Đề tài Chính sách tiền tệ và đánh giá về việc thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong những năm gần đây

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 3

TÓM TẮT NỘI DUNG 5

PHẦN A: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 7

I. Cơ sở lý luận chung về chính sách tiền tệ: 7

1. Khái niệm: 7

2. Cơ sở của chính sách tiền tệ: 7

3. Hệ thống điều tiết vĩ mô của NHTW 9

4. Con đường dẫn truyền tác động của chính sách tiền tệ: 23

5. Hỗn hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài chính: 26

II. Kinh nghiệm ở một số nước: 27

1. Kinh nghiệm của quỹ dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) 27

2. Kinh nghiệm của NHTW Đức 28

3. Kinh nghiệm của NHTW Nhật 30

PHẦN B: THỰC TIỄN THỰC THI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM. 32

I. Thực tiễn thực thi chính sách tiền tệ của VN trong thập kỉ 90. 32

1. Nhận định chung. 32

2. Nội dung của chính sách tiền tệ. 34

3. Đánh giá chính sách tiền tệ ở Việt Nam. 51

4. Những giải pháp đề xuất đối với chính sách tiền tệ của Việt Nam. 55

II. Nội dung định hướng chính sách tiền tệ đến năm 2005. 57

1. Về mục tiêu của chính sách tiền tệ. 57

2. Về việc điều hành khối lượng tiền cung ứng. 59

3. Về chính sách tín dụng. 60

4. Về chính sách quản lý ngoại hối và tỷ giá: 62

5. Về tín dụng đối với ngân sách Nhà nước: 63

6. Về việc xử lý lãi suất: 63

7. Các biện pháp hỗ trợ: 64

KẾT LUẬN 66

TÀI LIỆU THAM KHẢO 67

 

