Đề tài Chiến lược hướng về xuất khẩu của Việt Nam từ nay đến năm 2005

Để tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế, đồng thời phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao vị trí của Việt Nam trên thế giới. Đảng và Nhà nước ta đã chọn con đường hướng ngoại để phát triển kinh tế và cụ thể là chiến lược tăng trưởng dựa trên xuất khẩu. Đồng thời Đảng và Nhà nước cũng đưa ra một loạt các biện pháp, chính sách nhằm thực hiện tốt chiến lược. Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, kết hợp chặt chẽ với thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả. Đi đôi với mở rộng quan hệ với nước ngoài, Việt Nam sẽ luôn giữ vững nền độc lập và tự chủ của mình, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng an ninh.

Chiến lược hướng về xuất khẩu là điều mà chúng ta đã thực hiện, bước đầu đã đạt được kết quả đáng khích lệ, nền kinh tế tăng trưởng nhanh, tình hình chính trị - xã hội ổn định. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện chiến lược vẫn còn một số tồn tại cần phải khắc phục và giải quyết bằng nhiều biện pháp chính sách khác nhau. Muốn vậy Nhà nước phải kiểm tra, kiểm soát và thúc đẩy hơn nữa việc thực hiện chiến lược. Tuỳ từng hoàn cảnh, từng giai đoạn cụ thể để đề ra những quyết sách mạnh mẽ nhằm đưa chiến lược đi đến thành công./.

 

 

doc37 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1172 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chiến lược hướng về xuất khẩu của Việt Nam từ nay đến năm 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a hội nhập vào các tổ chức kinh tế thế giới khác như WTO. Điều đó tạo thuận lợi cho hàng hoá của Việt Nam lưu thông trên thị trường khu vực và thế giới. Nhìn ra bên ngoài cục diện thế giới đang thay đổi nhanh chóng và sâu sắc trên nhiều mặt, xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Châu á- Thái Bình Dương sẽ tiếp tục phát triển năng động và đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn các khu vực khác. Trong khu vực hoạt động đầu tư ngày càng mạnh mẽ, tiếp tục diễn ra sự liên kết kinh tế nhiều tầng nấc. Các trung tâm kinh tế thế giới, các nước lớn đều hướng trọng tâm hoạt động kinh tế chính trị vào Châu á- Thái Bình Dương. Điều này cho thấy sự thuận lợi quyết định sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. 4.2. Thách thức. Không một quốc gia, dân tộc nào phát triển trong thời đại ngày nay mà không đứng trước những thách thức và đều là thách thức to lớn. Nước ta trên đường tăng trưởng nhằm phát triển kinh tế - xã hội dựa trên xuất khẩu ít nhất là phải đối mặt với nhưng thách thức chủ yếu sau đây. a. Điểm xuất phát thấp. - Nước ta vẫn còn là một nước nghèo và kém phát triển. GDP/người năm 1997 là 321 USD, 20% số dân vẫn sống trong tình trạng nghèo khổ. - Dân số còn tăng nhanh (1,9%) và đặc biệt mật độ dân cư trên nhiều vùng rất cao nhưng lại thiếu đất làm ăn. Nước ta hiện nay còn 70% lực lượng lao động làm nông nghiệp. áp lực dân số đông và thiếu việc làm là rất lớn. - Trình độ công nghệ trong các ngành kinh tế nói chung còn rất thấp. Chỉ một số ít có công nghệ tương đối hiện đại. Nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp được trang bị từ những năm 1960, thấp thua so với trình độ trung bình của thế giới đến 2-4 thế hệ công nghệ . - Trình độ phát triển kinh tế kém, nền kinh tế hàng hoá mới bắt đầu hình thành trong năm tới, lực lượng sản xuất nhỏ bé, cơ sở vật chất nhất là kết