Đề tài Chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu ở Việt Nam

Hiện đã và đang có một số hình thức hỗ trợ xuất khẩu an toàn hơn hoặc sẵn có theo thông lệ quốc tế, kết hợp với việc được trích lập dự phòng rủi ro hoặc bảo lãnh của Chính phủ đối với xuất khẩu một số mặt hàng xuất khẩu theo hợp đồng ký kết giữa các Chính phủ (như xuất khẩu gạo), đồng thời có một số hình thức thanh toán quốc tế khác có mức độ rủi ro thấp như khách hàng ứng trước, điện chuyển tiền hay mở thư tín dụng. Ngoài ra, nhận thức của các tổ chức xuất khẩu về vai trò của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu còn hạn chế, đặc biệt là đối với các tổ chức xuất khẩu lớn vì đối tác của họ là các bạn hàng lớn và lâu năm nên tâm lý chủ quan cho rủi ro người mua không thanh toán hay tỷ lệ phá sản rất thấp. Đồng thời, quan niệm mua bảo hiểm làm tăng chi phí, giá thành mà chưa nhận thức được quyền lợi của mình nếu tham gia nên chưa hình thành thói quen và nhu cầu đối với loại hình bảo hiểm này

doc19 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3624 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ốn. Nhà nước đứng ra bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, ngoài việc thúc đẩy xuất khẩu còn nâng cao được giá bán hàng. Đây là một hình thức khá phổ biến trong chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu của nhiều nước để mở rộng xuất khẩu, chiếm lĩnh thị trường. 3.3. Cho thuê tài chính: Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê là các tổ chức tín dụng phi ngân hàng và bên thuê là khách hàng. Bên cho thuê (công ty cho thuê tài chính) cam kết mua máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê (cá nhân, tổ chức) và nắm quyền sở hữu đối với các tài sản thuê trong suốt quá trình thuê. Bên thuê được sử dụng tài sản thuê, thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thỏa thuận và không được hủy bỏ hợp đồng thuê trước thời hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu (với giá tượng trưng), mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã được hai bên thỏa thuận. Ở đây cần hiểu tài sản cho thuê là các máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác được công ty đứng ra mua theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản này trong suốt thời hạn cho thuê. Các công ty cho thuê tài chính không được cho thuê bất động sản, cũng không được cho vay tiền. Ưu điểm của hình thức này là doanh nghiệp được chủ động lựa chọn tài sản (máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển…) đáp ứng được mục đích sử dụng của mình với mức chi phí phù hợp nhờ được thanh toán dần tiền thuê tùy theo năng lực trả nợ. 3.4. Cấp tín dụng xuất khẩu: Nhà nước cấp tín dụng cho doanh nghiệp xuất khẩu trong nước: Trong hoạt động xuất khẩu, lượng vốn mà các doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất và thực hiện hợp đồng thường là rất lớn. Người xuất khẩu cần có được một số vốn trước khi giao hàng và cả sau khi giao hàng, ngoài ra cũng cần thêm vốn để kéo dài các khoản tín dụng ngắn hạn mà họ dành cho người mua nước ngoài. Vì vậy, trong chính sách hỗ trợ xuất khẩu không thể thiếu được việc cấp tín dụng của Chính phủ cho doanh nghiệp xuất khẩu theo những điều kiện ưu đãi. Các ngân hàng thường hỗ trợ cho các nhà xuất khẩu bằng cách cung cấp tín dụng ngắn hạn trong giai đoạn trước và sau khi giao hàng. Tín dụng xuất khẩu theo mức lãi suất ưu đãi không chỉ đơn giản là giúp người xuất