doc76 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3150 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách tiền tệ và đánh giá về việc thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong những năm gần đây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dụng hiệu ứng thông báo. Một sự thay đổi trong tỷ lệ chiết khấu được xem như thay đổi trong quan điểm cơ bản về chính sách tiền tệ, ảnh hưởng đến các hoạt động cho vay của các tổ chức tài chính, khoản đầu tư và tiêu thụ của hộ gia đình. Ngân hàng Nhật thực hiện việc cho vay trực tiếp đối với các tổ chức tài chính cần tài trợ ngắn hạn như một phương tiện điều chỉnh tiền tệ. Tỷ lệ chiết khấu chính thức được áp dụng cho việc vay này. Ngân hàng Nhật không cho tất cả các tổ chức tài chính vay. Khoản vay này chỉ thực sự được cấp cho các tổ chức tài chính đủ tiêu chuẩn do ngân hàng Nhật quy định. Có ba loại cho vay của ngân hàng Nhật: chiết khấu tín phiếu thương mại, vay tín phiếu và hệ thống thanh toán tín phiếu nhập khẩu. Việc vay tín phiếu được thực hiện như một phương tiện điều chỉnh tiền tệ của ngân hàng Nhật nhưng việc cấp và rút các khoản vay tự do hơn. Tại Nhật, việc vay bằng tín phiếu được hiểu là có một hệ thống các tổ chức tài chính vay tiền từ ngân hàng Nhật bằng tín phiếu được ngân hàng Nhật công nhận là thế chấp đủ tiêu chuẩn. Cơ sở pháp lý của việc vay ngân hàng Nhật được quy định tại điều 20 Luật ngân hàng Nhật. Đối với việc quản lý chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhật Ngân hàng Nhật quản lý chính sách tiền tệ mà không cần bộ trưởng tài chính thông qua. Ngoài ra Lombard, để giảm sự phụ thuộc của các khách hàng là các tổ chức tài chính vào khoản vay của ngân hàng Nhật, ngân hàng Nhật đã lập ra giới hạn tối đa được vay và các nguyên tắc không được phép vượt quá giới hạn này. Mức tín dụng trên được xây dựng trên cơ sở từng quý đối với mỗi ngân hàng. Trong trường hợp khoản vay vượt quá mức trần là không thể tránh khỏi thì khoản vay phải chịu lãi suất 4% trên tỷ lệ chiết khấu. Nhưng trên thực tế không có khoản vay nào vượt quá mức trần. Giới hạn vay hầu hết dựa vào vị thế vốn của các tổ chức tài chính nhưng chi tiết thì không được công bố công khai. Đối với việc mua bán chứng khoán và tín phiếu: Hoạt động chứng khoán và tín phiếu khác các giao dịch cho vay bằng đàm phán ở chỗ là những giao dịch của thành viên thuộc nhiều thị trường hoặc hoạt động thị trường mở. Về mặt chức năng, chúng được xem như là phương tiện ra hạn tín dụng hoặc rút tín dụng từ khu vực tư nhân cũng giống như việc cho vay. Ngân hàng Nhật kiểm soát lãi suất trên thị trường tiền tệ bằng cách thay đổi khối lượng và điều kiện thế chấp và hoạt động tín phiếu. Tín phiếu trên thị trường là hối phiếu được rút ra, mua bán và trả cho ngân hàng Nhật. Hệ thống bán tín phiếu là một hệ thống qua đó NHTW phát hành thế chấp nợ và sử dụng chúng như công cụ điều chỉnh tài chính. Ngoài Nhật, các hệ thống tương tự cũng có ở Bồ Đào Nha, Đan Mạch.... Đối với tỷ lệ dự trữ bắt buộc : Hệ thống yêu cầu dự trữ bắt buộc là một hệ thống mà theo nó các tổ chức tài chính được yêu cầu nhận tiền gửi không lãi suất tại ngân hàng Nhật, trong đó số tiền gửi và các khoản nợ của mình được gọi là dự trữ bắt buộc. Vì các tổ chức tài chính gửi tiền vào tài khoản không hưởng lãi suất do vậy họ chịu các chi phí. Bằng cách thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ngân hàng Nhật có thể tác động đến các quan điểm cho vay của các tổ chức tài chính thông qua tác động chi phí.v.v... Phần B: Thực tiễn thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam. I. Thực tiễn thực thi chính sách tiền tệ của Việt Nam trong thập kỉ 90. Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế Việt Nam thời gian qua.việc đổi mới cải cách hoạt động Ngân hàng là khâu rất cơ bản, được coi là mũi “Đột phá khẩu” tạo những bước tiến vững chắc đưa nền kinh tế chuyển sang kinh tế thị trường. Đặc biệt, điều được quan tâm nhất trong qúa trình đổi mới là làm thế nào để xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ một cách hiệu quả nhất. Chính sách tiền tệ là một công cụ của chính sách kinh tế vĩ mô, đóng góp vai trò quan trọng trong điều tiết, quản lí nền kinh tế thị trường. Việc đề ra chính sách tiền tệ là chức năng của ngân hàng Nhà nước, tuy vậy, chính sách tiền tệ là một bộ phận trong chính sách kinh tế Nhà nước nên cần phải gắn liền với việc phảt triển kinh tếvà chính sách kinh tế của Nhà nước. Việc thực thi chính sách tiền tệ hiệu quả có nhiều đóng góp to lớn trong kiềm chế lạm phát, thúc đẩy nền kinh tế phát triển và tăng trưởng. Nền kinh tế Việt Nam ta những năm 90 có 2 giai đoạn chủ yếu. Với bước đột phá của đường lối đổi mới, giai đoạn thứ nhất 90-95 được coi là giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế, thoát qua cơn thử thách khó khăn của chặng đường đầu của quá trình đổi mới sang kinh tế thị trường. Giai đoạn 1996 -2000 là giai đoạn đầu tư phát triển kinh tế cao, tạo tiền đề vật chất và nền tảng cho bước phát triển lâu bền của nền kinh tế sang thềm thế kỉ 21. Vậy ta thử xem tác động trong từng giai đoạn như thế nào? 1. Nhận định chung. Vượt qua cơn thử thách khắc nghiệt của những năm cuối thập kỉ 80, Nền kinh tế Việt Nam đã và đang bước sang giai doạn tạo đà phát triểnvới tốc độ cao. Đó là nhờ hàng loạt chính sách đổi mới theo cơ chế thị trường có tác dụng to lớn thu hút lòng tin đối với đầu tư nước ngoài. Liên tục từ năm 1988 đến vay, mọi nỗ lực của chính phủ Việt Nam là làm thế nào để kiềm chế lạm phát ở mức từ 3 con xuống còn một con số. Thành công đáng nói là trong khi lạm phát được kéo xuống nhưng nền kinh tế vẫn tăng trưởng cao, khá ổn định. Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế bình quân tăng hàng năm từ 7 - 8%. Thêm vào đó, lòng tin của nhân dân đối với đồng tiền Việt Nam từng bước được khôi phục, tiền tệ ổn định ngày một khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài. Tỷ lệ tích luỹ đầu tư cả nước năm 1993 tăng đáng kể so với tỷ lệ tích luỹ 11- 12% của những năm trước đây. Có thể nói, chúng ta đã đạt được những thành quả trên là nhờ những nhân tố sau: Thứ nhất, pháp lệnh ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh ngân hàng thương mại qui định cơ sở cho việc thiết lập ngân hàng hai cấp, tạo nền tảng pháp lí cho hoạt động kinh doanh ngân hàng có hiệu quả. Thư hai, Ngân hàng Nhà nước thực sự đã tập trung vào điều hành chính sách tiền tệ, nới lỏng cơ chế kiểm soát giá cả, phi tập trung hoá tiến trình đưa ra các quyết định kinh tế , thống nhất điều hành tỷ giá theo quan hệ cung - cầu ngoại tệ, khuyến khích xuất khẩu, đồng thời thi hành chính sách lãi suất “thực dương”, kết hợp thắt chặt đúng mức việc cung ứng tiền trung ương. Các giải pháp tình thế mạnh dạn khởi đầu cùng với việc sử dụng từng bước có hiệu quả các công cụ tài chính đã đem lại những thành quả đáng khích lệ trong việc thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam. Thứ ba, Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách mở cửa hoà nhập với cộng đồng tài chính quốc tế, đổi mới hệ thống thanh toán của Ngân hàng Nhà nước và 4 ngân hàng thương mại quốc doanh, cho phép mở các chi nhánh và đại diện ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, thúc đẩy hoạt động ngân hàng ngày càng đa dạng và mang tính hội nhập hơn. Thứ tư, các ngân hàng thương mại đã đổi nới hình thức hoạt động huy động vốn và cho vay vốn theo hướng cơ chế thị trường và kể từ năm 93 trở đi đã có lãi. đem lại hiệu quả cho hoạt động ngân hàng. Thứ năm, chính phủ luôn chú trọng đến ổn định kinh tế vĩ mô, quan tâm đến chính sách tiền tệ và giữ lạm phát ở mức thấp. Các nhân tố trên là những động lực cơ bản tạo ra một hệ thống ngân hàng tuy chưa phát triển hoàn hảo nhưng tương đối ổn định. Tuy nhiên, sự ổn định này cũng chưa thật vững chắc, vẫn còn một số hạn chế sau đây. Về phương diện kiểm soát lạm phát, tuy tỷ lệ lạm phát dao động xung quanh 4 - 12%, nhưng ngân hàng Nhà nước chưa có khả năng kiểm soát theo mong muốn. Một khi có những cơn sốc về phía cung, nền kinh tế sẽ vấp phải những vấn đề khó khăn khó tránh khỏi. Chẳng hạn như năm 1993 ngân hàng Nhà nước dự kiến lạm phát ở mức 10 - 13%, nhưng thực tế chỉ có 5,2%. Sở dĩ như vậy, bởi vì hàng mùa hè của Trung Quốc tràn sang với giá rẻ do chính sách điều tiết tỷ giá của họ. Điều này dẫn đến giảm phát ở nước ta. Nếu năm 1994 chúng ta dự tính lạm phát chỉ ở mức một con số thì tình hình lại ngược lại. Lũ lụt ở đồng bằng sông Cửu longlàm mất mùa khiến giá cả lương thực và thực phẩm tăng cao. Tỷ lệ lạm phát năm 1994 tăng lên. Do đó, có thể nói, khả năng kiểm soát lạm phát của Nhà nước ta chưa đồng đều, chưa hạn chế được những trở ngại khách quan. Hơn thế nữa, do nền kinh tế bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ của khu vực, chính phủ đã cắt giảm chi tiêu, đưa ra các qui định hạn chế nhập khẩu tạm thời. Tiến hành phá giá đồng tiền Việt Nam khoảng 17% và hạn chế tăng trưởng tiền tệ. Chính vì vậy, nhịp độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây giảm sút nghiêm trọng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đã giảm từ 8% năm 1990 xuống còn 5,85% năm 1998. Thêm vào đó, tình hình kinh tế hiện nay đang có dấu hiệu mau chóng dần đến thiểu phát khiến cho sự phục hồi kinh tế càng trở nên khó khăn. Hệ thống tiền tệ tín dụng ngân hàng hoạt động không hiệu quả, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế kém. ở các doanh nghiệp sản suất , hàng tồn kho quá nhiều, một bộ phận dân cư còn bị thiếu đói do ảnh hưởng của hạn hán, gây ảnh hưởng xấu đến các vấn đề xã hội. Có thể nói, nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu và có xuất phát điểm rất thấp so với các nước ngoài. Do đó để tránh tụt hậu, chúng ta phải đề ra những chính sách tiền tệ phù hợp, góp phần ổn định và phát triển kinh tế. 2. Nội dung của chính sách tiền tệ. 2.1 Chính sách tiền tệ Chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước là chính sách mà ngân hàng nhà nước thực hiện cung ứng tiền cho nền kinh tế ở mức kiểm soát được lạm phát, thực hiện một chính sách lãi suất thực dương do ngân hàng nhà nước qui định, giữ một tỷ giá ổn định nhằm kiểm soát được tỷ giá. Trên thực tế thì tỷ giá danh nghĩa ( tỷ giá đồng Việt Nam so với đồng USD) bắt đầu ổn định. Từ năm 1993 trở đi, khi ngân hàng nhà nước mở cửa trung tâm giao dịch tại 2 thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, phản ánh sự vận động của luồng ngoại tệ vào gây nên áp lực tăng giá cho đồng Việt Nam . 2.2 Công cụ của chính sách tiền tệ. Có thể nói, để thực thi chính sách tiền tệ một cách tốt đẹp, một trong những công cụ mà ngân hàng nhà nước có trong tay là: 2.2.1. Hạn mức tín dụng. *Thực trạng: Trong điều kiện các công cụ tín dụng chưa phát huy đầy đủ hiệu lực, ngân hàng nhà nước thường áp dụng công cụ trực tiếp là hạn mức tín dụng đối với các tổ chức tín dụng. Mục đích chủ yếu của việc sử dụng công cụ này là nhằm giữ tổng lượng tín dụng nằm trong giới hạn cho phép để có thể dễ dàng kiểm soát chặt chẽ lạm phát, đặc biệt là trong những lúc chỉ số giá có xu hướng gia tăng. Việc áp dụng công cụ này bắt đầu từ tháng 6/ 1994. Đối tượng áp dụng ban đầu là 4 ngân hàng thương mại quốc doanh, chiếm 90% tổng dư nợ cho vay của cả hệ thống tổ chức tín dụng . Bước đầu hạn mức này đã khống