cấu hạ tầng còn lạc hậu, trình độ khoa học và công nghệ chuyển biến chậm. Thêm vào đó Việt Nam chưa hiểu biết đầy đủ về các thiết chế thị trường quốc tế do vậy không tránh khỏi phải mất một thời gian ngỡ ngàng lúng túng sơ sơ trong việc hợp tác kinh tế với nước ngoài. Điểm xuất phát thấp có nghĩa là đã tụt hậu nhiều và nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn với thế giới là rất rõ. Có thể nói khắc phục nguy cơ này là thách thức lớn nhất trong việc thực hiện mục tiêu của chiến lược. b. Nền kinh tế còn đang trong quá trình chuyển đổi, một sự chuyển đổi vừa theo định hướng thị trường, vừa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một sự tìm tòi hoàn toàn mới chưa có mấy thành công trên thế giới. c. Cạnh tranh quốc tế gay gắt. - Khu vực Đông Nam á và Đông á đã từng phát triển nhanh và năng động. Nhưng hiện nay nhiều nước đang lâm vào khung hoảng tài chính tiền tệ nghiêm trọng mà dự báo còn phải mất nhiều thời gian mới khắc phục được. Trong việc tham gia ASEAN, AFTA chuẩn bị gia nhập WTO, APEC nước ta phải chấp nhận sự cạnh tranh đan xen với tác động của khủng hoảng, bất ổn định cũng gay gắt chưa từng có. - Nước ta là một quốc gia ven biển đông vừa có thuận lợi cho sự phát triển, đồng thời Biển đông cũng đang chứa đựng nhiều tranh chấp rất phức tạp về chủ quyền và lợi ích. Bên cạnh đó Mỹ và phương Tây tiếp tục mưu toan thực hiện "diễn biến hoà bình" ở Việt Nam gây áp lực với ta về "dân chủ, nhân quyền". Chính sách hai mặt của Trung Quốc với ta chưa hề thay đổi. Đối phó sức uy hiếp này ngày càng tăng, cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực Châu á- Thái Bình Dương diễn ra phức tạp đe doạ an ninh, chủ quyền và lãnh thổ nước ta buộc chúng ta phải hết sức coi trọng việc củng cố và tăng cường khả năng quốc phòng. d. Nguồn nhân lực bị hạn chế. Nước ta có tiềm năng lớn về nguồn nhân lực, chủ yếu là về mặt tinh thần và văn hoá. Nhưng ở giai đoạn hiện nay Việt Nam đang phải đương đầu với thách đố về lợi thế so sánh của nguồn nhân lực. Mặt hạn chế và yếu kém về chất lượng (kiến thức, kỹ năng, tác phong) của nguồn nhân lực nhất là ở các vùng nông thôn, miền núi, còn là một trở ngại lớn cho sự phát triển. Đòi hỏi thì rất lớn và cấp bách song khả năng đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực lại quá nhỏ bé. e. Vốn đầu tư. Khác với những năm đầu thực hiện chính sách đổi mới khi mà sự tăng trưởng phụ thuộc phần lớn vào các yếu tố thuộc về cơ chế, nền kinh tế bước vào giai đoạn muốn tăng trưởng nhất thiết phải có vốn đầu tư. Trong khi đó, đầu tư trực tiếp của nước ngoài đang có xu hướng chững lại, tốc độ rải ngân vốn ODA chậm, cùng với hiện tượng co cụm lại trong việc huy động và cho vay vốn của các ngân hàng trong nước đang tạo nên mối lo ngại về tình trạng suy giảm vốn đầu tư, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Những thách thức nêu trên chỉ là một phía mà ở phía kia chính là cơ hội, thậm chí là thời cơ. Vấn đề là phải có chính sách đúng để khai thác mọi thời cơ vượt qua thách thức đi tới mục tiêu. 5. Kinh nghiệm của các nước. Để xây dựng và thực hiện tốt "chiến lược hướng về xuất khẩu" tôi cho rằng, nước ta cần nghiên cứu vận dụng những kinh nghiệm của nước ngoài, đặc biệt là chú trọng kinh nghiệm của các nước trong khu vực trong quá trình thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu. Sau đây là những kinh nghiệm chủ yếu. Thứ nhất, trong giai đoạn đầu thực hiện chiến lược