khẩu thực hiện được hợp đồng xuất khẩu của mình mà còn giúp họ giảm chi phí về vốn cho hàng xuất khẩu cũng như giảm giá thành xuất khẩu. Do đó tín dụng xuất khẩu làm cho nhà xuất khẩu có khả năng bán được hàng của mình theo điều kiện có lợi và hàng hóa có sức cạnh tranh lớn hơn trước đối thủ của mình. Nhà nước cấp tín dụng cho nước ngoài: Nhà nước trực tiếp cho nước ngoài vay tiền với lãi suất ưu đãi để sử dụng số tiền đó mua hàng của nước cho vay. Nguồn vốn cho vay thường lấy từ ngân sách nhà nước. Việc cho vay này thường kèm theo các điều kiện kinh tế và chính trị có lợi cho nước cho vay. Hình thức này có tác dụng giúp cho doanh nghiệp đẩy mạnh được xuất khẩu vì chính phủ đã tạo sẵn ra thị trường. Tuy nhiên, hình thức này chủ yếu áp dụng ở các nước có tiềm lực kinh tế mạnh, đối với các nước này phần nào giải quyết được tình trạng dư thừa hàng hóa ở trong nước. Nhiều nước đã áp dụng hình thức này như Chính phủ Nhật bản cấp ODA cho Việt Nam trong đó có điều kiện cấp cho một số doanh nghiệp để nhập khẩu hàng hóa từ Nhật Bản. Với Việt Nam, trong điều kiện hiện nay chúng ta chưa có vốn để cho nước ngoài vay với khối lượng lớn, tuy nhiên trong những trường hợp nhất định, Chính phủ cũng nên áp dụng hình thức này để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của ta. PHẦN II: THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG HỖ TRỢ XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM Kể từ khi gia nhập WTO, các chính sách hỗ trợ xuất khẩu của Việt Nam như thưởng thành tích xuất khẩu, thưởng vượt kim ngạch xuất khẩu, trợ cấp thay thế nhập khẩu hay chính sách tín dụng ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu do Quỹ Hỗ trợ phát triển (nay là Ngân hàng Phát triển Việt Nam) thực hiện từ năm 2001 dưới hình thức cho vay lãi suất ưu đãi… theo quy định của WTO, đã không còn được thực hiện. Để phù hợp với các cam kết khi gia nhập WTO, Chính phủ đã tiến hành đổi mới cơ chế hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp theo hướng tham khảo và áp dụng các cơ chế hỗ trợ tín dụng cho xuất khẩu của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) được WTO công nhận. Các cơ chế và chính sách hỗ trợ xuất khẩu hiện đang được áp dụng là: hỗ trợ về xúc tiến thương mại, hỗ trợ về xây dựng thương hiệu, hỗ trợ đào tạo cho doanh nghiệp, hỗ trợ tín dụng đầu tư và hỗ trợ tín dụng xuất khẩu. Trong đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006 về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước. 1. Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu: Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu được thực hiện thí điểm tại Việt Nam từ năm 2011 đến 2013 theo Quyết định số 2011/QĐ-TTg ngày 05 tháng 11 năm 2010 của Thủ tướng chính phủ với mục tiêu đến cuối năm 2013 3% kim ngạch xuất khẩu của chúng ta sẽ được bảo hiểm. a. Chính sách của Nhà nước về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu: Theo Quyết định 2011/QĐ-TTg, đối tượng tham gia bảo hiểm là các thương nhân xuất khẩu hàng hóa thuộc 2 nhóm mặt hàng. Nhóm 1 gồm 9 nhóm mặt hàng: Thủy sản, gạo, cà phê, rau quả, cao su, hạt tiêu, nhân điều, chè, sắn và các sản phẩm từ sắn. Nhóm 2 gồm 14 nhóm mặt hàng: Dệt may, giày dép, điện tử và linh kiện máy tính, gốm sứ, thủy tinh, mây tre cói và thảm, sản phẩm gỗ, sản phẩm chất dẻo, dây điện và cáp điện, xe đạp và phụ tùng, túi xách, vali, mũ, ô dù, sản phẩm từ sắt thép, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải. Với 2 nhóm mặt hàng trên nhìn chung Chính phủ khuyến khích triển khai bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ở phần lớn các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam trừ các mặt hàng thuộc nhóm tài nguyên khoáng sản. Ngân sách nhà nước hỗ trợ triển khai thực hiện, mức độ hỗ trợ do Bộ Tài chính quyết định. Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công Thương, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Hiệp hội Bảo hiểm, các Hiệp hội ngành hàng và các doanh nghiệp bảo hiểm được lựa chọn triển khai có trách nhiệm đẩy mạnh phổ biến, nâng cao nhận thức về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu và khuyến khích thương nhân xuất khẩu hàng hóa tham gia. Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp các Bộ, cơ quan liên quan thường xuyên cung cấp thông tin về các quốc gia, ngành hàng, tổ chức nhập khẩu, thông tin rủi ro thị trường của các thị trường xuất khẩu chủ yếu. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo và khuyến khích các thương nhân xuất khẩu trên địa bàn tham gia bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. b. Thực trạng triển khai bảo hiểm tín dụng xuất khẩu: Do mới triển khai từ đầu năm 2011 và mới trong giai đoạn triển khai thí điểm nên hình thức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu hiện chưa phổ biến tại Việt Nam. Trong khi các doanh nghiệp xuất khẩu có nhu cầu khá cao thì các công ty bảo hiểm và các ngân hàng còn tỏ ra thận trọng. Theo kết quả điều tra sơ bộ do Bộ Công Thương thực hiện tại 200 trên tổng số 35.000 thương nhân xuất khẩu cho thấy có rất ít doanh nghiệp áp dụng chương trình quản lý nợ/quản lý rủi ro thanh toán. Phân loại rủi ro gặp phải trong hoạt động xuất khẩu có đến 68% là rủi ro thương mại, 17% rủi ro liên quan đến chính trị và 16% rủi ro liên quan đến ngân hàng. Tuy nhiên, chưa có doanh nghiệp nào tham gia bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, phần lớn chỉ tham gia bảo hiểm xuất khẩu hàng hóa. Kết quả điều tra của Bộ Công Thương cũng cho thấy 95% doanh nghiệp xuất khẩu có nhu cầu bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Trong đó, 78% muốn bảo hiểm rủi ro thương mại, 12% muốn tham gia các hình thức bảo hiểm rủi ro khác trong xuất khẩu như biến động về giá, tỉ giá, 10% quan tâm đến rủi ro chính trị. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu đang tích cực khai phá các thị trường mới như: Châu Phi, Tây Á, Trung Đông... nguy cơ rủi ro cao nên việc triển khai thí điểm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu được các doanh nghiệp này vui mừng đón nhận. Trong lĩnh vực xuất khẩu gạo, không ít đối tác, thị trường mới muốn nhập khẩu gạo của Việt Nam nhưng doanh nghiệp nước ta còn lưỡng lự vì sợ không đòi được tiền. Vì vậy, nếu bảo hiểm tín dụng được triển khai thì sẽ là cơ hội tốt để doanh nghiệp mở rộng thị trường. Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu nông sản khác cũng rất quan tâm bởi nhiều trường hợp nhà nhập khẩu là khách hàng mới, đòi thanh toán bằng phương thức trả sau, các doanh nghiệp rất phân vân, bởi không ký thì sợ bỏ lỡ khách hàng tiềm năng, mà ký thì sợ rủi ro thanh toán. Trong khi doanh nghiệp xuất khẩu hồ hởi, thì phía doanh nghiệp bảo hiểm và các ngân hàng lại tỏ ra thận trọng. Theo Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm của Bộ Tài chính, chỉ có 3 doanh nghiệp bảo hiểm triển khai bảo hiểm tín dụng xuất khẩu gồm: Tổng