Đề tài Chế định cạnh tranh không lành mạnh trong pháp luật cạnh tranh

Châu Âu là nơi khởi đầu của pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh, và cũng là nơi phát sinh các cách tiếp cận khác biệt trong quá trình xây dựng pháp luật về cạnh tranh không. Như đã trình bày tại phần trên, ba trung tâm kinh tế lớn của Châu Âu là Pháp, Đức và Anh có những cách điều chỉnh cạnh tranh không lành mạnh riêng, trong đó đáng ngạc nhiên là hệ thống của Pháp lại có nhiều điểm gần với Anh hơn là Đức.

- Pháp và Anh đều điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên cơ sở các nguyên tắc chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (tort law) và cụ thể hoá thông qua các án lệ. Một số nước khác cũng xây dựng pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh theo hướng này là Hà Lan và Italia. Tại các quốc gia này, toà án có vai trò rất lớn trong việc đánh giá hành vi cạnh tranh không lành mạnh và quyết định biện pháp xử lý, với chế tài chủ yếu là bồi thường thiệt hại.

 

doc42 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4264 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chế định cạnh tranh không lành mạnh trong pháp luật cạnh tranh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vệ người tiêu dùng… Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng tác động của dạng hành vi nói trên không giới hạn tại một số khách hàng bị lôi kéo và các đối thủ cạnh tranh bị mất khách hàng. Quan trọng hơn, dạng hành vi này còn khiến thị trường trở nên không minh bạch, làm sai lệch giao dịch giữa các chủ thể tham gia thị trường, và qua đó ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh doanh chung. Do đó, các quy định điều chỉnh dạng hành vi này vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong pháp luật cạnh tranh nói chung cũng như chế định về cạnh tranh không lành mạnh nói riêng của nhiều quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển. Cuối cùng, việc phân nhóm các hành vi cạnh tranh không lành mạnh như trên mang tính khái quát phục vụ công tác nghiên cứu. Trên thực tế, giữa các nhóm hành vi nói trên có sự giao thoa và một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể xếp vào hơn một nhóm nếu xem xét mục đích vi phạm cũng như đối tượng tác động của chúng. Chẳng hạn như hành vi quảng cáo so sánh vừa có mục đích công kích đối thủ cạnh tranh, vừa mang tính chất lôi kéo bất chính khách hàng, đặc biệt nếu sự so sánh dựa trên thông tin sai lệch. Hay hành vi sử dụng trái phép các dấu hiệu, chỉ dẫn thương mại của đối thủ cạnh tranh trước tiên mang tính chất lợi dụng uy tín nhưng về lâu dài dẫn đến hậu quả là làm giảm tính chất độc đáo, khả năng phân biệt của chỉ dẫn thương mại (dillusion), làm triệt tiêu lợi thế cạnh tranh của đối thủ. Hành vi lôi kéo nhân viên của doanh nghiệp khác trong nhiều trường hợp cũng phát sinh khả năng xâm phạm bí mật kinh doanh… Nhìn chung, việc đánh giá hành vi cạnh tranh không lành mạnh phụ thuộc nhiều vào thực tiễn xử lý, dựa trên quan điểm của cơ quan cạnh tranh, mức độ ảnh hưởng của hành vi cũng như sự cân bằng giữa lợi ích của doanh nghiệp và của người tiêu dùng, giữa yêu cầu bảo hộ các quyền chính đáng của doanh nghiệp và khuyến khích cạnh tranh tự do, phát triển kinh tế xã hội. Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong mối quan hệ với các lĩnh vực pháp luật khác Do phạm vi điều chỉnh rộng và các tiêu chí đánh giá mở đối với cạnh tranh không lành mạnh, các quy định về cạnh tranh không lành mạnh trong nhiều trường hợp được sử dụng với tính chất “quét”, bổ trợ cho các lĩnh vực khác trong hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động của nền kinh tế thị trường. Do đó, pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh có quan hệ chặt chẽ với nhiều lĩnh vực pháp luật khác, và các quan hệ này làm tăng thêm tính chất chồng lấn trong các quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Xuất phát từ đặc điểm này, đã hình thành cái gọi là Nguyên tắc ưu tiên (Pre-emption principle) trong thực tiễn áp dụng pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh của nhiều quốc gia, đặc biệt là tại Châu Âu. Theo nguyên tắc tại, pháp luật cạnh tranh không lành mạnh chỉ được áp dụng trong trường hợp hành vi vi phạm chưa chịu sự điều chỉnh theo quy định của các văn bản pháp luật khác Anselm Kamperman Sanders (1997) Unfair competition law: The protection of intellectual and industrial creativity, Claredon Press Oxford, p.11 . Mức độ áp dụng nguyên tắc này tại mỗi quốc gia khác nhau, phụ thuộc vào cách tiếp cận của mỗi hệ thống pháp luật trong việc điều chỉnh cạnh tranh không lành mạnh. - Quan hệ với pháp luật dân sự: Pháp luật về dân sự là luật chung điều chỉnh về các quan hệ giao dịch cũng như giải quyết các tranh chấp trên thị trường. Như đã phân tích ở trên, một trong những nguồn của pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh là chế định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (tort), theo đó các doanh nghiệp bị thiệt hại từ hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể sử dụng các quy định của tố tụng dân sự để yêu cầu bồi thường thiệt hại. Mặt khác các nguyên tắc chung của pháp luật dân sự về tự do, tự nguyện, trung thực trong giao dịch… cũng được sử dụng để làm tiêu chí đánh giá tính chất không lành mạnh của một hành vi vi phạm. Pháp luật dân sự là luật gốc để phát triển các quy định về cạnh tranh không lành mạnh, cho dù các quy định này trong khuôn khổ một đạo luật riêng, hay nằm trong các bộ phận khác nhau của pháp luật dân sự như pháp luật thương mại, pháp luật về sở hữu trí tuệ hay pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng. Bên cạnh đó, một số nước vẫn sử dụng các quy định của pháp luật dân sự để điều chỉnh trực tiếp về cạnh tranh không lành mạnh và toà án đóng vai trò xử lý các hành vi vi phạm. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh dần tách khỏi khuôn khổ của pháp luật dân sự và mang nhiều yếu tố hành chính. Cạnh tranh không lành mạnh không còn là vấn đề của luật tư liên quan đến tranh chấp giữa hai chủ thể kinh doanh trên thị trường và trong nhiều trường hợp, nhân danh lợi ích công, nhà nước cần phải can thiệp để duy trì trật tự trong kinh doanh, qua đó tạo dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh. Trật tự trong kinh doanh đem lại lợi ích cả cho nhà nước lẫn các chủ thể tham gia hoạt động thị trường. Vì vậy, các biện pháp quản lý và chế tài hành chính dần xuất hiện trong cơ chế điều chỉnh của pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh và cơ quan cạnh tranh được trao thẩm quyền nhiều hơn trong việc xử lý các hành vi cạnh tranh. - Quan hệ với pháp luật về sở hữu trí tuệ: mối quan hệ giữa pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật về sở hữu trí tuệ có từ rất lâu. Như đã giới thiệu, các quy định mang tính quốc tế đầu tiên về cạnh tranh không lành mạnh xuất phát từ một công ước