chế được mức tăng dư nợ ngắn hạnlà 24% so với năm 1993. Tuy nhiên đến năm 1995, hạn chế của công cụ này thể hiện rõ nét khi mức tăng dư nợ tín dụng thực tế vượt hạn mức tín dụng cho phép tới 1,66 lần, năm 1996 vượt đến 2 lần. Sang đến năm 1997, 1998, tình hình lại chuyển biến ngược lại. Năm 1998, cho dù tổng nguồn vốn huy động qua hệ thống ngân hàng có xu hướng chậm lại, giảm từ 31,5% (1997) còn 25%(1998) nhưng hạn mức tín dụng thừa ra so với khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế. Vậy vì sao lại dẫn đến tình trạng hấp thụ vốn kém này? Chúng ta biết rằng, thực trạng kinh tế - xã hội nước ta những năm giữa thập kỉ 90, nhất là trong điều kiện chịu sự tác động của khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, nhu cầu và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế bị sụt giảm nghiêm trọng. Sự khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm đã tác động không nhỏ đến tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế, hiệu quả sản suất kinh doanh và nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp. Mặt khác, khu vực kinh tế nhà nước - nơi chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế lại hoạt động kém hiệu quả, quy mô vốn nhỏ, lại đang trong quá trình tổ chức sắp xếp đã ảnh hưởng lớn đến nhu cầu và điều kiện vay vốn, đến quan hệ tín dụng trong nền kinh tế. Hơn thế nữa, cùng với sự đổi mới cơ chế quản lí việc thẩm định các dự án cho vay và việc sử dụng vốn, đến quan hệ tín dụng của các tổ chức tín dụng có nhiều diễn biến tích cực, chặt chẽ hơn nhằm đảm bảo hiệu quả nguồn vốn vay. Vì vậy, các quyết định đi vay để đầu tư không dễ dàng như trước. Tất cả những điều này dẫn đến dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng có xu hướng chậm lại, khả năng hấp thụ vốn giảm đi. Do đó, chúng ta thấy rằng việc sử dụng công cụ hạn mức tín dụng của NHNN Việt Nam chưa thật sự hiệu quả. Đây vẫn là công cụ cứng nhắc, làm cho hệ thống NHTM không phát triển được, dẫn đến tình trạng phi trung gian hoá. Theo đó, hệ thống huy động vốn và cho vay ngoài sự kiểm soát của NHNN đi vào quỹ đạo hoạt động mạnh, gây cản trở chung cho hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính ở Việt Nam. 2.2.2. Chính sách tái chiết khấu Đây là công cụ gián tiếp mà NHNN Việt Nam sử dụng để đảm bảo an toàn cho toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng như bảo đảm khả năng chi trả và thanh toán của hệ thống tín dụng. Vậy chúng ta hãy xem xét cơ chế hoạt động của nghiệp vụ này của NHNN Việt Nam như thế nào? Chính sách tái chiết khấu của NHNN Việt Nam thực chất là việc cung ứng tín dụng của NHTW thông qua: chiết khấu giấy tờ có giá, cho vay chiết khấu, hoặc chiết khấu giấy tờ có giá, cho vay tái cấp vốn. Tín dụng là hoạt động truyền thống của ngân hàng nói chung. Có ngân hàng là có tín dụng, đặc biệt là tín dụng dưới hình thức chiết khấu. Đó là việc bán hoặc vay theo giá ấn định thấp hơn giá trị của vật bán hoặc mức vốn phải trả nợ. Có thể chia thành các trường hợp cụ thể sau: + Chiết khấu các giấy tờ có giá: Hình thức này là một kênh cung ứng tiền của NHNN có bảo đảm thực bằng giấy tờ có giá, nhưng khác với cho vay bằng giấy tờ có giá ở chỗ, chiết khấu giấy tờ có giá là cách mua theo lãi suất chiết khấu được ấn định trước hoặc lãi suất đấu thầu làm thay đổi quyền sở hữu từ khách hàng sang NHNN. Trong khi đó cho vay bằng thế chấp giấy tờ có giá sẽ được NHNN giải chấp khi hết thời hạn cho vay, cho vay theo lãi suất cho vay ấn định trước. Tuy nhiên, cả hai hình thức cung ứng tiền này đều phát sinh khi có nhu cầu về vốn đầu tiên từ phía khách hàng. Điểm này khác với nghiệp vụ thị trường mở - cung ứng tiền phát sinh từ phía NHNN. + Cho vay chiết khấu hoặc cho vay tái cấp vốn: Có hai loại cho vay tái chiết