này, các nước thường phát huy lợi thế về tài nguyên và nhân công dồi dào để phát triển các ngành khai thác và sản xuất các sản phẩm thô xuất khẩu ra thị trường thế giới. Việc khai thác tài nguyên - trong nhiều trường hợp lại phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài; vào nhu cầu thị trường ngoài nước và giá cả sản phẩm thô bất lợi cho nước xuất khẩu. Do đó các nước nhanh chóng chuyển sang giai đoạn phát triển công nghiệp chế biến, giảm dần tỷ trọng xuất sản phẩm thô, đẩy mạnh các ngành sử dụng nhiều lao động như dệt, may, lắp ráp, gia công, đồng thời lựa chọn một số ngành để từng bước phát triển cơ sở kỹ thuật, công nghệ hiện đại, sử dụng nhiều chất xám và đã tạo ra sự chuyển biến về chất trong cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu công nghiệp nói riêng. Thứ hai, mỗi nước thường có nhiều tiềm năng có khả năng khai thác để xuất khẩu ra thị trường bên ngoài. Song sự thành công nhiều hay ít của chủ trương hướng về xuất khẩu phụ thuộc vào nhiều vấn đề, trong đó có những vấn đề chủ yếu sau: - Trong số những tiềm năng của đất nước thì phải xác định được tiềm năng nào là lợi thế so sánh với nước ngoài, với khu vực nào trên thị trường quốc tế. Lợi thế so sánh đó không phải là bất biến mà nó cũng vận động, biến đổi tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể trong từng thời kỳ nhất định đối với từng nước bạn hàng, từng khu vực. - Việc khai thác lợi thế so sánh để xuất khẩu phải hướng tới mục tiêu toàn diện: tạo việc làm, tích luỹ vốn, tiếp thu công nghệ, nâng cao tay nghề, trình độ quản lý, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá cho nhân dân... Song cần biết giới hạn và mục tiêu cho từng giai đoạn phát triển và biết kết hợp giữa mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội. Mỗi giai đoạn phát triển với mục tiêu chủ yếu đã xác định, cần lựa chọn hình thức, quy mô sản xuất, trình độ công nghệ, sản phẩm và thị trường xuất khẩu thích hợp. - Hướng về xuất khẩu, ưu tiên cho hoạt động xuất khẩu không được đi lệch hướng cơ cấu kinh tế quốc dân đã lựa chọn. Xuất khẩu phải nhằm mục tiêu tạo ra các tiền đề, điều kiện phục cụ cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân theo hướng từ một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp, từ công nghiệp chế biến dựa trên lao động thủ công, kỹ thuật đơn giản đến công nghiệp chế tạo dựa trên công nghệ hiện đại. Đồng thời cơ cấu kinh tế quốc dân ấy phải trở thành mắt khâu không thể thiếu được trong hệ thống phân công lao động của khu vực và quốc tế. Thứ ba, hướng về xuất khẩu thì sản phẩm phải chen chân và đứng được ở thị trường bên ngoài. Trong điều kiện trình độ phát triển kinh tế còn thấp, khả năng cạnh tranh của những sản phẩm xuất khẩu trên thị trường thế giới còn hạn chế thì các yếu tố vốn, kỹ thuật, công nghệ.. phải được chuyển từ ngoài nước vào trong nước một cách thuận lợi và dễ dàng. Điều này có liên quan chặt chẽ đến vai trò của Chính phủ có khả năng tạo ra môi trường chính trị - xã hội ổn định, môi trường kinh tế - pháp lý đồng bộ, thuận lợi cho các nhà sản xuất trong và ngoài nước với cơ chế, chính sách và bộ máy có khả năng huy động đến mức tối đa các nguồn lực bên trong, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực được tiếp nhận từ bên ngoài, tận dụng tối đa các cơ hội khách quan và đối phó có hiệu quả với những thách thức trước những biến động thường xuyên của thị trường trong và ngoài nước. II- Các chính sách để thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu. 1. Chính sách cơ cấu xuất khẩu - Quy hoạch xuất khẩu. Nhân tố quyết định quy mô, nhịp độ xuất khẩu hàng hoá là cơ cấu hàng xuất khẩu và những mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Xác định cơ cấu hàng hoá có hiệu quả và những mặt hàng chủ lực là nội dung quan trọng của chính sách mặt hàng xuất khẩu. Trong nền kinh tế thị trường việc đổi mới chính sách cơ cấu hàng xuất khẩu phải căn cứ vào: thị trường xuất khẩu; điều kiện và khả năng sản xuất ở trong nước; hiệu quả. Trong ba yếu tố này, hiệu quả là yếu tố quan trọng nhất trong sự lựa chọn cơ cấu và mặt hàng xuất khẩu. Để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu cần có chính sách chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng: Giảm tỷ trọng thuế và cơ chế đi đôi với tăng tỷ trọng các sản phẩm chế biến trong cơ cấu hàng xuất khẩu. Giảm tỷ trọng các sản phẩm xuất khẩu truyền thống đi đôi với tăng tỷ trọng các sản phẩm xuất khẩu mới. Tăng tỷ trọng các sản phẩm có giá trị gia tăng cao trong giá trị kim ngạch xuất khẩu. Để đảm bảo quy hoạch xuất khẩu, Nhà nước cần ban hành các chính sách đầu tư (vốn và công nghệ) đối với các ngành,các doanh nghiệp sản xuất, khai thác hàng xuất khẩu, chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào sản xuất kinh doanh các sản phẩm xuất khẩu. Để tiếp tục thay đổi cơ cấu các loại hàng xuất khẩu theo hướng tránh bị kiệt quệ tài nguyên thiên nhiên cần phải giải quyết các vấn đề sau: - Tăng nhanh tỷ trọng hàng công nghiệp và khai khoáng, đặc biệt là các nhóm hàng dầu mỏ và sản phẩm từ dầu mỏ, than đá, thiếc, đá quý, các mặt hàng chế biến từ nông, thuỷ sản. - Đẩy mạnh gia công, đa dạng hoá các mặt hàng gia công từ may mặc, dệt da, hàng tiêu dùng, lắp ráp cơ khí điện tử. Muốn vậy phải hiện đại hoá công nghệ thiết bị, đào tạo đội ngũ chuyên gia và công nhân kỹ thuật, cải tiến cách thức tổ chức sản xuất. - Mở rộng hiểu biết và tiếp tục đầu tư tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ của thế giới kết hợp với nét nghệ thuật dân tộc cổ truyền làm ra các loại hàng thủ công mỹ nghệ có sức hấp dẫn hơn. - Xây dựng những ngành hàng và mặt hàng chủ lực cho xuất khẩu. 2. Chính sách gắn sản xuất với xuất khẩu. Để xác định một số mặt hàng xuất khẩu có khả năng sản xuất với khối lượng lớn, chất lượng cao để có thể chiếm lĩnh được thị trường, chúng ta cần phải quan tâm đến một số lĩnh vực sản xuất sau đây: Nông nghiệp: là lĩnh vực về lâu dài vẫn đóng vai trò cung cấp một khối lượng hàng hoá đáng kể cho xuất khẩu trực tiếp và nguyên liệu chế biến hàng xuất khẩu. Để biến gạo thành mặt hàng xuất khẩu chiến lược cần tạo ra những vùng sản xuất lúa chuyên cho xuất khẩu, có chính sách ưu tiên vốn, khoa học kỹ thuật và cơ sở hạ tầng đầy đủ cho các khâu: thâm canh, chế biến, bảo quản và vận chuyển. Phải khẳng định vùng sản xuất lúa gạo chủ yếu cho xuất khẩu là đồng bằng sông Cửu Long và một số tiểu vùng đồng bằng sông Hồng. Cần phải tạo ra giống lúa thơm ngon, hạt dài, ít bị gãy trong quá trình xay xát. Song song với việc cải tiến thiết bị xay xát, cần chú trọng nâng cao chất lượng thóc trong khâu phơi sấy. Các mặt hàng nông sản khác muốn đạt được giá trị cao cần phải chuyển sang dạng chế biến sẵn thay cho việc xuất khẩu dạng thô hoặc sơ chế. Vì vậy cần phải có chính sách bảo đảm sản xuất, cần phải đầu tư bằng mọi nguồn vốn, khoa học kỹ thuật, công nghệ để chuyển những mặt hàng nông sản xuất khẩu thô có giá trị thấp sang những mặt hàng đã qua chế biến công nghiệp có giá trị cao. Các mặt hàng công nghiệp và khai khoáng, sản lượng khai thác dầu thô và than đá xuất khẩu ngày càng tăng nhanh và khả năng xuất khẩu trong những năm tới con lớn. Tuy nhiên cần phải có đầu tư thiết bị, kỹ thuật khai thác, xử lý nguyên liệu vận tải và cảng. Một vấn đề nữa cần phải thấy rằng ở những ngành nào, địa phương nào, sản phẩm nào có thể thực hiện xuất khẩu thì phải đầu tư sản xuất ngay. ở những nơi khác chưa có điều kiện thì hoặc là tạo dần điều kiện cho nó hoạt động hoặc hướng hoạt động của nó vào phục vụ những ngành, địa phương, sản phẩm xuất khẩu. 3. Chính sách mở cửa thị trường. Để thúc đẩy chiến lược hướng về xuất khẩu, Đảng và Nhà nước chủ trương mở rộng và tăng cường hoạt động kinh tế đối ngoại, thực hiện phương châm "mở cửa" Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước, các tổ chức chính phủ hay phi chính phủ nhằm tìm kiếm thị trường và bạn hàng cho các chi phí xuất khẩu. Mặt khác để thúc đẩy xuất khẩu cần phải có chính sách mở rộng thị trường tiêu thụ, tăng cường hợp tác kinh tế, tổ chức và tìm hiểu tốt thị trường bên ngoài. Nhận thức được điều đó, Bộ Thương mại đã giữ vững vai trò chủ yếu hoạch định chiến lược hướng về xuất khẩu. Bộ đã tổ chức hội nghị về công tác thị trường ngoài nước (từ ngày 20 -22/12/1997) và đã đưa ra các nhiệm vụ lớn là: - Nâng cao nhận thức và xác định rõ trách nhiệm đối với công tác thị trường ngoài nước. - Khẩn trương nghiên cứu tình hình chiến lược thị trường. - Tổ chức thực hiện tốt cam kết quốc tế và tiến hành ký các hiệp định mới trong quan hệ thương mại song phương và đa phương. - Tiếp tục đổi mới hoạt động và nâng cao năng lực công tác cho các cơ quan đơn vị làm công tác thị trường ngoài nước. - Tăng cường đào tạo cán bộ nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác thị trường ngoài nước có đức có tài. - Nghiên cứu xây dựng hệ thống chính sách, biện pháp phục vụ việc mở rộng thị trường ngoài nước, trước hết đối với thị trường xuất khẩu. Bộ trưởng cùng các đại biểu thảo luận và làm rõ thêm mục tiêu của công tác thị trường ngoài nước trong thời gian tới là hướng vào xuất khẩu, đồng thời các đại biểu nhấn mạnh thêm công việc phải làm là: - Cần có những quyết sách mạnh mẽ đối với công tác thị trường ngoài nước cả về mặt tổ chức, cán bộ, tài chính. - Cần lập một tổ chức phát triển thị trường ngoài nước thuộc Bộ Thương mại trong đó có sự hỗ trợ của Nhà nước. Nghiên cứu mở Công ty của Việt Nam ở nước ngoài, vốn do Nhà nước cấp. Tăng cường hơn nữa công tác thông tin báo chí thương mại, cung cấp đủ thông tin và các báo chí của ngành cho các thương vụ. - Bộ cần sớm tuyển chọn xây dựng đội ngũ cán bộ trẻ đủ sức đáp ứng yêu cầu mới. - Nhằm phục vụ chiến lược hướng về xuất khẩu cần phải tổ chức thu thập, xử lý và cung cấp về nước các thông tin về công nghệ và kỹ thuật của thế giới để phục vụ sản xuất trong nước. 4. Chính sách đầu tư trong và ngoài nước Đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành của toàn bộ hoạt động đầu tư của quốc gia - Trong những năm trước mắt khi mà nguồn vốn tích luỹ nội bộ còn hạn hẹp thì đầu tư nước ngoài (đầu tư trực tiếp) chiếm vị trí quan trọng. Thông qua đầu tư trực tiếp của nước ngoài, chúng ta tranh thủ được vốn, kỹ thuật và công nghệ mới, mở rộng thị trường ngoài nướ, tiếp thu kinh nghiệm tiên tiến, trên cơ sở đó xây dựng những cơ sở kinh