công ty cổ phần bảo hiểm dầu khí (PVI), tổng công ty cổ phần Bảo Minh (Bảo Minh) và công ty TNHH Bảo hiểm QBE. Trong đó, QBE có hai hợp đồng đạt doanh thu phí bảo hiểm tín dụng xuất khẩu hơn 4 tỉ đồng, Bảo Minh có 6 hợp đồng, đạt doanh thu phí 3 tỉ đồng. Tuy vậy, nhận thấy thị trường có nhiều cơ hội, một số doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ đang chuẩn bị triển khai bảo hiểm tín dụng xuất khẩu dưới hình thức kết hợp với một số công ty nước ngoài, trong đó có công ty bảo hiểm BIDV (BIC), Bảo Việt… Không chỉ doanh nghiệp bảo hiểm, các ngân hàng cũng bị hấp dẫn bởi bảo hiểm tín dụng xuất khẩu và bắt đầu khai thác sản phẩm này. Hiện SacomBank đã có sản phẩm bao thanh toán xuất khẩu cho các doanh nghiệp xuất khẩu qua thị trường các quốc gia mà SacomBank có chi nhánh trước mắt là Lào và Campuchia dưới hình thức mua lại khoản phải thu của khách hàng xuất khẩu tại Việt Nam. Đến hạn thanh toán, SacomBank chi nhánh nước ngoài sẽ tài trợ cho nhà nhập khẩu thanh toán tiền hàng. Ngân hàng này dự báo nghiệp vụ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu sẽ mang lại hiệu quả lớn, phù hợp với định hướng chiến lược mở rộng mạng lưới hoạt động sang thị trường quốc tế cùng với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. c. Nguyên nhân bảo hiểm tín dụng xuất khẩu chưa được triển khai mạnh mẽ ở Việt Nam: - Về phía Nhà nước: Các cơ quan nhà nước được Thủ tướng giao nhiệm vụ thực hiện nhưng vẫn chưa có những hành động cụ thể và cần thiết để hỗ trợ cho các doanh nghiệp bảo hiểm và ngân hàng triển khai cũng như các doanh nghiệp xuất khẩu tham gia hình thức bảo hiểm này. - Về phía các doanh nghiệp bảo hiểm và ngân hàng: Để bán được sản phẩm bảo hiểm này, doanh nghiệp bảo hiểm và ngân hàng phải có mối quan hệ rộng rãi với các doanh nghiệp, ngân hàng nước ngoài, phải có hệ thống công nghệ thông tin tốt, dữ liệu về rủi ro đa dạng đầy đủ đối với từng quốc gia, từng lĩnh vực, ngành hàng và nguồn nhân lực có kinh nghiệm chuyên sâu… từ đó mới thẩm định được năng lực thanh toán của doanh nghiệp nhập khẩu nước ngoài. Các doanh nghiệp bảo hiểm và ngân hàng không thể có các điều này chỉ trong một thời gian ngăn đồng thời phải đầu tư một lượng vốn lớn trong khi chưa chắc chắn có thể thu hồi được các khoản đầu tư này. Thứ hai, do đây là sản phẩm mới nên số lượng doanh nghiệp xuất khẩu yêu cầu bảo hiểm còn hạn chế. Do đó, nếu nhận bảo hiểm cho các đối tượng này thì xác suất xảy ra tổn thất là rất lớn, không đáp ứng nguyên tắc số đông bù số ít. - Về phía doanh nghiệp xuất khẩu: Hiện đã và đang có một số hình thức hỗ trợ xuất khẩu an toàn hơn hoặc sẵn có theo thông lệ quốc tế, kết hợp với việc được trích lập dự phòng rủi ro hoặc bảo lãnh của Chính phủ đối với xuất khẩu một số mặt hàng xuất khẩu theo hợp đồng ký kết giữa các Chính phủ (như xuất khẩu gạo), đồng thời có một số hình thức thanh toán quốc tế khác có mức độ rủi ro thấp như khách hàng ứng trước, điện chuyển tiền hay mở thư tín dụng... Ngoài ra, nhận thức của các tổ chức xuất khẩu về vai trò của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu còn hạn chế, đặc biệt là đối với các tổ chức xuất khẩu lớn vì đối tác của họ là các bạn hàng lớn và lâu năm nên tâm lý chủ quan cho rủi ro người mua không thanh toán hay tỷ lệ phá sản rất thấp. Đồng thời, quan niệm mua bảo hiểm làm tăng chi phí, giá thành mà chưa nhận thức được quyền lợi của mình nếu tham gia nên chưa hình thành thói quen và nhu cầu