về sở hữu trí tuệ (Công ước Paris về Bảo hộ sở hữu công nghiệp), và cho tới nay nhiều nhà nghiên cứu về pháp luật sở hữu trí tuệ vẫn khẳng định quyền chống cạnh tranh không lành mạnh là một trong những quyền cơ bản của chủ sở hữu tài sản trí tuệ. Bảo vệ quyền sở hũu trí tuệ chính là một trong những xuất phát điểm cơ bản của các quy định cạnh tranh không lành mạnh, vì về bản chất, các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đều được tiến hành với động cơ cạnh tranh không lành mạnh. Một hành vi chỉ bị coi là xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ khi chủ thể thực hiện nó có ý định hoặc đã đưa tài sản trí tuệ của người khác vào khai thác thương mại, đồng nghĩa với việc trở thành một đối thủ cạnh tranh của chính chủ sở hữu tài sản trí tuệ đó. Hiện nay, sự phân biệt giữa pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật về sở hữu trí tuệ tập trung ở đối tượng được bảo vệ. Pháp luật về sở hữu trí tuệ hướng tới việc bảo hộ các đối tượng tài sản trí tuệ mà quyền sở hữu được xác lập một cách rõ ràng, đầy đủ thông qua các thủ tục đăng ký, cấp văn bằng bảo hộ hoặc các tiến trình pháp lý khác do nhà nước quy định. Sự bảo vệ pháp luật dành cho các đối tượng này do đó cũng là đầy đủ và vững chắc nhất. Trong khi đó, pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh bảo vệ các lợi thế cạnh tranh không được bảo hộ thông qua văn bằng, chẳng hạn như nhãn hiệu chưa đăng ký hoặc bí mật kinh doanh. Do việc xác lập quyền đối với các đối tượng này không trải qua thủ tục chặt chẽ như đăng ký quyền sở hữu trí tuệ, nên sự bảo hộ mà pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh dành cho chủ sở hữu không thể mạnh mẽ bằng các biện pháp bảo hộ sở hữu trí tuệ. Trong các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, bên khiếu nại thường phải chứng minh quyền hợp pháp đối với đối tượng bị vi phạm, bao gồm việc tạo lập, duy trì, sử dụng phổ biến, lâu dài và không có tranh chấp... Hay xét trên một khía cạnh khác, nếu như pháp luật về sở hữu trí tuệ bảo vệ vị thế chung của chủ sở hữu tài sản trí tuệ, thì pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh bảo vệ chủ sở hữu chống lại một số dạng hành vi nhất định xâm phạm đến tài sản trí tuệ. Do đó, sự bảo hộ của pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh không mang tính liên tục, mà chỉ phát sinh khi xuất hiện tranh chấp. Vì vậy, pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong nhiều trường hợp được coi là là công cụ bổ trợ cho việc thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ. Quan hệ với pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng: Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh ngày càng có xu hướng tiếp cận gần hơn với pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng khi đặt trọng tâm bảo vệ người tiêu dùng bên cạnh trọng tâm bảo vệ các đối thủ cạnh tranh và môi trường cạnh tranh nói chung. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh thuộc nhóm thứ 3 trên đây, đặc biệt là các dạng hành vi mang tính chất lừa dối, cưỡng ép… có mặt trong nhiều đạo luật về bảo vệ người tiêu dùng. Đặc biệt, Cộng đồng Châu Âu đã có một văn bản riêng quy định về các hành vi thương mại không lành mạnh (unfair trade practice) là Chỉ thị số 2005/29/EC ngày 11/5/2005 trên cơ sở sửa đổi, bổ sung các Chỉ thị số 84/450/EEC, 97/7/EC, 98/27/EC và 2002/65/EC quy định riêng về quảng cáo gây nhầm lẫn. Trước đây, có một số quan điểm cho rằng