tế mới, hiện đại hoá cơ sở hiện có nhằm tạo việc làm cho người lao động, khai thác một phần những tiềm năng của đất nước để tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu. Hoạt động đầu tư nước ngoài đóng vai trò to lớn cho việc thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu . Các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt cơ cấu xuất khẩu tiên tiến chỉ có 26% là nguyên liệu, còn lại 74% là hàng chế biến sâu. Hiện nay khu vực có đầu tư nước ngoài chiếm 100% sản lượng dầu thô 44,8% sản lượng thép... Trong đó kim ngạch xuất khẩu 1996 phần đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 11%, nếu tính cả xuất khẩu dầu thô thì tỷ lệ này lên đến 25%. Trong thời gian tới chắc chắn phần xuất khẩu của khu vực này sẽ còn tăng lên nữa. Việc thu hút đầu tư nước ngoài được coi là giải pháp quan trọng để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế dựa trên xuất khẩu . Do đó ngày 12/11/1996 Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Với việc tạo ra một sân chơi thông thoáng, hấp dẫn, bình đẳng, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam không ngừng tăng cả về số vốn và số dự án. Trongthời gian thực hiện Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Nhà nước nên tuỳ thuộc vào từng giai đoạn, hoàn cảnh cụ thể ban hành thêm các ưu đãi đầu tư, song không nên thay đổi luật một cách quá nhanh chóng để tránh gây tình trạng bất ổn trong quy chế. Việc thu hút đầu tư nước ngoài nhằm khuyến khích xuất khẩu của Việt Nam cần đặt trong tương quan so sánh với các nước trong khu vực và đặt trên quan điểm thúc đẩy đầu tư trong nước với sự kiện gia nhập AFTA, giờ đây việc thu hút đầu tư thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam cần phải được đặt chung trong bối cảnh phát triển của cả khối ASEAN. Để thực hiện chiến lược hướng vào xuất khẩu, cần tập trung đầu tư theo một số hướng sau đây: - Tiếp tục đẩy mạnh phát triển nông - lâm - ngư nghiệp toàn diện, vững chắc, phát huy tiềm năng nông nghiệp nhiệt đới. - Đầu tư phát triển nông nghiệp và chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá hường về xuất khẩu. - Phát triển mạnh công nghiệp, trước hết là công nghiệp chế biến nông - lâm - thuỷ, hải sản, tăng nhanh giá trị hàng công nghiệp xuất khẩu, xây dựng một số ngành công nghiệp hiện đại có khả năng đáp ứng nhu cầu xuất khẩu. - Phát triển các lĩnh vực dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ ngoại thương. Muốn làm tốt hướng trên, chúng ta không chỉ dựa vào nguồn vốn từ nước ngoài mà cần phải tập trung huy động mọi nguồn vốn trong nước là chủ yếu. Nhà nước có chính sách động viên tiết kiệm tăng nhanh tích luỹ nội bộ nền kinh tế. Không chỉ từ khu vực kinh tế quốc doanh mà cả từ khu vực kinh tế tư nhân. Nhà nước đưa ra tỷ lệ lãi suất phù hợp để huy động sức dân trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. 5. Chính sách đẩy mạnh xuất khẩu. a. Thuế xuất khẩu: Nhà nước Việt Nam sử dụng chính sách thuế với tư cách là một công cụ quan trọng để khuyến khích xuất khẩu. Để khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu, vừa qua Nhà nước đã áp dụng chính sách miễn giảm thuế: miễn thuế hầu hết các mặt hàng xuất khẩu, áp dụng thuế xuất khẩu thấp đối với một số mặt hàng còn chịu thuế, sản xuất hàng xuất khẩu được miễn thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, các đơn vị kinh tế dùng lợi nhuận đầu tư vào sản xuất hàng xuất khẩu được miễn giảm thuế lợi tức tối đa 50%, các doanh nghiệp gia công hàng hoá cho nước ngoài được miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị, vật tư tiêu dùng cho gia công hàng, vật tư nhâp khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu được hoàn lại thuế nhập khẩu đã nộp. Trong kỳ họp Quốc hội vừa qua Luật thuế giá trị gia tăng đã được thông qua và sẽ được áp dụng từ này 01/01/1999, trong đó quy định mức thuế suất 0% đối với tất cả các hàng hoá xuất khẩu và các hàng hoá này còn được thoái trả thuế giá trị gia tăng ở các khâu trước. Đây thực sự là một biện pháp tài chính khuyến khích xuất khẩu tích cực của Việt Nam. b. Tỷ giá hối đoái: Sự thay đổi tỷ giá hối đoái là nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả xuất khẩu và đương nhiên nó ảnh hưởng đến việc khuyến khích xuất khẩu. Tỷ giá hối đoái liên quan chặt chẽ đến quản lý kinh tế vĩ mô (cán cân thanh toán, lạm phát, quản lý tiền tệ....). Vì vậy, chính sách tỷ giá hối đoái luôn được xem xét trong bối cảnh của chính sách quản lý kinh tế vĩ mô. Vấn đề then chốt là phải tạo ra tỷ giá hối đoái hiện thực nhằm bảo đảm đủ để khuyến khích xuất khẩu. Các nhà xuất khẩu được thực hiện hối đoái trong điều kiện Chính phủ có khả năng kiểm soát tỷ giá hối đoái. Việc thả nổi tỷ giá hối đoái có điều tiết vĩ mô của Nhà nước tạo ra môi trường cạnh tranh tự do, công bằng cho các nhà kinh doanh mọi thành phần, loại bỏ được những tổ chức cá nhân doanh nghiệp yếu kém, thua lỗ. Không nên để đồng tiền Việt Nam và đồng tiền nước ngoài chênh lệch quá xa so với tỷ giá trên thị trường, khắc phục tình trạng ngân hàng không có ngoại tệ để bán ra, các đơn vị kinh tế tự do bán ngoại tệ cho nhau. Do đó, cần đổi mới cơ chế quản lý ngoại tệ theo hướng ngân hàng Nhà nước mua lại toàn bộ số ngoại tệ của các đơn vị xuất khẩu theo tỷ giá kinh doanh trên nguyên tắc thuận mua vừa bán. Nhà nước cần dành một số ngoại tệ cho ngân hàng ngoại thương vay để làm vốn (ít nhất là 100 triệu USD kinh doanh ngoại tệ và điều tiết tỷ giá cho thị trường ổn định, không để đột biến. Xét từ góc độ chính sách như vậy người ta đã rút ra một kết luận khá tổng quát rằng: bất cứ nước noà muốn thúc đẩy tăng trưởng chung bằng động lực xuất khẩu cũng đều phải thận trọng để tránh có một tỷ giá hối đoái bị nâng cao. c. Hạn ngạch xuất khẩu: Hiện nay các mặt hàng xuất khẩu theo hạn ngạch là gạo, hàng đệt may xuất khẩu và EU, Canada, Nauy. Cơ chế điều hành là Bộ thương mại công bố hạn ngạch được thoả thuận theo hiệp định đã ký với EU, Canada, Na uy, Bộ thương mại và Bộ công nghiệp tìm khả nang đàm phán với phía nước ngoài nhằm tăng hạn ngạch và chủng loại hàng hoá phù hợp với năng lực sản xuất trong nước và tập trung phân bổ hạn ngạch cho các cơ sở sản xuất. Việc giành hạn ngạch xuất khẩu trong nước và tập trung phân bổ hạn ngạch cho các cơ sở sản xuất. Việc giành hạn ngạch xuất khẩu để phân bổ cho các địa phương, đơn vị sản xuất thông qua các Bộ, ngành hàng như hiện nay vừa gây phiền hà cho cơ sở vừa không phù hợp với kinh tế thị trường. Các địa phương, các đơn vị sản xuất cố giành cho được quota mặc dù thiếu vốn, không có thị trường, thiếu phương tiện kinh doanh, không có khả năng thực hiện. Điều đó tất yếu dẫn đến tình trạng mua bán quota vòng vèo. Do vậy cần hoàn thiện phương thức phân bổ quota theo nguyên tắc "một cửa" chỉ phân cho các đơn vị đã có quyền xuất khẩu trực tiếp theo nhóm hàng xuất khẩu đem lại hiệu quả cao, đóng góp nhiều cho Nhà nước. Tiến tới phân bổ quota qua hình thức gọi thầu hoặc đấu giá với sự tham gia của các đơn vị sản xuất và đơn vị lưu thông có vốn liếng và quan hệ thị trường. d. Hỗ trợ xuất khẩu: Việc đẩy mạnh xuất khẩu đòi hỏi phải có một khuôn khổ tổ chức có hiệu quả để giải quyết các lĩnh vực như thu thập thông tin, phân phối thông tin và tiếp thị. Những hình thức tổ chức hỗ trợ xuất khẩu bao gồm việc thành lập các tổ chức đẩy mạnh xuất khẩu, giúp đỡ cho việc tiếp thị xuất khẩu và hỗ trợ cho các công ty thương mại. ở Việt Nam với mục tiêu: đẩy mạnh đầu tư nước ngoài và Việt Nam và tăng cường xuất khẩu các sản phẩm của Việt Nam ra nước ngoài. Các tổ chức hỗ trợ xuất khẩu tập trung đưa ra các giải pháp mang tính khả thi để tạo điều kiện cho các nhà xuất khẩu có những điều kiện dễ dàng như: - Hỗ trợ ngoại tệ cho các Công ty nhập khẩu thông qua các hình thức cho vay vốn với lãi suất ưu đãi. - Cấp các thủ tục đặc biệt. - Đầu tư vào một số Công ty mậu dịch quốc tế. - Tổ chức trao đổi giữa các nhà hoạch định chính sách với các nhà xuất khẩu để thống nhất mục tiêu xuất khẩu. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần trợ cấp về mặt tài chính cho các đơn vị, cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu nhằm thực hiện tốt, nhanh chóng kế hoạch và mục tiêu của đơn vị dưới hình thức cho vay với lãi suất ưu đãi. Đặc biệt trợ cấp đối với các đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu chủ lực, các cơ sở xuất khẩu gặp khó khăn nhưng sản xuất các mặt hàng xuất khẩu mang lại nhiều ngoại tệ và đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao cho đất nước. 6. Chính sách nhập khẩu nhằm thúc đẩy xuất khẩu. Nhiệm vụ trọng tâm của nước ta trong giai đoạn hiện nay là công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do đó chính sách và cơ chế quản lý nhập khẩu phải đáp ứng yêu cầu đổi mới, hiện đại hoá thiết bị và công nghệ nhằm đẩy mạnh sản xuất trong nước tạo ra những sản phẩm có khả năng thay thế sản phẩm nhập khẩu và tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. Để thực hiện mục tiêu trên chính sách nhập khẩu cần được tiếp tục đổi mới với nội dung sau: - Tranh thủ nhập khẩu công nghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại, cấm nhập khẩu công nghệ lạc hậu so với công nghệ trong nước đang sử dụng. Trong cơ cấu hàng nhập khẩu phải chú trọng nhập tư liệu sản xuất, những nguyên vật liệu cần thiết, những máy móc và phụ tùng thay thế để khai thác đến mức cao nhất các khả năng sản xuất hiện có đẩy mạnh xuất khẩu tăng thu nhập quốc dân. - Ưu tiên hiện đại hoá đối với các ngành công nghiệp sản phẩm hàng xuất khẩu, tiêu chuẩn để lựa chọn công nghệ là bảo đảm hiệu quả kinh tế -xã hội, tăng cường sức cạnh tranh của loại hàng được sản xuất để cung ứng cho thị trường ngoài nước. Cơ chế quản lý nhập khẩu vì vậy cần được hoàn thiện theo hướng tăng cường quản lý Nhà nước nhất là đối với nhập khẩu công nghệ thông qua một hệ thống các biện pháp thuế quan và phi thuế quan, kết hợp chặt chẽ với các biện pháp về tổ chức và giám sát hoạt động nhập khẩu. 7. Những vấn đề về thế chấp hành chính nhằm thúc đẩy mạnh xuất khẩu. Việc quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu ngày càng được cải tiến và hoàn thiện theo hướng khuyến khích xuất khẩu. Vừa qua Quốc hội đã thông qua Luật thương mại, tạo nên khuôn khổ pháp lý ổn định cho hoạt độn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0725.doc
Tài liệu liên quan