đối với loại hình bảo hiểm này. 2. Bảo lãnh tín dụng xuất khẩu: Bảo lãnh tín dụng được triển khai tại Việt Nam từ năm 2007 theo Nghị định số 151/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 20/12/2006 - Mục 2. Tuy nhiên, trong thời gian qua do chưa thực sự phát huy hiệu quả nên trong dự thảo Nghị định về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước đang được hoàn thiện, Bộ Tài chính đã không đưa hình thức này vào nội dung của dự thảo. a. Chính sách của Nhà nước về bảo lãnh tín dụng xuất khẩu: Theo Nghị định số 151/2006/NĐ-CP: - Bên bảo lãnh là Ngân hàng Phát triển Việt Nam. - Bên được bảo lãnh là nhà xuất khẩu được Ngân hàng Phát triển Việt Nam bảo lãnh. - Bên nhận bảo lãnh là các tổ chức cho nhà xuất khẩu vay vốn. - Đối tượng bảo lãnh là nhà xuất khẩu có hợp đồng xuất khẩu hàng hoá thuộc Danh mục mặt hàng vay vốn tín dụng xuất khẩu, nhưng không vay vốn tín dụng xuất khẩu của nhà nước. - Thời hạn bảo lãnh phù hợp với thời hạn vay vốn theo Hợp đồng tín dụng đã ký giữa nhà xuất khẩu với tổ chức tín dụng nhưng tối đa là 12 tháng. - Mức bảo lãnh cho nhà xuất khẩu vay vốn không quá 85% giá trị hợp đồng xuất khẩu hoặc giá trị L/C. - Nhà xuất khẩu được bảo lãnh phải trả phí bảo lãnh bằng 1%/năm trên số dư tín dụng được bảo lãnh. - Trách nhiệm tài chính khi nhà xuất khẩu không trả được nợ: + Sau thời hạn 60 ngày kể từ ngày khoản vay đến hạn, chủ đầu tư không trả được nợ, tổ chức tín dụng có yêu cầu bằng văn bản gửi Ngân hàng Phát triển Việt Nam trả nợ thay. + Ngân hàng Phát triển Việt Nam có trách nhiệm trả nợ cho tổ chức tín dụng thay chủ đầu tư phần vốn vay quá hạn đã nhận bảo lãnh khi nhận được yêu cầu trả nợ thay. + Nhà xuất khẩu phải nhận nợ bắt buộc và có trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam về số tiền trả nợ thay với lãi suất phạt bằng 150% lãi suất vay vốn của tổ chức tín dụng. b. Thực trạng triển khai bảo lãnh tín dụng xuất khẩu và nguyên nhân: Như đã nói ở trên, hình thức bảo lãnh tín dụng xuất khẩu quy định trong Nghị định 151/2006/NĐ-CP trong thời gian qua chưa thực sự phát huy hiệu quả. Do vậy, trong dự thảo Nghị định về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước đang được hoàn thiện, Bộ Tài chính đề nghị không đưa 2 hình thức này vào nội dung của dự thảo. Giải thích cho đề nghị này, Bộ Tài chính cho biết, hình thức bảo lãnh tín dụng xuất khẩu chưa phát huy hiệu quả do doanh nghiệp áp dụng hình thức này vừa phải trả lãi suất vay thương mại cho các tổ chức tín dụng, vừa phải trả phí bảo lãnh cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam nên không được hưởng ưu đãi bằng hình thức vay vốn trực tiếp của Ngân hàng Phát triển Việt Nam. Do vậy, trong thời gian qua, Ngân hàng Phát triển Việt Nam không cấp bảo lãnh tín dụng xuất khẩu cho một nhà xuất khẩu nào. Đây có thể coi là một ví dụ điển hình về tính không hiệu quả, không thực tế trong việc ban hành chính sách ở Việt Nam. Mặt khác, trong năm 2009 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 14/2009/QĐ-TTg và 60/QĐ-TTg về bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn ngân hàng thương mại phục vụ sản xuất kinh doanh. 3. Cho thuê tài chính: Cho đến thời điểm hiện tại Việt Nam chưa có bất cứ quy định nào về tín dụng hỗ trợ xuất khẩu thông qua hình thức cho thuê tài chính, tuy nhiên với việc ban hành Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02 tháng 5 năm 2011 về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính thì các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cũng có thêm một kênh để nhận được hỗ trợ về tín dụng. Trong bối cảnh hội nhập, việc đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị ở các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu là một đòi hỏi bức thiết nhằm nâng cao năng suất lao động cũng như chất lượng sản phẩm, giảm chi phí, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Phần lớn các thiết bị của doanh nghiệp Việt Nam đã lạc hậu từ 2-3 thế hệ so với các nước tiên tiến. Hiện nay, lượng vốn dài hạn đầu tư cho các doanh nghiệp là hết sức khiêm tốn. Kênh tài trợ tài trợ quen thuộc vẫn là đi vay ở các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp mới ra đời không có đủ tài sản đảm bảo cũng như uy tín thì việc tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng là rất khó khăn. Trong trường hợp này, đi thuê tài chính có thể là một giải pháp tối ưu. a. Thực trạng cho thuê tài chính ở Việt Nam: Mặc dù cho thuê tài chính là loại hình cấp tín dụng trung và dài hạn khá phổ biến trên thế giới và có nhiều lợi thế cạnh tranh, tuy nhiên, sau 15 năm có mặt (cho thuê tài chính bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam từ năm 1996) thị trường cho thuê tài chính Việt Nam chỉ có 18 công ty được thành lập dưới các hình thức sở hữu khác nhau. Vốn điều lệ trung bình của một doanh nghiệp cho thuê tài chính là 175 tỉ đồng - rất nhỏ so với vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại. Hơn nữa, hiện nay có nhiều doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả. Mặt khác, các doanh nghiệp Việt Nam không mấy quan tâm đến loại hình dịch vụ này. Theo một cuộc khảo sát ngẫu nhiên mới đây đối với 1000 doanh nghiệp thuộc các thành phần khác nhau thì hơn 70% số doanh nghiệp được hỏi trả lời rằng họ biết rất ít và chưa bao giờ tìm hiểu, sử dụng dịch vụ cho thuê tài chính; gần 20% hoàn toàn không biết về dịch vụ này, thậm chí có doanh nghiệp hiểu cho thuê tài chính như hoạt động mua trả góp, nhiều doanh nghiệp chưa hiểu rõ bản chất cấp tín dụng của dịch vụ cho thuê tài chính, chưa thấy rõ được hiệu quả, lợi ích từ dịch vụ cho thuê tài chính mang lại... b. Nguyên nhân cho thuê tài chính chưa phát triển ở Việt Nam: Thứ nhất, doanh nghiệp hiểu biết về kênh cấp vốn qua dịch vụ cho thuê tài chính còn hạn chế; hoạt động quảng bá, giới thiệu dịch vụ này đến doanh nghiệp còn yếu. Thứ hai, mạng lưới hoạt động của các công ty cho thuê tài chính mới chỉ có mặt tại một vài trung tâm kinh tế lớn, chưa trải rộng trong cả nước cũng như chưa có sự phối hợp với các ngân hàng thương mại để có thể quảng bá hoặc bán trọn gói sản phẩm. Thứ ba, trình độ của cán bộ kinh doanh trong các Công ty cho thuê tài chính chưa chuyên nghiệp, không năng động trong việc tiếp cận và tư vấn cho doanh nghiệp về cơ cấu nguồn vốn. Thứ tư, giá cho thuê (gồm tiền trích khấu hao tài sản thuê, phí, bảo hiểm...) hiện nay còn cao. Nếu bỏ qua các yếu tố an toàn, chi phí bỏ ra ban đầu thấp... thì cho đến hết thời hạn thanh lý hợp đồng cho thuê tài chính, bên thuê sẽ phải thanh toán tổng số tiền đối với tài sản thuê cao hơn so với đi vay từ các nguồn khác như ngân hàng. Như vậy, nếu tính ra lãi suất thì lãi suất thuê tài chính cao hơn lãi suất vay ngân hàng, bởi vì lãi suất thuê tài chính còn phải cộng thêm các chi phí về lắp đặt, vận hành, bảo hiểm... của bên cho thuê phải bỏ ra. Thứ năm, hành lang pháp lý về cho thuê tài chính chưa hoàn thiện đồng bộ, nhiều quy định cần phải được luật hóa. Các quy định về sở hữu, về tổ chức, hoạt động, vốn điều lệ... trong các văn bản còn nhiều vấn đề phải bàn. Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản dưới luật khi quy định về cho thuê tài chính đã không phân định triệt để các khái niệm liên quan đến sở hữu, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản thuê trong các giai đoạn của quá trình cho thuê tài chính, giá trị cho thuê tối đa... gây cản trở đối với hoạt động cho thuê tài chính. 4. Cho vay xuất khẩu (cấp tín dụng xuất khẩu): Hiện nay, hoạt động tín dụng xuất khẩu được thực hiện thông qua đầu mối là Ngân hàng Phát triển Việt Nam. Bắt đầu triển khai từ năm 2001, khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định Số 133/2001/QĐ-TTg về việc ban hành Quy chế tín dụng hỗ trợ xuất khẩu. Qua hơn 10 năm thực hiện, Ngân hàng Phát triển Việt Nam đã cấp tín dụng xuất khẩu cho hàng trăm doanh nghiệp với doanh số cho vay tính đến tháng 10/2007 ước tính khoảng 40.000 tỉ đồng, dư nợ trên dưới 3.000 tỷ đồng. Ngày 20/12/2006 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 151/2006/NĐ-CP về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước. So với Quy chế TDXK trước đây, Nghị định 151 có những thay đổi đáng kể, phù hợp với nhu cầu thực tế và có ý nghĩa to lớn trong việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu. a. Chính sách của Nhà nước về cho vay xuất khẩu: - Hình thức: Cho nhà xuất khẩu vay, bao gồm cho vay trước hoặc sau khi giao hàng. - Đối tượng cho vay: Nhà xuất khẩu có hợp đồng xuất khẩu hàng hoá thuộc Danh mục mặt hàng vay vốn tín dụng xuất khẩu được ban hành kèm theo Nghị định này. - Điều kiện cho vay: Phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả được Ngân hàng Phát triển Việt Nam thẩm định và chấp thuận cho vay. - Mức vốn cho vay: tối đa bằng 85% giá trị hợp đồng xuất khẩu, hoặc giá trị L/C đối với cho vay trước khi giao hàng hoặc trị giá hối phiếu hợp lệ đối với cho vay sau khi giao hàng - Thời hạn cho vay: xác định theo khả năng thu hồi vốn phù hợp với đặc điểm của từng hợp đồng xuất khẩu và khả năng trả nợ của nhà xuất khẩu nhưng không quá 12 tháng. - Lãi suất cho vay: giao Bộ Tài chính quyết định theo nguyên tắc phù hợp với lãi suất thị trường. Bộ trưởng Bộ Tài chính công bố lãi suất cho vay tín dụng xuất khẩu để Ngân hàng Phát triển Việt Nam thực hiện tối đa 2 lần/năm. b. Những ưu điểm khi khách hàng tiếp cận nguồn vốn tín dụng xuất khẩu của Ngân hàng Phát triển Việt Nam: - Việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng của Nhà nước tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam hiện nay được thực hiện thống nhất tại tất cả các chi nhánh Ngân hàng Phát triển Việt Nam trên toàn quốc và áp dụng với mọi loại hình doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, không phân biệt thành phần kinh tế, quy mô doanh nghiệp, doanh nghiệp trong nước hay nước ngòai; chỉ yêu cầu đảm bảo mục tiêu sử dụng vốn vay cho sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu các mặt hàng theo danh mục quy định của Nghị định 151 và đáp ứng các yêu cầu về trình tự thủ tục vay vốn. - Thủ tục, thời gian vay vốn tín dụng xuất khẩu tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam hiện nay đã đơn giản hơn nhiều so với trước thể hiện ở số lượng giấy tờ văn bản cần cung cấp đã giảm, trình tự duyệt vay đã được quy định cụ thể, có quy định rõ trách nhiệm của từng bộ phận trong