sự phân biệt giữa pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng nằm đối tượng được bảo vệ, pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh chỉ bảo vệ các doanh nghiệp cạnh tranh trên thị trường cũng như môi trường cạnh tranh chung, trong khi vai trò bảo vệ người tiêu dùng đương nhiên thuộc về pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng. Tuy nhiên, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các quan hệ về cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng ngày càng gắn bó và không thể tách rời. Nếu như cạnh tranh trên thị trường được định nghĩa một cách đơn giản là việc giành giật khách hàng trong kinh doanh, thì giữa ba bên doanh nghiệp – khách hàng/người tiêu dùng – các đối thủ cạnh tranh có quan hệ gắn bó khó có thể tách rời. Việc lôi kéo, thu hút khách hàng bằng các thủ đoạn bất chính chắc chắn sẽ làm thiệt hại cho các doanh nghiệp cạnh tranh kinh doanh trung thực, lành mạnh, mặt khác, những thủ đoạn lợi dụng hoặc làm mất uy tín của đối thủ cạnh tranh cũng ảnh hưởng tiêu cực đến người tiêu dùng, khiến họ nhầm lẫn và trả tiền cho các hàng hoá, dịch vụ không đúng như mong muốn của mình. Môi trường cạnh tranh lành mạnh chính là môi trường ở đó quyền lợi của người tiêu dùng được đảm bảo ở mức cao nhất. Một yếu tố khác có thể sử dụng để phân biệt phạm vi áp dụng của pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh là thời điểm tác động. Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng, đặc biệt thể hiện tại các quy định về giải quyết tranh chấp và bồi thường thiệt hại, có khuynh hướng quan tâm tới việc bảo vệ người tiêu dùng trong và sau khi xảy ra giao dịch, trong đó xác định được cụ thể một hay một nhóm người tiêu dùng chịu tác động từ hành vi vi phạm. Trong khi đó, pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh bảo vệ hướng tới việc bảo vệ đối tượng người tiêu dùng nói chung, hay có thể gọi một cách khác là một số đông những người tiêu dùng tiềm năng, trước khi họ tham gia giao dịch. Thông qua việc ngăn chặn những hành vi lừa dối, gây nhầm lẫn, lôi kéo bất chính… pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh góp phần loại bỏ khả năng phát sinh các vi phạm gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Mặt khác, trong trường hợp xác định một hoặc một số người tiêu dùng cụ thể do chịu tác động của hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã tham gia giao dịch và chịu thiệt hại, vụ việc nên được điều chỉnh theo các quy định về bảo vệ người tiêu dùng, và hành vi lừa dối hay gây nhầm lẫn của thương nhân sẽ được coi là căn cứ để xác định sự vô hiệu của giao dịch. Quan hệ với pháp luật về hạn chế cạnh tranh: Cuối cùng, pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh cũng có sự gắn bó với bộ phận thức hai của pháp luật cạnh tranh nói chung, đó là pháp luật về hạn chế cạnh tranh. Có thể hình dung nếu như hành vi hạn chế cạnh tranh là những hành vi đẩy lùi cạnh tranh, làm cạnh tranh vận hành dưới mức bình thường, dẫn đến triệt tiêu cạnh tranh, thì cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi đẩy cạnh tranh lên quá mức, khiến nó vận hành quá nóng, vượt khỏi các giới hạn có thể chấp nhận được của thị trường và xã hội. Dù có sự phân chia thành hai lĩnh vực, song cả pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật chống hạn chế cạnh tranh đều hướng tói mục đích bảo vệ cơ chế cạnh tranh, bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh và thông qua đó bảo vệ lợi ích của toàn thể người tiêu dùng xã hội. Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ra đời trước, từ khi cơ chế thị trường mới hình thành với các hoạt động cạnh tranh sơ khai đã có những hành vi vượt ra ngoài khuôn khổ, cần phải điều chỉnh. Pháp luật chống hạn chế cạnh tranh ra đời sau, khi thị trường đã phát triển và tập trung hoá đến một mức độ nhất định để có thể phát sinh những trung tâm quyền lực thị trường. Tuy nhiên, điều chỉnh hạn chế cạnh tranh lại được xem là nền tảng của pháp luật cạnh tranh, vì đó là bảo vệ toàn bộ cơ chế cạnh tranh. Nếu cạnh tranh bị thủ tiêu, toàn bộ các hoạt động cạnh tranh trên thị trường, dù là lành mạnh hay không lành mạnh, sẽ không còn nữa. Do đó, thái độ của Nhà nước đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh thường quyết liệt và nghiêm khắc hơn rất nhiều. Tuy nhiên, ở chiều ngược lại chống cạnh tranh không lành mạnh cũng chính là chống các động thái có thể đưa đến tình trạng hạn chế cạnh tranh, và các hành vi hạn chế cạnh tranh có thể nhìn nhận một cách khái quát cũng mang bản chất không lành mạnh. Như đã trình bày ở phần trên, pháp luật một số quốc gia quy định các hành vi hạn chế cạnh tranh dạng “nhẹ” vào khuôn khổ điều chỉnh của pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh. Hai bộ phận pháp luật trên đây bổ sung cho nhau, tạo thành khuôn khổ pháp luật chung điều chỉnh cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Thiếu một trong hai bộ phận, cơ cấu thị trường cũng như tương quan lợi ích của các chủ thể hoạt động trên đó sẽ không thể được bảo vệ một cách đầy đủ và toàn diện. Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh của một số quốc gia trên thế giới Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Châu Âu Châu Âu là nơi khởi đầu của pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh, và cũng là nơi phát sinh các cách tiếp cận khác biệt trong quá trình xây dựng pháp luật về cạnh tranh không. Như đã trình bày tại phần trên, ba trung tâm kinh tế lớn của Châu Âu là Pháp, Đức và Anh có những cách điều chỉnh cạnh tranh không lành mạnh riêng, trong đó đáng ngạc nhiên là hệ thống của Pháp lại có nhiều điểm gần với Anh hơn là Đức. - Pháp và Anh đều điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên cơ sở các nguyên tắc chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (tort law) và cụ thể hoá thông qua các án lệ. Một số nước khác cũng xây dựng pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh theo hướng này là Hà Lan và Italia. Tại các quốc gia này, toà án có vai trò rất lớn trong việc đánh giá hành vi cạnh tranh không lành mạnh và quyết định biện pháp xử lý, với chế tài chủ yếu là bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, vẫn có sự khác biệt giữa hai hệ thống Dân luật và Thông luật trong cách thức áp dụng pháp luật đối với lĩnh vực này. Trong hệ thống của Pháp, phạm vi áp dụng tort law đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh tương đối rộng, Toà án có thẩm quyền xem xét và phán quyết nhiều hành vi cạnh tranh khác nhau, từ đó hình thành các án lệ đa dạng về các hành vi gây cản trở hoạt động cạnh tranh (concurrence déloyal) và các hành vi lợi dụng thành quả của đối thủ cạnh tranh (concurrence parasitaire). Trong các vụ việc tại toà án, bên nguyên đơn cần chứng minh sự tồn tại của hành vi cạnh tranh không lành mạnh, thiệt hại xảy ra và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại; và bên bị đơn có trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà không cần xét đến yếu tố lỗi (cố ý) đối với hành vi vi phạm. Hà Lan cũng áp dụng mô hình này, tuy nhiên với nguyên tắc “doanh nghiệp được thực hiện mọi hoạt động cạnh tranh không bị cấm bởi quy định pháp luật” kết hợp với nguyên tắc ưu tiên, việc sử dụng các điều khoản chung của pháp luật dân sự để xử lý vụ việc cạnh tranh bị hạn chế hơn. Trong khi đó, hệ thống Thông luật của Anh chỉ thừa nhận việc áp dụng tort law về cạnh tranh không lành mạnh đối với một số dạng hành vi cụ thể như gây nhầm lẫn, mạo nhận về nhãn hiệu (passing off) và xâm phạm bí mật kinh doanh. Do đó, để được toà án giải quyết, các vụ việc về cạnh tranh không lành mạnh phải đáp ứng một số yêu cầu nhất định, và các thẩm phán có thể từ chối thụ lý nếu vụ việc liên quan đến các hành vi thị trường nằm ngoài phạm vi các hành vi cạnh tranh không lành mạnh nêu trên.. - Bên cạnh đó, một số nước đã lựa chọn cách tiếp cận sử dụng luật chuyên ngành (lex specialis) để điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Một số nước như Đức, Áo, Bỉ, Đan Mạch, Phần Lan, Tây Ban Nha, Thuỵ Sỹ, Luxemburg đã có một đạo luật riêng về cạnh tranh không lành mạnh, một số nước khác như Hungary, Bulgary hay Rumani xây dựng các quy định về cạnh tranh không lành mạnh trong một đạo luật về thương mại hay cạnh tranh. Các quốc gia này đã luật hoá một số dạng hành vi cạnh tranh không lành mạnh điển hình, dựa trên cơ sở các khuyến nghị tại Điều 10bis Công ước Paris về Bảo hộ Sở hữu công nghiệp, và lấy đó làm cơ sở cho việc thực thi pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh. Tuỳ thuộc vào quan điểm điều tiết nền kinh tế thị trường của từng quốc gia tại từng thời kỳ nhất định, danh sách các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm có thể nhiều hay ít. Cách tiếp cận này một mặt khiến cho các quy định về cạnh tranh không lành mạnh rõ ràng và dễ áp dụng, nhưng mặt khác khiến cho quá trình thực thi trở nên cứng nhắc và gây khó khăn cho cơ quan thực thi trong việc điều chỉnh các hành vi cạnh tranh mới xuất hiện, hay có sự thay đổi về điều kiện kinh tế xã hội. Ví dụ, nhiều nước tại Châu Âu trong một thời gian dài đã coi việc một doanh nghiệp tìm kiếm và thu hút các khách hàng đã có quan hệ hợp đồng ổn định với doanh nghiệp cạnh tranh khác là một dạng thức cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên rõ ràng trong điều kiện nền kinh tế thị trường tự do, quy định như vậy là không hợp lý, một mặt không đảm bảo quyền tự do lựa chọn cho khách hàng, mặt khác không tạo động lực khuyến khích các doanh nghiệp có động lực phát triển. Việc sửa đổi, bổ sung danh sách các hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã được luật hoá đòi hỏi phải có những nỗ lực lập pháp với thủ tục không dễ dàng, nhiều khi không đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh chóng và linh hoạt của cơ chế thị trường. - Trong nhiều năm gần đây, đã có những nố lực để thống nhất các quy định về cạnh tranh không lành mạnh giữa các nước thành viên EU trong khuôn khổ chương trình hài hoà hoá pháp luật chung (legal harmonisation) của Cộng đồng Châu Âu. Dựa trên Công ước Paris về Bảo hộ Sở hữu Công nghiệp, các quốc gia Châu Âu đã phát triển các quy định chung theo nhiều hình thức, cấp độ, từ các nguyên tắc cơ bản về cạnh tranh tại Hiệp ước Rome 1957 đến những thoả thuận nhóm như Luật Nhãn hiệu chung của khối Benelux 1971 và những hướng dẫn chung từ EC đến các nước thành viên như Chỉ thị số 2005/29/EC. Mặc dù vậy, tính đến sự khác biệt còn tồn tại giữa hệ thống pháp luật của các quốc gia thành viên, EU vẫn phải bổ sung một số nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật, trong đó đặc biệt quan trọng là nguyên tắc nước xuất xứ tại Điều 28 của Hiệp ước Châu Âu, theo đó pháp luật của quốc gia nhập khẩu được ưu tiên áp dụng để đánh giá tính hợp pháp trong việc kinh doanh một loại hàng hoá nhất định. EC cũng đã ban hành Quy định số 2006/2004 ngày 27/10/2004 về việc hợp tác giữa các cơ quan chịu trách nhiệm thực thi pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của các quốc gia thành viên. Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Hoa Kỳ Mặc dù đã phát triển hệ thống các quy định về hạn chế cạnh tranh từ rất lâu (Luật Sherman – 1890), các quy định về cạnh tranh không lành mạnh của Hoa Kỳ lại tương đối phân tán. Các nhà lập pháp của Hoa Kỳ kết hợp cả hai cách tiếp cận của Châu Âu trong việc điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh, sử dụng các các quy định chung về bồi thường thiệt hại dân sự cũng như một số quy định chuyên ngành, và thậm chí có sự khác biệt giữa pháp luật liên bang và pháp luật các tiểu bang. Các quy định cạnh tranh quan trọng nhất có thể kể đến là Luật về Uỷ ban Thương mại liên bang (1914) và Luật Nhãn hiệu liên bang, hay còn gọi là Luật Lanham (1946). Luật về Uỷ ban Thương mại liên bang đặt cơ sở cho việc thành lập Uỷ ban Thương mại liên bang Hoa Kỳ (US FTC), một trong hai cơ quan chịu trách nhiệm thực thi pháp luật cạnh tranh ở Mỹ. Khác với cơ quan cạnh tranh còn lại là Cục Chống độc quyền thuộc Bộ Tư pháp chuyên trách về hạn chế cạnh tranh theo Luật Chống độc quyền, chức năng của Uỷ ban Thương mại Liên bang rộng hơn, bên cạnh chức năng điều tra và giám sát các vụ việc chống độc quyền, còn bao gồm việc xử lý “các cách thức cạnh tranh không lành mạnh ảnh hưởng đến thương mại, và các hành vi không lành mạnh hoặc gian dối ảnh hưởng đến thương mại”(Điều 5 Luật về Uỷ ban Thương mại liên bang Hoa Kỳ). Khái niệm “cách thức cạnh tranh không lành mạnh”(unfair methods of competition) đã gây nhiều tranh luận giữa các nhà lập pháp ở cả hai Viện của Quốc hội Hoa Kỳ, và sau đó được thay thể bằng khái niệm “cạnh tranh không lành mạnh” (với phạm vi bao gồm cả các hành vi hạn chế cạnh tranh). Uỷ ban Thương mại liên bang Hoa Kỳ (USFTC) đã có những giải thích rõ hơn về phạm vi các hành vi “không lành mạnh” và “gian dối” trong các văn bản hướng dẫn theo thẩm quyền của mình. Trong bản Tuyên bố chính sách về hành vi không lành mạnh, cơ quan này nêu rõ: “Luật thành văn chỉ định khung cho các điều khoản chung do Quốc hội nhận thấy rằng không thể soạn ra một danh sách các hành vi không lành mạnh mà không bị lạc hậu một cách nhanh chóng hoặc tạo ra những kẽ hở cho vi phạm. Nhiệm vụ xác định các hành vi cạnh tranh không lành mạnh thuộc về Uỷ ban, với hy vọng các tiêu chí đánh giá sẽ được xem xét và phát triển theo thời gian” US Federal Trade Commission (1980), FTC Policy Statement on Unfairness, , Washington D.C. . Căn cứ trên các án lệ tại toà án, đến năm 1964 Uỷ ban đã hình thành 3 tiêu chí để đánh giá hành vi cạnh tranh không lành mạnh, đó là: (i) gây thiệt hại cho người tiêu dùng, (ii) vi phạm các chính sách xã hội hiện hành; và (iii) vô đạo đức và không cẩn trọng. Cũng trên cách tiếp cận này, trong Tuyên bố chính sách về hành vi gian dối, Uỷ ban xác định 3 yếu tố cần xem xét trong một vụ việc gian dối, đó là: - Phải có một diễn giải, một thiếu sót hoặc một hành động có thể gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. - Người tiêu dùng ứng có nhận thức và ứng xử hợp lý trong hoàn cảnh tiếp nhận quảng cáo. - Cuối cùng, diễn giải, thiếu sót hoặc hành động phải có tác động về mặt vật chất, có nghĩa là có thể dẫn người tiêu dùng đến quyết định hoặc hành động mua hàng. Khi có tác động vật chất, mới dẫn đến khả năng gây thiệt hại cho người tiêu dùng, do người tiêu dùng có thể đã có lựa chọn khác nếu không có gian dối US Federal Trade Commission (1983), FTC Policy Statement on Deception, Washington D.C. . Khi có vi phạm xảy ra, Luật về Uỷ ban Thương mại liên bang cho phép cơ quan này nhân danh lợi ích công tổ chức phiên điều trần với sự có mặt của bên vi phạm để làm rõ hành vi, và dựa trên kết quả phiên điều trần ra quyết định buộc đình chỉ và chấm dứt đối với hành vi bị xem là không lành mạnh. Trong trường hợp quyết định có hiệu lực (không có kháng cáo hoặc kháng cáo không được Toà Phúc thẩm hoặc Toà Tối cao chấp thuận), nếu bên bị đơn tiếp tục vi phạm, Uỷ ban có thể đưa vụ việc ra Toà án và yêu cầu phạt dân sự mỗi hành vi vi phạm tới 10.000 USD, trong trường hợp vi phạm kéo dài thì mỗi ngày vi phạm bị tính là một hành vi riêng rẽ (Điều 5 khoản (l)). Riêng đối với quảng cáo gian dối, Uỷ ban có thể khởi kiện trực tiếp ra toà án địa phương có thẩm quyền, yêu cầu bồi thường thiệt hại và cải chính công khai. Trong trường hợp quảng cáo gian dối gây ra thiệt hại về sức khoẻ, bên vi phạm sẽ bị phạt tiền tới 5.000 USD hoặc phạt tù tới 6 tháng hoặc chịu cả hai hình phạt, vi phạm tới lần thứ hai mức phạt là 10.000 USD và phạt tù tới 1 năm. Nếu Luật về Uỷ ban Thương mại liên bang trao thẩm quyền cho US FTC chủ động thực hiện các biện pháp pháp lý chống quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh với tư cách đại diện cho lợi ích công và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, thì Luật Lanham mở ra một kênh khác cho phép các đối thủ cạnh tranh trực tiếp khiếu nại, và thủ tục này cũng được US FTC ủng hộ với quan điểm cho rằng thiệt hại của người tiêu dùng cũng đồng nghĩa với thiệt hại của đối thủ cạnh tranh. Mặc dù nội dung chủ yếu của đạo luật này quy định về nhãn hiệu hàng hoá, Điều 43(a) quy định: “Bất kỳ ai liên quan đến việc kinh doanh hàng hoá, dịch vụ sử dụng từ ngữ, khái niệm, tên, biểu tượng, hình vẽ hoặc sự kết hợp của chúng, hay nguồn gốc xuất xứ giả mạo, mô tả gian dối hoặc gây nhầm lẫn: - có thể gây bối rối, sai sót hoặc đánh lừa về sự liên hệ, liên kết hoặc hợp tác giữa người này với một người khác, hoặc về nguồn gốc, khả năng tài trợ hoặc sự chấp nhận hàng hoá, dịch vụ hoặc hoạt động thương mại của người này từ người khác đó; hoặc - trong quảng cáo hay khuyến mại thương mại mà diễn giải sai lệch bản chất, đặc điểm, số lượng, nguồn gốc địa lý của hàng hoá, dịch vụ hay hành động thương mại của người này hay người khác đó; sẽ chịu trách nhiệm từ khởi kiện dân sự của bất kỳ ai cho rằng lợi ích của họ bị thiệt hại hoặc có thể bị thiệt hại do hành vi nêu trên. Để chứng minh thiệt hại, bên nguyên đơn phải đưa ra được trường hợp người tiêu dùng thực tế tin vào quảng cáo gian dối và từ đó ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của mình

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChế định cạnh tranh không lành mạnh trong pháp luật cạnh tranh.doc