khấu hoặc cho vay tái cấp vốn là: Cho vay chiết khấu hoặc tái cấp vốn có bảo đảm và cho vay chiết khấu hoặc tái cấp vốn có chỉ định. Cho vay chiết khấu hoặc tái cấp vốn như NHNN Việt Nam hiện nay là việc cung ứng tiền theo mức lãi suất ấn định của NHNN. Chỉ khác là cho vay chiết khấu tiền lãi được tính theo phương pháp chiết khấu và được trả trước cho NHNN, còn cho vay cấp vốn tiền lãi được tính theo phương pháp tích số và trả sau hàng tháng. Xu hướng chung, để nhận tiền cung ứng, các tổ chức tín dụng thường chọn công cụ nào có lãi suất hạ mang lại lợi nhuận mà ít rủi ro. Cụ thể là: Giả sử nếu lãi suất tiền vay hạ thấp hơn lãi suất chiết khấu thì các tổ chức tín dụng không thích chiết khấu giấy tờ có giá. Hai điểm lợi đối với họ là chi phí vay vốn thấp hơn và rủi ro tín dụng thuộc về NHNN, nhất là trường hợp vay theo chỉ định hoặc được đảm bảo bằng giấy tờ có giá mà chất lượng không cao, do vậy đầu tiên để sử dụng giấy tờ có giá mới vay thì NHNN phải điều hành lãi suất theo nguyên tắc lãi vay phải cao hơn lãi suất chiết khấu của chứng từ có giá. Khi nào giấy tờ có giá được chiết khấu hết thì NHNN hạ lãi suất cho vay ngang bằng hoặc thấp hơn lãi suất chiết khấu giấy tờ có giá. Nếu lãi suất tiền vay thấp hơn lãi suất chiết khấu giấy tờ có giá còn có thể dẫn đến tình trạng vay đầu cơ để mua giấy tờ có giá với lãi suất cao hơn. Có hai điểm lợi đối với người đi vay là giảm được chi phí nhận tiền vay, hai là mua chứng khoán tiền lãi được nhận trước. Do đó, vay chiết khấu hoặc tái cấp vốn là một đặc ân đối với tổ chức tín dụng, nên quyền được vay chỉ có giới hạn và nhất thiết phải có điều kiện. Với cơ chế hoạt động đó, ta hãy xem thực trạng của chính sách tái chiết khấu và việc ấn định lãi suất tái chiết khấu của Việt Nam như thế nào? Ngoài việc phân loại các hình thức tái cấp vốn, các chứng từ có giá, NHNN còn quy định cả lãi suất tái cấp vốn của mình đối với các tổ chức tín dụng, cả khung lãi suất huy động và cho vay của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế. NHNN đã phát huy hiệu quả cao độ trong việc điều hoà linh hoạt công cụ tái cấp vốn, nhằm đáp ứng kịp thời vốn cho nhu cầu phát triển kinh tế. Năm 1999, sau 4 lần điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn từ mức 1,1% tháng tại thời điểm đầu năm đến nay chỉ còn 0,5% tháng. Đặc biệt là theo quyết định 238 (31/7/2000) của NHNN về điều chỉnh hạ lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái cấp vốn đã giảm từ 0,455, chỉ còn 0,35% tháng. Với công cụ tái cấp vốn, trong thời gian gần đây, NHNN đã giảm dần tính bao cấp về vốn, thực hiện là người cho vay cuối cùng, thúc đẩy các ngân hàng tăng cường huy động vốn, tận dụng các nguồn vốn trên thị trường tiền tệ trước khi trông cậy vào NHNN. Qua đó các NHTM quốc doanh đã chủ động, tích cực lo nguồn vốn và khả năng thanh khoản của mình hơn, thực sự chuyển sang kinh doanh hơn, gắn với thị trường hơn và bắt đầu có ý thức cạnh tranh trên thị trường. Tuy nhiên công cụ tái cấp vốn ở Việt Nam chưa phát huy được hiệu quả của mình. Nếu ở Nhật, một sự thay đổi nhỏ trong tỷ lệ tái chiết khấu được xem như thay đổi trong quan điểm cơ bản về chính sách tiền tệ của các công ty, hộ gia đình (tác động hiệu ứng thông báo) thì ở Việt Nam, sử ảnh hưởng của công cụ này là rất nhỏ. 2.2.3. Dự trữ bắt buộc. Dự trữ bắt buộc là một công cụ đã bước đầu áp dụng để kiểm soát chặt chẽ khả năng cho vay của các tổ chức tín dụng. Thông qua đó, Nhà nước khống chế lượng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán theo yêu cầu của chính sách tiền tệ. Gần đây, ngân hàng Nhà nước đã tăng cường củng cố công cụ này bằng việc ban hành quy chế buộc các tổ chức tín dụng phải gửi dự trữ bắt buộc vào ngân hàng Nhà nước và xử phạt nghiêm với các trường hợp không đảm bảo mức quy định. Thật vậy, Điều 20, Luật Ngân hàng đã quy định: Thứ nhất: NHNN quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với từng loại hình tổ chức tín dụng, từng loại tiền gửi với mức từ 0 đến 20% tổng số dư tiền gửi tại mỗi tổ chức tín dụng trong từng thời kỳ. Thứ hai: việc trả lãi đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc của từng loại hình tổ chức tín dụng, từng loại tiền gửi trong từng thời kỳ do Chính phủ quy định. Trên cơ sở đó, NHNN đã quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng. Thời gian gần đây, NHNN đã hai lần điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng từ mức 7% xuống còn 5%. Riêng NHNo & Phát triển Nông thôn do phải tập trung vốn thực hiện một số chính sách phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn nên tỷ lệ dự trữ bắt buộc được giảm xuống mức 3%. Tuy nhiên, việc thay đổi dự trữ bắt buộc sẽ dễ gây nên những thay đổi lớn trong cung ứng tiền tệ, cho nên NHNN luôn tỏ ra thận trọng trong các quyết định của mình. Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, công cụ dự trữ bắt buộc phải được dùng bổ trợ bởi những công cụ điều chỉnh tinh vi hơn. Hiện nay, ở nước ta, vì chưa có thị trường tài chính phát triển và việc bán đấu giá tín phiếu kho bạc Nhà nước cũng không thể tiến hành với khối lượng như ý muốn của NHNN, do đó NHNN nên bắt tay vào việc bán tín phiếu của NHNN với khối lượng lớn hoặc tự tạo ra một loại giấy tờ có giá làm công cụ của thị trường tiền tệ. Chẳng hạn như, trên cơ sở số nợ khó đòi mà trách nhiệm ngân sách phải đứng ra gánh chịu hậu quả của thời kỳ bao cấp, NHNN có thể phát hành tín phiếu kho bạc. Nếu làm được như vậy, thì NHNN có được công cụ bổ sung mà không phải vất vả buộc phải thực hiện các biện pháp tình thế. 2.2.4. Nghiệp vụ thị trường mở Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ vô cùng quan trọng của chính sách tiền tệ. Nền kinh tế của hầu hết các nước trên thế giới hoạt động có sôi nổi hay không là dưa vào hiệu quả của chính sáchnghiệp vụ thị trường mở. Chính vì vậy, suốt năm đầu của thập kỉ 90, ngân hàng nhà nướcta đã có nhiều cỗ gắng để tạo tiền đề cho nghiệp vụ thị trườngmở ra đời. Vậy tại sao nghiệp vụ thị trường mở lại cần thiết như vậy? Tiền đề nào là nềnmóng cho sự ra đời nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam ? Liệu sự phát triển thị trường mở ở Việt Nam trong tương lai như thế nào? Tầm quan trọng của thị trường mở đối với nền kinh tế Việt Nam Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua bán nghiên cứu các giấy tờ có giá ngắn hạn do ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện trên thị trường tiền tệ nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia Qua việc mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, ngân hàng Nhà nước tác động đến khả năng cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế. Cụ thể là khi ngân hàng trung ương mua các giấy tờ có giá ngắn hạn sẽ làm tăng khả năng cho vay của các tổ chức tín dụng. Ngược lại khi ngân hàng Nhà nước bán các giấy tờ có giá làm giảm khả năng tín dụng dẫu đến về lâu dàigiảm khả năng cung ứng tiền đối với nền kinh tế. So với các công cụ điều hành chính sách tiền tệ khác như dự trữ bắt buộc hoặc chiết khất, nghiệp vụ thị trường mở có nhiều ưu điểm hơn. Trước hết , bằng nghiệp vụ này, ngân hàng Nhà nước hoàn toàn giữ thế chủ động trong khống chế khối lượng giấy tờ có giá được mua hoặc bán theo ý đồ định trước. Ngân hàng Nhà nước có thể mua hoặc bán một khối lực lượng giấy tờ có giá rất nhỏ hoặc rất lớn. Chính vì vậy khả năng điều tiết của ngân hàng Nhà nước vào thị trường tiền tệ thông qua thị trương này rất lớn, đảm bảo tới mọimức độ điều tiết cần thiết. Thư hai , nghiệp vụ này giúp cho ngân hàng Nhà nước có thể dễ dàng chỉnh sửa lại các quyết định đã được thực hiên trước đó. Thứ ba, nghiệp vụ thị trường mở hoạt động thường xuyên, vì vậy nó cho phép ngân hàng Nhà nước có thể can thiệp vào thị trường tiền tệ bất cứ lúc nào mà không bị chậm trễ bởi các thủ tục hành chính. Thứ tư, đây là công cụ điều hành chính sách tiền tệ một cách gián tiếp. Nó tác dụng vào thị trường tiền tệ thông qua việc tham gia tự giác của các thành viên tham gia trên thị trường trên cơ sở lợi ích của họ chứ không phải bằng mệnh lệnh hành chính. Chính vì vậy, hiệu quả điều tiết của nghiệp vụ này rất cao. Đặc biệt, nước ta đang trong quá trình đổi mới theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước. Vì vậy, NHNNVN đang từng bước chuyển hình thức quản lí điều hành từ trực tiếp sang gián tiếp. Nghiệp vụ thị trường ra đời là để thực hiện mục tiêu đó. Đây là một trong những công cụ hữu hiệu của ngân hàng Nhà nước để thực thi chính sách tiền tệ thông qua việc tác động đến vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, từ đó có thể “bơm” hoặc “hút tiền” trong lưu thông, phục vụ các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Đối với tổ chức tín dụng, nghiệp vụ thị trường mở sẽ làm phong phú thêm các hoạt động đặc thù của Ngân hàng, là một nghiệp vụ kinh doanh mới hấp dẫn. Thông qua việc tham gia nghiệp vụ thị trường mở, các tổ chức có thể sử dụng nguồn vốn của mình linh hoạt hơn, an toàn hơn. Việc đưa nghiệp vụ thị trường mở vào hoạt động có ý nghĩa to lớn cho sự chuẩn bị các điều kiện để hệ thống Ngân hàng có thể hội nhập khu vực và thế giới, làm cho các luồng tiền tệ lưu thông “vào ra” một cách linh hoạt, theo đó nghiệp vụ thị trường mở sẽ là một công cụ điều hành chính sách tiền tệ không phải theo lối áp đặt mệnh lệnh mà dựa trên nền tảng của sự tự nguyện bởi một chiến lược kinh doanh của Ngân hàng thương mại. Nghiệp vụ thị trường mở còn cho thấy rằng, trong chừng mực nào đấy, việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thời gian qua vẫn còn chưa nhạy bén và đạt hiệu quả như mong muốn. Hơn thế nữa, Ngân hàng Nhà nước còn quá chú trọng việc sử dụng các công cụ điều hành trực tiếp mang nặng tính hành chính. Điều đó, cần thay đổi mà nghiệp vụ thị trường mở là một bước ngoặt. * Tiền đề ra đời của nghiệp vụ thị trường mở Thị trường nào hoạt động cũng cần có 4 yếu tố cơ bản là: môi trường pháp lí, hàng hoá, người bán, người mua. Về môi trường pháp lí: Đến nay việc tạo dựng môi trường pháp lí cho nghiệp vụ thị trường mở đã được hoàn tất. Từ việc thành lập ban điều hành đến việc ban hành quy chế, quy trình của nghiệp vụ thị trường mở, các quy định về đăng kí các giấy tờ có giá ngắn hạn, quy chế phát hành, đấu thầu hạch toán tín phiếu Nhà nước. Nhất nhất, các khâu đã sẵn sàng. Về hàng hoá: Mục đích điều tiết thị trường của Ngân hàng Nhà nước thông qua nghiệp vụ thị trường mở chỉ có thể đạt được khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện mua hoặc bán một khối lượng hàng hoá đủ lớn. Hiện tại hàng hoá thị trường mở không chỉ giới hạn về khối lượng mà còn đơn điệu về chủng loại. Về chủng loại, đến thời điểm hiện nay chỉ có hai lôại hàng hoá duy nhất được giao dịch trên thị trường mở là tín phiếu kho bạc Nhà nước và tín phiếu Ngân hàng Nhà nước. Theo Vụ tín dụng - Ngân hàng Nhà nước, tổng khối lượng của hai loại hàng hoá này đang được các tổ chức tín dụng lưu giữ chỉ vào khoảng 3.000 tỉ đồng, trong đó có 1.000 tỉ đồng tín phiếu Ngân hàng Nhà nước sẽ đến hạn thanh toán vào ngày 27/7/2000. Mặc khác, số hàng hoá này chỉ tập trung chủ yếu vào một số tổ chức tín dụng quốc doanh (Ngân hàng Công thương: 1400 tỉ, Ngân hàng Ngoại thương: 800 tỉ, Ngân hàng Đầu tư: 530 tỉ), các tổ chức t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc72933.DOC
Tài liệu liên quan