từng khâu hướng dẫn và tiếp nhận hồ sơ, duyệt vay và giải ngân nhằm giảm tối đã các phiền hà cho khách hàng; Khách hàng vay vốn tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam sẽ được hướng dẫn nhiệt tình cụ thể và được tư vấn, hỗ trợ khi cần thiết. - Tỷ lệ tài sản đảm bảo tiền vay được xác định linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng khách hàng và quan hệ tín dụng giữa khách hàng và Ngân hàng Phát triển Việt Nam. Hiện nay, tỷ lệ tài sản bảo đảm tối thiểu Ngân hàng Phát triển Việt Nam cần có khi vay vốn tín dụng xuất khẩu là 15% đối với hình thức cầm cố, thế chấp và 100% đối với hình thức bảo lãnh của bên thứ 3. Đối với một số trường hợp cụ thể, Ngân hàng Phát triển Việt Nam có thể xem xét cho vay không có bảo đảm bằng tài sản. Đây là một lợi thế lớn của Ngân hàng Phát triển Việt Nam so với các ngân hàng thương mại bởi hiện nay tỷ lệ tài sản bảo đảm tiền vay tại các ngân hàng thường ở mức cao, có thể lên tới trên 100% giá trị khoản vay. - Đối với những khách hàng đủ điều kiện vay theo hạn mức, Ngân hàng Phát triển Việt Nam sẽ tạo điều kiện cho khách hàng vay vốn theo hình thức này với ưu điểm giảm thiểu thủ tục hành chính, cho vay sát với nhu cầu về vốn phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu của khách hàng. - Lãi suất cho vay tín dụng xuất khẩu của Ngân hàng Phát triển Việt Nam hiện nay đang áp dụng thấp hơn so với mức lãi suất trung bình của nhiều ngân hàng thương mại. Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư số 203/2010/TT-BTC quy định lãi suất cho vay tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu của Nhà nước và mức chênh lệch lãi suất được tính hỗ trợ sau đầu tư, thay thế Quyết định số 3280/QĐ-BTC ngày 25/12/2009. Theo đó, lãi suất cho vay tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu của Nhà nước bằng đồng Việt Nam sẽ tăng từ 9,6%/năm (theo quy định tại Quyết định số 3280/QĐ-BTC) lên 11,4%/năm, bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi tăng từ 6,0%/năm lên 6,6%/năm. Theo phân tích của Vụ Tài chính Ngân hàng Bộ Tài chính, lãi suất tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu được điều chỉnh tăng để phù hợp với diễn biến xu hướng tăng của lãi suất cho vay trên thị trường (sau khi Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản từ 8%/năm lên 9%/năm), đồng thời giảm số cấp bù chênh lệch lãi suất cho Ngân sách Nhà nước. PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHẢP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG HỖ TRỢ XUẤT KHẨU Ở VIỆT NAM 1. Giải pháp đẩy mạnh triển khai bảo hiểm tín dụng xuất khẩu: Trước những thách thức về thiếu nguồn vốn và nhân sự, cũng như tính chất mặt hàng xuất khẩu đa số là hàng hóa thông dụng. Các chuyên gia kinh tế cho rằng, thời gian đầu triển khai Việt Nam nên lựa chọn phát triển sản phẩm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ngắn hạn. Sản phẩm này sẽ phù hợp với năng lực tổ chức quản lý điều hành và chuyên môn, quan hệ quốc tế của hệ thống doanh nghiệp bảo hiểm trong nước. Hơn nữa cũng cần sự cố gắng thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp của các bên đó là nhà nước, tổ chức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu và tổ chức xuất khẩu. - Về phía Nhà nước: Cần hỗ trợ, tạo cơ sở vốn đầu tư ban đầu cho trang bị công nghệ và tuyển dụng nguồn nh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu ở Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan