Đề tài Chất lượng dân số Việt Nam

MỤC LỤC

Trang

A/ Phần mở đầu 1

B/ Nội dung chính 4

I/Chất lượng dân số 4

1.Quan niệm về chất lượng dân số 4

2.Chỉ tiêu phản ánh chất lượng dân số 5

3.Thực trạng và những thành tựu đạt được 8

a/ Tình hình thực hiện nâng chỉ số phát triển con người 8

b/ Chất lượng nguồn nhân lực 10

c/ Chất lượng cuộc sống 11

II/ Nâng cao chất lượng dân số 12

1.Mục đích 12

2.Các biện pháp nâng cao chất lượng dân số 14

2.1. Trách nhiệm nâng cao chất lượng dân số 14

2.2. Các biện pháp 16

a/ Biện pháp về sức khoẻ sinh sản 17

b/ Chăm sóc sức khoẻ nhân dân 24

c/ Nâng cao chất lượng dân trí và năng lực xã hội 26

C/ Kết luận

 

 

 

 

 

doc32 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5511 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chất lượng dân số Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i nữ) là 31,9%; 1,5% dân số bị thiểu năng về thể lực và trí lực; tần suất dị tật bẩm sinh ở trẻ sinh ra sống là 3%. Tỉ lệ trẻ sơ sinh nặng dưới 2500g chiếm 8% năm1998. Tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng đã giảm, song theo phân loại của tổ chức Y tê thế giới(WHO) tỉ lệ này vẫn còn ở mức cao, chiếm 36.7% năm 1999; 33.8% năm 2000; 30,1% năm 2002 và 28% năm 2003.Chỉ có 2 thành phố lớn là Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh có tỉ lệ suy dinh dưỡng ở mức trung bình(10%-19%) có 24 tỉnh có tỉ lệ dinh dưỡng ở loại cao (20%-30%) và có tới 35 tỉnh còn lại có tỉ lệ suy dinh dưỡng ở loại rất cao(trên 30%). Trong khi việc phòng chống suy dinh dưỡng chưa xong thì đã xuất hiện tình trạng bệnh tật do thừa dinh dưỡng gây ra. Tính đến thời điểm 1/4/1999 cả nước vẫn còn 6,8 triệu người từ 10 tuổi trở lên chưa bao giờ đến trường, trong đó 5,3 triệu người hoàn toàn không biết chữ. Tỉ lệ số người đã qua đào tạo nghề nghiệp và chuyên môn kĩ thuật chiếm 7,6% dân số từ 13 tuổi trở lên, trong đó 2,3% là công nhân kĩ thuật và nhân viên nghiệp vụ có bằng cấp, 2,8% có trình độ trung học chuyên nghiệp, 0,7% cao đẳng, 1,7% đại học và 0,1% có trình độ trên đại học. Cơ cấu đào tạo bất hợp lí, quan hệ tỉ lệ đào tạo giữa 3 loại trình độ chuyên môn kĩ thuật theo tiêu chuẩn quốc tế là: đại học và trên đại học 1; trung học chuyên nghiệp 4; công nhân kĩ thuật 10 (1-4-10), thì ở nước ta tại thời điểm 1/4/1999 là 1- 1,13- 0,92. Để tránh nguy cơ tụt hậu, cùng với việc giải quyết vấn đề quy mô dân số đòi hỏi chúng ta phải xây dựng và thực thi một chiến lược dài hạn nhằm thực hiện đồng bộ, từng bước, có trọng điểm việc điều hoà quan hệ giữa số lượng và chất lượng dân số, giữa phát triển dân số và nguồn lực để nâng cao chất lượng dân số Việt Nam cả về thể lực và trí lực. b.Chất lượng nguồn nhân lực. Trước Cách mạng Tháng Tám (năm 1945) có 95% dân số không biết chữ. Sau Cách mạng, Đảng và nhà nước ta tập trung mọi nguồn lực để phát triển giáo dục nâng cao dân trí, hiện nay 90% dân số biết chữ, phần đông lực lượng lao động được giáo dục phổ thông. Tuy nhiên chúng ta đang đứng trước những thử thách mới, trình độ tay nghề, kỹ thuật của lao động Việt Nam còn thấp so với yêu cầu phát triển của đất nước, so với trình độ phát triển của các nước tiên tiến. Hiện nay Việt Nam thuộc nhóm các nước có cơ cấu dân số trẻ. Đây là một thế mạnh trong việc bổ sung nguồn nhân lực mới cho phát triển. Song sự phát triển có bền vững hay không còn tuỳ thuộc vào chất lượng lao động. Lực lượng lao động trẻ này phải khoẻ mạnh về thể chất, được giáo dục và đào tạo cơ bản, có hệ thống ngay từ khi cắp sách tới trường cho tới khi thành người lao động có học vấn cao, kĩ năng chuyên môn phù hợp với nhu cầu phát triển xã hội. Nếu nhìn vào hệ thống trường sở, cơ sở vật chất cho giáo dục, đội ngũ cán bộ khoa học , cán bộ giảng dạy và nghiên cứu thì chúng ta đã đạt bước tiến lớn trong lịch sử giáo dục Việt Nam. Chưa bao giờ nước ta có một hệ thống trường sở với những phương tiện giáo dục và đào tạo lớn và hiện đại như ngày nay. Nhưng nếu nhìn vào nhu cầu của sự phát triển kinh tế- xã hội đối với chất lượng nguồn nhân lực thì hệ thống giáo dục đào tạo thể hiện những hạn chế và còn nhiều điều bất cập. Tỉ lệ trẻ em bỏ học còn nhiều, kiến thức và kĩ năng chuyên môn của người lao động thấp hơn các nước tiên tiến khác. c.Chất lượng cuộc sống. Khi nói đến chất lượng cuộc sống không chỉ nhấn mạnh đến đời sống vật chất, tinh thần, thể lực, trí tuệ mà còn nói đến môi trường, khả năng và điều kiện xã hội cho các thành viên xã hội có những cơ hội phát triển đạt được những vị thế xã hội mới. Mức sống vật chất, tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện, hệ thống y tế dược xây dựng đến tận làng bản, hệ thống chăm sóc sức khoẻ được xây dựng và kiện toàn, loại trừ một số căn bệnh xã hội ra khỏi đời sống xã hội, tuổi thọ trung bình được nâng cao. Hệ thống giáo dục được xây dựng và phát triển, hầu hết các xã đã có trường tiểu học và phổ thông cơ sở, huyện có ít nhất một trường phổ thông trung học. Về chất lượng dân số, một vấn đề được xã hội rất quan tâm là trong những năm gần đây dưới tác động của mặt trái kinh tế thị trường, sự phân hoá xã hội, phân hoá giàu nghèo có chiều hướng gia tăng.Nghèo đói là tình trạng của một bộ phận dân cư không có khả năng thoả mãn những nhu cầu tối thiểu để duy trì cuộc sống hàng ngày. Những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống con người như ăn, ở, mặc, các nhu cầu về giáo dục, chăm sóc sức khoẻ…không được đảm bảo. Biểu hiện của tình trạng này là suy dinh dưỡng, thiếu thốn những điều kiện sinh hoạt hàng ngày, không có khả năng đầu tư cho con ăn học. Hiện nay nhóm nghèo đói giảm xuống cả về số lượng tuyệt đối và cả về tỉ trọng trong toàn bộ dân cư. Nghèo còn được xem xét như là một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức trung bình của cộng đồng xã hội tại một địa phương và trong thời điểm nhất định. Xét theo ý nghĩa đó hiện nay, khoảng 50% dân số thuộc diện nghèo, trong đó có hơn 1.700 xã trọng điểm cần có sực trợ giúp tích cực của xã hội. II/ Nâng cao chất lượng dân số 1.Mục đích nâng cao chất lượng dân số. Trong nhiều thế kỉ, loài người luôn bị ám ảnh bởi mục tiêu thoát khỏi đói nghèo, ngày càng có được một cuộc sống đầy đủ, sung túc hơn cho tất cả mọi người. Do đó, việc tập trung mở rộng năng lực sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dần dần trở thành mục tiêu trọng yếu của mỗi quốc gia. Chính vì vậy, con người với tư cách là mục tiêu đích thực của sự phát triển đã nhiều khi bị xem nhẹ. Cách tiếp cận có tính hệ thống, mang tính nhân văn coi con người là trung tâm, là mục đích tối thượng của sự phát triển và coi phát triển là sự mở rộng phạm vi lựa chọn của con người để đạt đến một cuộc sống trường thọ, khoẻ mạnh, có ý nghĩa và xứng đáng với con người. Quan điểm này bao hàm hai khía cạnh chính là mở rộng các cơ hội lựa chọn và nâng cao năng lực lựa chọn của con người nhằm hưởng thụ một cuộc sống hạnh phúc, bền vững. Mở rộng cơ hội lựa chọn bao gồm: tăng thu nhập, được tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục tốt hơn, có chỗ ở tốt hơn, việc làm có ý nghĩa hơn, tham gia đầy đủ tích cực hơn vào các hoạt động xã hội cộng đồng. Phát triển vì con người phải nhấn mạnh tới việc mở rộng không gian lựa chọn cho con người để mỗi người có thể đạt được cuộc sống có ý nghĩa nhất. Việc mở rộng các quyền lựa chọn của các cá nhân trong mọi lĩnh vực là điều kiện thiết yếu và quan trọng nhất của quá trình phát triển. Tăng cường năng lực lựa chọn là điều kiện cần thiết để biến các cơ hội sẵn có thành hiện thực. Tăng cường năng lực con người trước hết là trau dồi kĩ năng, kiến thức, kinh nghiệm của họ. Tuy nhiên kĩ năng, kiến thức có thể bị mai một, xói mòn nếu chúng không được sử dụng hoặc được sử dụng một cách không hiệu quả. Vì thế, tăng cường năng lực bền vững hàm ý cả việc sử dụng năng lực một cách có hiệu quả Trong cuộc sống, con người cần đến nhiều loại năng lực: năng lực tham gia, năng lực tổ chức thực hiện các công việc và năng lực hưởng thụ các kết quả trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống. Tuy nhiên, có những năng lực cơ bản mà thiếu chúng các năng lực khác khó có khả năng phát triển. Để phát triển được con người cần có thể lực, trí lực ở mức tối thiểu, cần thiết. Các hoạt động chăm sóc sức khoẻ cơ bản, giáo dục cơ sở ở cả phạm vi gia đình và xã hội có vai trò quan trọng trong việc hình thành các năng lực này. Quá trình phát triển kinh tế- xã hội của nước ta trong nhiều thập kỉ qua, đặc biệt là quá trình đổi mới, đó là quá trình mở rộng cơ hội lựa chọn và nâng cao năng lực của mỗi người dân trong các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá đa dạng nhằm đạt được một cuộc sống ấm no, đầy đủ hơn, mạnh khoẻ, tự do và giàu trí thức hơn để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, PLDS quy định: “ Nâng cao chất lượng dân số là chính sách cơ bản của Nhà nước trong sự nghiệp phát triển đất nước”. Quy định này vừa kế thừa chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp phát triển đất nước trong nhiều thập kỉ qua, vừa nhấn mạnh đặc điểm nổi bật của chất lượng dân số nước ta thấp nhằm giải quyết những thách thức gay gắt mà Việt Nam phải đối mặt trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chủ động hội nhập quốc tế. Quy định này cũng khẳng định quan điểm coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển thì việc nâng cao chất lượng dân số là mục đích cơ bản của sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Mục tiêu của chiến lược dân số Việt Nam giai đoạn 2001- 2010 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại quyết định số 147/2000/QĐ-TTg là: “Nâng cao chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ và tinh thần. Phấn đấu chỉ số phát triển con người(HDI) ở mức trung bình tiên tiến của thế giới vào năm 2010”. Với quy định của PLDS, đây là lần đầu tiên vấn đề chất lượng dân số được đưa vào văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lí cao, giải quyết đầy đủ và đồng bộ, cân đối các lĩnh vực của công tác dân số và cũng chính là đòi hỏi, thách thức của công tác DS – KHHGĐ mà Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX chỉ rõ: “Chính sách dân số nhằm chủ động kiểm soát quy mô và tăng chất lượng dân số phù hợp với những yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội. Nâng cao chất lượng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản- kế hoạch hoá gia đình; giải quyết tôt mối quan hệ giữa phân bố dân cư hợp lí với quản lí dân số và phát triển nguồn nhân lực”. 2.Các biện pháp nâng cao chất lượng dân số. 2.1.Trách nhiệm nâng cao chất lượng dân số. PLDS quy định về trách nhiệm nâng cao chất lượng dân số của Nhà nước, cơ quan quản lí nhà nước và các cơ quan, tổ chức cá nhân như sau: “1.Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức, cá nhân thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số thông qua các chương trình dự án phát triển kinh tế xã hội, đầu tư cơ sở hạ tầng kĩ thuật, xây dựng hệ thống an sinh xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái. 2.Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện công tác bảo vệ sức khoẻ và rèn luyện thân thể, nâng cao trình độ giáo dục và phát triển trí tuệ, phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi xã hội, giữ gìn giá trị văn hoá, tinh thần và bảo vệ môi trường sinh thái. 3.Cơ quan quản lí nhà nước về dân số có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan xây dựng và triển khai thực hiện mô hình nâng cao chất lượng dân số với phát triển gia đình bền vững, mô hình tác động nâng cao chất lượng dân số cộng đồng; cung cấp thông tin, tuyên truyền, tư vấn và giúp đỡ gia đình, cá nhân thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số. 4.Cơ quan, tổ chức, cá nhân được cung cấp thông tin, hướng dẫn, giúp đỡ và tự nguyện thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số. (Điều 22 PLDS) Theo quan niệm này, trách nhiệm nâng cao chất lượng dân số thuộc về bốn chủ thể là Nhà nước, cơ quan nhà nước, các cơ quan, tổ chức, đoàn thể và mọi công dân. Nhà nước thông qua chính sách và các chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội lấy mục tiêu tối cao của sự phát triển là vì con người, phát triển con người nhằm nâng cao điều kiện sống của con người và phát triển các năng lực của họ trên tất cả các khía cạnh của đời sống xã hội chứ không chỉ giới hạn trong phạm vi kinh tế. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm dành lợi ích của sự phát triển cho tất cả mọi người nhằm bảo đảm các nhu cầu cơ bản về ăn, mặc, học tập, chăm sóc sức khoẻ, phổ cập giáo dục, tạo điều kiện cho mọi trẻ em được đến trường, hình thành mạng lưới y tế cơ sở một cách rộng khắp, triển khai công tác phòng bệnh, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, trẻ em, người già, người dân tộc thiểu số và những người có hoàn cảnh khó khăn. Nâng cao chất lượng con người là nhu cầu, mục đích và trách nhiệm của mỗi cá nhân, gia đình, khuyến khích nhân dân tham gia tích cực và sáng tạo vào mọi mặt đời sống kinh tế xã hội. Nói cách khác con người được đặt đúng nghĩa trên thực tế ở vị trí trung tâm của sự phát triển trên cơ sở được Nhà nước, cơ quan, tổ chức mở rộng sự lựa chọn, tạo sự bình đẳng đối với mọi thành viên trong xã hội. Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở nước ta, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, nâng cao chất lượng cuộc sống luôn được xác định là một trong những nhiệm vụ hàng đầu. Trong tiến trình mở cửa, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cần quan tâm đến vị thành niên- nhóm xã hội đặc biệt nhằm trong giai đoạn chuyển tiếp giữa tuổi ấu thơ và tuổi trưởng thành. Đặc trưng quan trọng nhất của nhóm xã hội này là tăng trưởng nhanh về mặt thể chất với việc hoàn thiện bộ máy sinh sản và trưởng thành về mặt xã hội với việc hình thành những đặc tính cơ bản về nhân cách. Đây là nhóm xã hội đang trong quá trình phát triển đặc biệt, dễ thay đổi, chịu tác động nhiều chiều ở cả gia đình, nhà trường và xã hội. Bảo vệ, giáo dục và chăm sóc sức khoẻ cho vị thành niên rõ ràng là một trong những nhiệm vụ xã hội cấp bách của nước ta hiện nay để đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống cho thế hệ tương lai. Xã hội, gia đình và cộng đồng phải quan tâm bảo vệ, giáo dục, chăm sóc bảo vệ sức khoẻ cho họ, đồng thời giúp họ có thể tự mình đưa ra những quyết định đúng về mặt chăm sóc sức khoẻ cho bản thân, hạn chế những ảnh hưởng xấu đến cuộc sống tương lai của các em và tương lai của giống nòi. 2.2.Biện pháp nâng cao chất lượng dân số. “1.Bảo đảm quyền cơ bản của con người; quyền phát triển đầy đủ, bình đẳng về thể chất, trí tuệ, tinh thần; hỗ trợ nâng cao những chỉ số cơ bản về chiều cao, cân nặng, sức bền; tăng tuổi thọ bình quân; nâng cao trình độ học vấn và tăng thu nhập bình quân đầu người; 2.Tuyên truyền, tư vấn và giúp đỡ nhân dân hiểu và chủ động, tự nguyện thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số; 3.Đa dạng hoá các loại hình cung cấp hàng hoá và dịch vụ công cộng, đặc biệt về giáo dục, y tế để cải thiện chất lượng sống và nâng cao chất lượng dân số; 4.Thực hiện chính sách và biện pháp hỗ trợ đối với vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn để nâng cao chất lượng dân số.” (Điều 21 PLDS) Các quy định về những biện pháp nâng cao chất lượng dân số đã định hướng cơ bản, toàn diện từ việc bảo đảm quyền cơ bản của con người, quyền được phát triển đầy đủ, bình đẳng về thể chất, trí tuệ, tinh thần, đến việc định hướng trong tuyên truyền, tư vấn và giúp đỡ nhân dân hiểu và chủ động, tự nguyện thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số, đa dạng hoá các loại hình cung cấp hàng hoá và dịch vụ công cộng, giáo dục và y tế. Các biện pháp nâng cao chất lượng dân số nêu trên được xuất phát từ mục tiêu phát triển con người và các mối quan hệ của con người về mặt sinh học, tự nhiên và xã hội. Biện pháp 1 nhằm bảo đảm yêu cầu mở rộng cơ hội lựa chọn của con người, tạo cho con người thực hiện các quyền cơ bản, quyền phát triển đầy đủ, được tiếp cận y tế, giáo dục, phát triển năng khiếu, hưởng thụ văn hoá nghệ thuật, vui chơi, giải trí. Biện pháp 2 và 3 nhằm tăng cường năng lực lựa chọn của con người và chỉ trên cơ sở mỗi người có kiến thức, kĩ năng và các cơ hội sẵn có thì con người mới có khả năng lựa chon và thực hiện. Trên thực tế vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn thường chưa bảo đảm được các cơ hội cần thiết để con người thực hiện quyền của mình. Đồng thời, nhân dân sinh sống ở các vùng này và những người nghèo, người bị thiệt thòi trong cuộc sống lại thiếu năng lực lựa chọn cơ hội cho mình. Vì vậy, biện pháp 4 đã quy định chính sách và định hướng việc thực hiện các biện pháp ưu tiên đối với những vùng này. Rõ ràng, việc tổ chức thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số có phạm vi rộng thuộc mọi ngành, mọi lĩnh vực trong nền kinh tế và thực tế các ngành các cấp đang tổ chức thực hiện. Song, để nhân dân quyết định thực hiện tốt các biện pháp nâng cao chất lượng dân số thì cần tổ chức, hướng dẫn thực hiện các hoạt động nhằm nâng cao kĩ năng lựa chọn và thực hiện các hoạt động có hiệu quả, đòi hỏi việc tổ chức phải được diễn ra tại cộng đồng theo chiều ngang và bảo đảm cho mọi người dân, mọi gia đình có đủ kĩ năng trong việc thực hiện để trở thành năng lực thực tế. a.Biện pháp về sức khoẻ sinh sản. +)Kiểm tra sức khoẻ trước đăng kí kết hôn. “Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho nam, nữ kiểm tra sức khoẻ trước khi đăng kí kết hôn, xét nghiệm gen đối với người có nguy cơ bị khuyết tật về gen, nhiễm chất độc hoá học; tư vấn về gen di truyền; giúp đỡ về vật chất và tinh thần đối với người bị khuyết tật về gen, nhiễm chất độc hoá học, nhiễm HIV/ AIDS”. (Khoản 1 điều 23 PLDS) “1.Khuyến khích nam, nữ kiểm tra sức khoẻ trước khi đăng kí kết hôn bao gồm những nội dung liên quan đến bệnh di truyền; bệnh lây truyền qua đường tình dục, nhiễm HIV/ AIDS. 2.Cơ sở thực hiện kiểm tra sức khoẻ thông báo kết quả kiểm tra và tư vấn về ảnh hưởng của bệnh tật đối với sức khoẻ của cả hai bên nam, nữ; bảo đảm bí mật của kết quả kiểm tra sức khoẻ theo quy định của pháp luật”. (Điều 25 NĐ 104) +)Kiểm tra sức khoẻ di truyền. “1.Những người có tiền sử gia đình có người mắc bệnh tâm thần, bệnh di truyền, người có nguy cơ khuyết tật về gen; người bị nhiễm chất độc hoá học; người thường xuyên tiếp xúc với hoá chất độc hại và các bệnh lây nhiễm cần được vận động đi kiểm tra sức khoẻ trước khi có ý định sinh con. 2.Cơ quan dân số, Gia đình và Trẻ em cấp xã, phường có trách nhiệm tuyên truyền, vận động và tạo điều kiện cho những người có nguy cơ cao về bệnh di truyền đi kiểm tra bệnh di truyền. 3.Cơ sở thực hiện kiểm tra sức khoẻ và bệnh di truyền có trách nhiệm thông báo kết quả kiểm tra, tư vấn cho người được kiểm tra hoặc người trong gia đình của người được kiểm tra về ảnh hưởng của bệnh tật đối với việc sinh con, nuôi con và bảo đảm bí mật kết quả kiểm tra theo quy định của pháp luật.” (Điều 26 NĐ104) Hiện nay tình trạng trẻ em bị dị tật bẩm sinh là không nhỏ. Mặt khác cộng với sự thiếu hiểu biết về kiến thức sinh sản, nhiều gia đình đã sinh con bị dị tật vẫn hi vọng đứa con thứ hai, thứ ba… của họ sẽ không bị hậu quả như vậy đã dẫn đến nhiều gia đình có tới ba, bốn người con bị dị tật gây đau khổ, khó khăn cho gia đình và xã hội. Dị tật bẩm sinh rất khó điều trị, tỉ lệ tử vong cao và thường kéo dài suốt cuộc đời của người dị tật. Tình trạng sống của người dị tật bẩm sinh rất thương tâm, các thành viên của gia đình cũng rất khổ sở, vất vả và cũng là gánh nặng của xã hội. Tỉ lệ dị tật bẩm sinh ở nước ta vào khoảng 1,5- 3%. Mục tiêu là giảm tỉ lệ số người bị dị tật bẩm sinh nhưng không làm ảnh hưởng đến quyền sinh sản của họ, vì vậy PLDS quy định khuyến khích và tạo điều kiện cho nam nữ kiểm tra sức khoẻ trước khi đăng kí kết hôn, xét nghiệm gen đối với người có nguy cơ khuyết tật về gen, nhiễm chất độc hoá học và hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ công nghệ hỗ trợ sinh sản nhằm giảm tỉ lệ dân số thiểu năng trí tuệ, dị tật, vô sinh; phòng chống bệnh lây nhiễm qua đường sinh sản, HIV/ AIDS. +)Hỗ trợ sinh sản. “Nhà nước đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ công nghệ hỗ trợ sinh sản nhằm giúp đỡ người vô sinh, người triệt sản và những người có nhu cầu theo quy định của pháp luật.” (Khoản 2 điều 23 PLDS) Theo một số đề tài nghiên cứu, tỉ lệ vô sinh ở nước ta khoảng 1,8- 3,1%, trong đó vô sinh nam là 40,8%, vô sinh nữ là 37,4%, vô sinh cả hai là 10,3% và không rõ nguyên nhân là 11,5%. Bên cạnh đó là tình trạng quan hệ tình dục trước hôn nhân đang gia tăng vì do thiếu kiến thức về sinh sản, tình dục đã làm cho lớp trẻ dễ bị rơi vào tình trạng có thai ngoài ý muốn và thường phá thai và phá thai không an toàn lại trở thành nguyên nhân của vô sinh. Cặp vợ chồng vô sinh là cặp vợ chồng sống gần nhau liên tục, không áp dụng biện pháp tránh thai mà không có con sau 1 năm. Nhân tố ảnh hưởng đến vô sinh nam là sóng điện từ, thuốc trừ sâu, hoá chất, viêm thận mãn, quai bị, nghiện rượu, nghiện thuốc lá làm ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng tinh trùng. Phương pháp điều trị vô sinh trước hết là sự đề phòng bằng cách đẩy mạnh tuyên truyền, vận động đối với nam giới phòng tránh các nhân tố gây ra, căn cứ nguyên nhân để điều trị. Để hạn chế tình trạng trên, bằng khoa học y học (thế giới hiện nay đã đạt được những thành tựu to lớn về công nghệ sinh học), Việt Nam ta cũng đang từng bước xúc tiến và triển khai nghiên cứu, ứng dụng khoa học về sàng lọc, rửa, lưu trữ tinh trùng, bơm tinh trùng vào buồng trứng, thụ tinh trong ống nghiệm, sử dụng phương pháp lấy tinh trùng từ mào tinh, ống sinh tinh và cácb biện pháp nhận tinh trùng và noãn phục vụ cho điều trị vô sinh. Như vậy, chính sách KHHGĐ không chỉ xét theo một phía trong việc tự nguyện quyết định thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh phù hợp với chuẩn mực xã hội và điều kiện sống của gia đình, mà còn là nhiệm vụ quan trọng là đem lại hạnh phúc cho các cặp vợ chồng vô sinh được chữa trị để sinh con. Nhà nước đã ban hành chính sách hỗ trợ các cặp vợ chồng vô sinh được sinh con theo phương pháp khoa học, đồng thời hỗ trợ ngân sách để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị, đào tạo cán bộ y tế để thực hiện các dịch vụ kĩ thuật hỗ trợ sinh sản. +) Điều kiện, thủ tục hỗ trợ sinh sản. Nguyên tắc áp dụng kĩ thuật sinh sản bao gồm: các cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ sống độc thân có quyền sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa; việc thực hiện các kĩ thuật hỗ trợ sinh sản phải theo đúng quy trình kĩ thuật do Bộ Y tế ban hành; việc thực hiện các kĩ thuật hỗ trợ sinh sản, cho noãn, nhận noãn, cho tinh trùng, nhận tinh trùng, cho phôi, nhận phôi phải được tiến hành trên nguyên tắc tự nguyện và bí mật. Nghị định số 12/2003/NĐ- CP, ngày 12/2/2003 của chính phủ quy định người cho tinh trùng phải từ đủ 20 tuổi đến 55 tuổi; người cho noãn phải từ đủ 18 tuổi đến 35 tuổi; người nhận tinh trùng, nhận noãn, nhận phôi phải từ đủ 20 tuổi dến 45 tuổi; cả người cho và người nhận phải có đủ sức khoẻ, không mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/ AIDS, bệnh tâm thần, bệnh truyền nhiễm hay các bệnh di truyền khác; tự nguyện cho và không tìm hiểu về tên, tuổi, địa chỉ và hình ảnh của người nhận, người cho. Tinh trùng của người cho chỉ được sử dụng cho một người, noãn của người cho chỉ được sử dụng cho một người và phôi của người cho chỉ có thể được sử dụng cho một người là điều kiện, yêu cầu và nguyên tắc trong việc thực hiện kĩ thuật hỗ trợ sinh sản. Cặp vợ chồng vô sinh, phụ nữ sống độc thân có nhu cầu phải có hồ sơ đề nghị thực hiện kĩ thuật hỗ trợ sinh sản gửi về các cơ sở y tế được công nhận thực hiện các kĩ thuật này, gồm có: đơn đề nghị được thực hiện hỗ trợ sinh sản, hồ sơ khám xác định vô sinh của cặp vợ chồng đứng tên trong đơn đề nghị được thực hiện kĩ thuật hỗ trợ sinh sản. Trong trường hợp không thể thực hiện được bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản thì cơ sở y tế phải trả lời đương sự băng văn bản, đồng thời nêu rõ lí do không thực hiện được. Kinh phí để thực hiện các kĩ thuật hỗ trợ sinh sản theo sự thoả thuận giữa cặp vợ chồng vô sinh với cơ sở y tế trên nguyên tắc bảo đảm đủ chi phí cho việc thực hiện các kĩ thuật trên theo hướng dẫn của Bộ Y tế. Trường hợp người thực hiện kĩ thuật hỗ trợ sinh sản đặc biệt khó khăn thì có thể được xem xét miễn giảm kinh phí thực hiện kĩ thuật hỗ trợ sinh sản. Việc miễn giảm kinh phí thực hiện kĩ thuật hỗ trợ sinh sản được trích từ tiền thu một phần viện phí và từ các nguồn tài trợ nhân đạo khác (nếu có). Trẻ ra đời do thực hiện kĩ thuật hỗ trợ sinh sản phải được sinh ra từ người mẹ trong cặp vợ chồng vô sinh hoặc người phụ nữ sống độc thân và họ được xác định là cha mẹ do thực hiện kĩ thuật hỗ trợ sinh sản. +)Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. PLDS quy định về xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững như sau: “Nhà nước có chính sách và biện pháp nhằm loại trừ mọi hình thức phân biệt giới, phân biệt đối xử giữa con trai và con gái, bảo đảm phụ nữ và nam giới có quyền lợi, nghĩa vụ như nhau trong việc xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững”. (Khoản 1 điều 24 PLDS) Đồng thời PLDS quy định về trách nhiệm của các thành viên trong gia đình trong việc xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững: “Các thành viên trong gia đình có trách nhiệm hỗ trợ nhau trong việc thực hiện các biện pháp chăm sóc sức khoẻ, sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho từng thành viên” (Khoản 4 điều 24 PLDS). Một trong những biểu hiện của mục tiêu xây dựng gia đình là các thành viên trong gia đình đều có nghĩa vụ quan tâm, giúp đỡ nhau, cùng nhau chăm lo đời sống chung của gia đình, đóng góp công sức, tiền và tài sản để duy trì đời sống phù hợp với thu nhập, khả năng thực tế của mình. Đồng thời các thành viên gia đình được hưởng sự chăm sóc giúp đỡ nhau trong sinh hoạt, học tập, lao động, công tác và phát triển toàn diện khả năng của mỗi thành viên gia đình. +)Khuyến khích duy trì gia đình nhiều thế hệ. “Nhà nước có chính sách khuyến khích duy trì gia đình nhiều thế hệ; mở rộng các dịch vụ xã hội phù hợp với các hình thái gia đì

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChất lượng dân số Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan