến khích các tổ chức tín dụng mở rộng huy động vốn trung dài hạn .     Ba là , việc trả lãi đối với số tiền gửi thanh toán của tổ chức tín dụng tại Ngân hàng Nhà nước là 0. 2 %/ tháng , trên thực tế lại không có tính khả thi vỡ tổ chức tín dụng lại phải dự trữ bắt buộc , tiền gửi làm phương tiện thanh toán phụ thuộc vào sự tính toán điều hành kinh doanh của tổ chức tín dụng trong điều kiện huy động vốn ngày càng trở nên khó khăn và mục tiêu của chính sách tiền tệ là khuyến khích việc mở rộng tín dụng chứ không khuyến khích tổ chức tín dụng dự trữ thanh toán quá mức .      Bốn là , công nghệ thông tin quản lý vốn , tài sản của tổ chức tín dụng chưa được đồng bộ và cập nhập hàng ngày , nhất là đối với hệ thống ngân hàng nông nghiệp , NHTM cổ phần nông thôn thì việc cập nhập số vốn huy động hàng ngày để tính dự trữ bắt buộc cần phải duy trì là việc làm rất khó khăn đối với các tổ chức tín dụng .     Để khắc phục những khó khăn , hạn chế trên , ngày 31/ 05/ 1999 Thống đốc NHNN ra quyết định 1991/ 1999/ QĐ NHNN1 “về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng” . Theo quyết định này có mét số điểm mới đó là :     Thứ nhất , đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng của các NHTM quốc doanh , NHTM cổ phần đô thị , chi nhánh ngân hàng nước ngoài , ngân hàng liên doanh và công ty tài chính : 6% trên tổng số dư tiền gửi .     Thứ hai , đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng của các NHTM cổ phần nông thôn , ngân hàng hợp tác , quỹ tín dụng nhân dân trung ương , quỹ tín dụng nhân dân khu vực : 4% trên tổng số dư tiền gửi .      Thứ ba , đối với tiền gửi có kỳ hạn tõ 12 tháng trở lên : 0% trên tổng số dư tiền gửi .     Đặc biệt số tiền dự trữ bắt buộc được tính bình quân số dư tiền gửi tại ngân hàng nhà nước trong kỳ duy trì . Với cách tính dự trữ bắt buộc mới , các tổ chức tín dụng có thể điều hành vốn linh hoạt hơn trước đây , đồng thời NHNN có thể dự đoán được nhu cầu dự trữ của NHTM , tăng khả năng kiểm soát tiền tệ của NHNN . II Thực Trạng Sử Dụng Công Cụ Dự Trữ Bắt Buộc Của Nước Ta Những Năm Gần Đây. Giai đoạn 2008-2011, tình hình kinh tế thế giới và Việt Nam nói chung rơi vào tình trạng khủng hoảng, NHTW đã có những chính sách mới đối với dự trữ bắt buộc Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD Việt Nam từ tháng 01/2008- 01/2011  Tỷ lệ dự trữ bắt bụôc (VND) Văn bản 11%1- 5%2 187/QĐ-NHNN ngày 16/1/2008 10%1- 4%2 2560/QĐ-NHNN ngày 03/11/2008 8%1- 2%2 2811/QĐ-NHNN ngày 20/11/2008 6%1- 2%2 2951/QĐ-NHNN  ngày 03/12/2008 5%1- 1%2 3158/QĐ-NHNN  ngày 19/12/2008 3%1 - 1%2 379/QĐ-NHNN ngày 24/02/2009 4%1 - 2%2 74/QĐ-NHNN Ngày 01/02/2010 3%1 - 1%2 750/QĐ-NHNN Ngày 9/4/2011 3%1 - 1%2 1209/QĐ-NHNN Ngày 1/6/2011 (1): đối với tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 12 tháng (2): đối với tiền gửi kỳ hạn từ 12 tháng trở lên Bảng trên cho thấy từ tháng 01/2008 – 01/6/2011 , tỷ lệ dự trữ bắt buộc được điều chỉnh giảm, việc điều chỉnh này của NHNN, một mặt, nhằm đưa ra tín hiệu nới lỏng tiền tệ; mặt khác, thông qua việc nâng cao hệ số nhân tiền chính thức mở rộng khả năng cho vay, kích thích các ngân hàng thương mại đẩy mạnh hoạt động tín dụng, tích cực cung ứng vốn cho nền kinh tế. Ngày nay, khi sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc, nghĩa là, NHTƯ đang muốn điều chỉnh hệ số nhân tiền, mặc dù vậy nhưng mục tiêu đảm bảo khả năng thanh khoản cho ngân hàng của dự trữ bắt buộc vẫn không bị mất đi ý nghĩa của nó, không những thế, nó còn là cơ sở để xác định tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Những căn cứ cụ thể sau thường được sử dụng để đưa ra yêu cầu về tỷ lệ dự trữ bắt buộc: - Tính chất kỳ hạn của mỗi loại tiền gửi - tùy vào tính chất kỳ hạn của tiền gửi mà nghĩa vụ dự trữ bắt buộc khác nhau; thông thường kỳ hạn càng dài thì mức độ ổn định càng cao và độ rủi ro thanh khoản càng thấp và vì thế, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với loại tiền gửi này thường thấp hơn so với loại tiền gửi có kỳ hạn ngắn hơn. - Mức độ của các khoản nợ - quy mô của các nguồn tiền gửi. Thông thường quy mô của các nguồn tiền gửi càng cao thì khả năng rủi ro càng cao và vì thế, tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ tỷ lệ thuận với quy mô nguồn tiền gửi. Về điều này, ta có thể tham khảo yêu cầu tỷ lệ dự trữ bắt buộc của FED. - Loại tiền gửi khác nhau cũng chứa đựng khả năng an toàn thanh khoản khác nhau nên NHTƯ có thể quy định tỷ lệ khác nhau cho tiền gửi của các đồng tiền khác nhau   Ở nước ta, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng được phân chia tùy theo tính chất kỳ hạn, loại tiền gửi và thông thường, loại tiền gửi kỳ hạn ngắn, tiền gửi bằng ngoại tệ phải duy trì một tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao hơn. Bên cạnh đó, sự khác biệt về tỷ lệ dự trữ bắt buộc giữa các ngân hàng cũng được quan tâm. Theo quy định tại Quyết định số 379/QĐ-NHNN áp dụng từ ngày 24/2/2009 (đối với VND

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxbamp224i t7893ng h7907p 2.docx
Tài liệu liên quan