Đề tài Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế của Nhà nước CHXHCN Việt Nam

Thuế là loại công cụ đặc biệt duy nhất chỉ có trong tay Nhà nước. Nhà nước không thể thưc hiện tốt chức năng kinh tế mà lại không chú trọng công cụ thuế vì thong qua thuế, Nhà nước tác động vào các lợi ích của các chủ thể kinh tế, điều tiết hoạt động sản xuất, kinh doanh của họ theo mục tiêu đã định. Chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, với cơ cấu kinh tế đa thành phần thì thuế không chỉ là nguồn thu quan trọng nhất cho ngân sách nhà nước mà còn là công cụ đảm bảo cho dự công bằng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Vì vậy, ngày nay, thuế trở thành công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trong hàng đầu của Nhà nước.

doc22 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3845 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế của Nhà nước CHXHCN Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a nhà nước co thể xác định được: - Nhà nước làm gì (nội dung hoạt động) - Nhà nước làm như thế nào (phương thức hoạt động) 1. Nhà nước điều chỉnh hoạt động kinh tế bằng pháp luật và các công cụ quản lý vĩ mô khác Chức năng quản lý vĩ mô của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường vạch rõ phạm vi hoạt động của Nhà nước là ở tầm tổng thể các hành vi của các chủ thể kinh tế. Điều này quy định việc nhà nước phải sử dụng pháp luật và các công cụ quản lý vĩ mô khác là những loại công cụ có khả năng định hướng, kiểm soát, điều chỉnh, phối hợp các hành vi ấy sao cho chúng diễn ra trong vòng trật tự, đảm bảo vững chắc cho tự do kinh doanh nhằm hướng tới các mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững. a/ Nhà nước ban hành và thực thi chính sách kinh tế vĩ mô Trước hết ta phải nắm được chính sách kinh tế vĩ mô là gì? Chính sách kinh tế vĩ mô la chính sách của Nhà nước tác động lên tổng thể nền kinh tế quốc dân nhằm đạt tới các mục tiêu tăng trưởng bền vững của đất nước. Nhìn chung, nội dung chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có thể được xem xét cụ thể ở một số chính sách cơ bản sau: - Chính sách đối với các thành phần kinh tế. Nếu trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây, thành phần kinh tế XHCN chiếm vị trí độc tôn, các thành phần kinh tế khac bị hạn chế và phải cải tạo XHCN thì trong nền kinh tế thị trường Nhà nước thừa nhận và tôn trọng sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (Điều 16 Hiến pháp năm 1992 - sửa đổi năm 2001). Tất cả các thành phần kinh tế ấy dù là khác nhau về lợi ích trực tiếp nhưng đều được coi là những bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước thực hiện vai trò định hướng điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Như vậy, chính sách kinh tế nhiều thành phần của Nhà nước nhằm đạt được 2 mục tiêu là phát huy tiềm năng to lớn của xã hội, xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất, cơ sở vật chất kỹ thuật làm nền tảng vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước và định hướng XHCN cho quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân. Chính sách đối với các thành phần kinh tế được coi là chính sách cốt lõi trong hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước, nó có ý nghĩa chi phối toàn bộ hoạt động xã hội khác ở Việt Nam và là điểm nút của mọi khởi động. - Chính sách tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Thông qua chính sách này, Nhà nước xác định mục đích phát triển kinh tế - xã hội của đất nước là “làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân” (Điều 16 Hiến pháp năm 1992). - Chính sách thu hút vốn đầu tư. Vốn là yếu tố vật chất quyết định cho sự phát triển của nền kinh tế thị trường, vì vậy Nhà nước phải chú trọng thực hiện hang loạt các biện pháp pháp lí và tổ chức thực tiễn để thu hút vốn đầu tư từ cả trong và ngoài nước. Nhà nước chủ trương phát triển nhanh và bền vững thị trường chứng khoán để tạo điều kiện thuận lợi cho sự lưu thông các nguồn vốn trong xã hội. Chính sách này đã tập trung động viên các nguồn tài chính với quy mô và tốc độ ngày càng cao cho phát triển kinh tế - xã hội. Khối lượng đầu tư trong các năm gần đây tăng nhanh, tỉ lệ đầu tư xã hội so với GDP đã tăng từ 15,5% năm 1991 lên 30,9% năm 1997, năm 1999 có giảm xuống nhưng vẫn đạt 28,4%. Nhà nước đa dạng hoá các hình thức huy động vốn gắn với chính sách phát triển các thành phần kinh tế, trong đó vốn trong nước là chủ yếu. Cùng với chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chính sách khuyến khích đầu tư trong nước, việc Nhà nước tổ chức và tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển các hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ tạo thuận lợi cho việc luân chuyển tự do và an toàn của các nguồn vốn trên thị trường, qua đó thúc đẩy nền kinh tế nước nhà phát triển. - Chính sách quản lí và sử dụng đất đai. Trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân và sự quản lí thống nhất của Nhà nước với toàn bộ vốn đất đai, chính sách đặc thù của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là Nhà nước tôn trọng và thừa nhận các quyền của người sử dụng đất nhằm phát huy mọi tiềm năng đất đai, lao động, vốn để phát triển kinh tế, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp, giải quyết thoả đáng các vấn đề kinh tế - xã hội ở nông thôn. Người sử dụng đất có quyền chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, để lại thừa kế quyền sử dụng đất phù hợp với các quy định của pháp luật dân sự và pháp luật đất đai. Đến nay, chính sách đất đai của Nhà nước cũng đang tiếp tục được sửa đổi và hoàn thiện theo hướng giảm nhẹ các thủ tục hành chính có lien quan, đảm bảo sự an toàn và thuận lợi cho người sử dụng đất, đảm bảo sự quản lí của Nhà nước về mục đích sử dụng đất cũng nhue quyền định đoạt của Nhà nước đối với đất đai với các chính sách khác của Nhà nước. - Chính sách hội nhập nền kinh tế quốc tế và khu vực. Đây là một trong những chính sách lớn và có giá trị vô cùng quan trọng của Đảng và Nhà nước phù hợp với xu thế tất yếu có tính thời đại của nền kinh tế quốc dân. Tại Đại hội IX, Đảng tiếp tục khẳng định chính sách của Việt Nam là chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.Trên cở sở đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế của Đảng, chính sách hội nhập thể hiện các quan điểm phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái… Nội dung chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường còn được thể hiện ở hang loạt các chính sách như chính sách xuất nhập khẩu, chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng thuế, chính sách quản lí vĩ mô về giá cả… Phương thức ban hành và thực thi chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước cần phải tuân theo những yêu cầu như sau: - Nhà nước vạch rõ và kiên định những chủ trương lớn căn cứ trên các mục tiêu của sự nghiệp xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. - Nhà nước xây dựng và hoàn thiện chiến lược phát triển, các định hướng phát triển cho các ngành, vùng, các lĩnh vực kinh tế của đất nước. - Chính sách kinh tê vĩ mô phải được dựa trên nền tảng luật pháp vững chắc, nghĩa là hệ thống pháp luật thể hiện được “linh hồn” của chính sách nhưng cũng đảm bảo tính khả thi và hiệu qủa cho các chính sách. b/Nhà nước kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân Bản chất của quan hệ kinh tế quyết định nội dung và phương thức hoạt động của Nhà nước trong kế hoạch hoá của Nhà nước có tính đặc thù thích ứng với yêu cầu của các mô hình kinh tế đó. Nội dung hoạt động kế hoạch háo nền kinh tế quốc dân của Nhà nước là sự cụ thể hoá những quyết định chiến lược, đảm bảo thực hiện hoá mục tiêu đề ra trong chính sách của Nhà nước.Trên cơ sở phân tích và dự báo về thị trường một cách khoa học, Nhà nước cụ thể hoá nôij dung của các mục tiêu chiến lược theo các bước đi, với những biện pháp thích hợp. Kế hoạch kinh tế vĩ mô của Nhà nước nhằm phối hợp các hành vi của các chủ thể kinh tế, tác động đến quyết định cụ thể trong hoạt động kinh doanh của họ. Kế hoạch của Nhà nước nhằm phối hợp các hành vi của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, góp phần tạo sức cạnh tranh chung của nền kinh tế quốc dân trên thương trường quốc tế…Vì vậy, kế hoạch vĩ mô của Nhà nước được coi là công cụ cơ bản để định hướng phát triển nền kinh tế quốc dân, bảo đảm sự tăng trưởng và phát triển bền vững của đất nước. Những năm qua, theo quá trình phát chuyển đổi chức năng kinh tế của Nhà nước, công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam cũng đổi mới theo những nội dung thích hợp. Cụ thể là Nhà nước thực hiện việc giảm mạnh mẽ hệ thống chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh, tạo điều kiện chủ động sản xuất kinh doanh cho các thành phần kinh tế. Đặc biệt, việc tổ chức điều hành kế hoạch được thay đổi sang phương thức mới như thong tin hướng dẫn thay vì giao sổ kiểm tra như trước đây, điều hành kế hoạch trong tổng thể hệ thống công cụ gồm chính sách, pháp luật, kế hoạch, sử dụng hệ thống tính toán kế hoạch theo thong lệ quốc tế. Nhà nước cũng đã chuyển trọng tâm của công tác kế hoạch sang xây dựng và thựuc thi kế hoạch phát triển nền kinh tế quốc dân đồng thời tổ chức laij cơ quan kế hoạch các cấp. Bên cạnh đó, Nhà nước Việt Nam còn đề ra các kế hoạch hang năm, kế hoạch 5 năm, hoặc những kế hoạch được thể hiện dưới nhiều hình thức như chương trình mục tiêu, quy hoạch, dự án…để tập trung giải quyết nhiều vấn đè bức xúc kinh tế, xã hội đất nước trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường, nhất là vấn đề việc làm cho người lao động. Phương thức hoạt động kế hoạch háo của Nhà nước là tổng hợp các hình thức phương pháp hoat động kế hoạch hoá cũng như phạm vi, mức độ sử dụng kế hoạch. Nếu như với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, kế hoạch của Nhà nước là kế hoạch với hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết và chặt chẽ và là công cụ tuyệt đối vừa điều chỉnh kinh tế vi mô vừa điều chỉnh vĩ mô, thì với nền kinh tế thị trường, kế hoạch có tính chất khác hẳn. Nền kinh tế thị trường không loại bỏ kế hoạch, mà chỉ chuyển đổi từ kế hoạch pháp lệnh sang kế hoạch định hướng, lúc này kế hoạch không còn tác động trực tiếp đến các chủ thể kinh tế và chính các chủ thể kinh tế cũng có kế hoạch, chương trình hành động riêng của họ. Hoạt động kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân của Nhà nước có những mặt mạnh là tập trung được các nguồn lực cho các mục tiêu phát triển, bảo đảm giữ được mục tiêu tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội một cách chủ động. Tuy nhiên, cần phải thấy công cụ kế hoạch có hạn chế là khó có thể bao quát được hết các nhu cầu đa dạng của thị trường mà các nhu cầu này lại luôn luôn biến động. c/Nhà nước sử dụng các công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng Tài chính tiền tệ tín dụng là các phạm trù đặc trưng của nền kinh tế thị trường. Bởi vậy, để quản lý nền kinh tế thị trường, Nhà nước không thể không nắm trong tay và sử dụng có hiệu quả các công cụ đó. Tài chính là công cụ có chức năng tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước và phân phối lại thu nhập quốc dân. Qua đó, Nhà nước tác động vào tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội và tác động vào tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Nội dung chính sách tài chính quốc gia thể hiện ở các chính sách cơ bản như: Chính sách về vốn, chính sách tài chính với doanh nghiệp, chính sách ngân sách nhà nước, chính sách tài chính đối ngoại… Thuế là loại công cụ đặc biệt duy nhất chỉ có trong tay Nhà nước. Nhà nước không thể thưc hiện tốt chức năng kinh tế mà lại không chú trọng công cụ thuế vì thong qua thuế, Nhà nước tác động vào các lợi ích của các chủ thể kinh tế, điều tiết hoạt động sản xuất, kinh doanh của họ theo mục tiêu đã định. Chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, với cơ cấu kinh tế đa thành phần thì thuế không chỉ là nguồn thu quan trọng nhất cho ngân sách nhà nước mà còn là công cụ đảm bảo cho dự công bằng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Vì vậy, ngày nay, thuế trở thành công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trong hàng đầu của Nhà nước. Tiền tệ, tín dụng cũng là những công cụ nhạy cảm trong nền kinh tế thị trường. Chính sách tiền tệ, tín dụng còn là bộ phận quan trọng trong chính sách tài chính quốc gia. Các công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng phát huy vai trò trong việc tạo ra các yếu tố kích thích hay hạn chế sự phát triển của các quan hệ kinh tế theo hướng nhất định. Thông qua loại công cụ này Nhà nước có thể kìm chế lạm phát khắc phục tính chu kỳ, tạo ra tính ổn định và sự phát triển bình thường cho nền kinh tế thị trường. Phương thức tác động này của Nhà nước trong cơ chế thị trường chỉ mang tính gián tiếp lên tất cả các chủ thể ở các thành phần kinh tế trên cơ sở vận dụng các quy luật của thị trường. d/Nhà nước quản lí kinh tế vĩ mô bằng pháp luật Vai trò của pháp luật trong nền kinh tế thị trường cho phép hoạt động quản lí kinh tế của Nhà nước được triển khai theo nội dung mới, đó là sự quản lí kinh tế vĩ mô bằng pháp luật. - Pháp luật quy định chế độ sở hữu mới nhằm tạo cơ sở để xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN - Pháp luật xác định cơ cấu chủ thể kinh tế thị trường và tạo cơ sở cho nền kinh tế Việt Nam hội nhập với nền kinh tế thế giới. - Pháp luật quy định cơ sở páhp lí cho sự tồn tại và phát triển của các loại thị trường. - Pháp luật quy đinhk chế độ quản lí vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường - Pháp luật quy định các điều kiện cạnh tranh nhằm trậ tự hoá thị trường. - Pháp luật bảo đảm sự an toàn nhằm khắc phục các khuyết tật của nền kinh tế thị trường. - Pháp luật quy định cơ chế xử lí các vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh tế và giải quyết các tranh chấp kinh tế Có thể nhận định rằng pháp luật vừa là công cụ quản lí quan trọng nhất của Nhà nước vừa là hành lang an toàn cho sự vận động của nền kinh tế thị trường 2. Nhà nước thực hiện chức năng quản lí đối với kinh tế Nhà nước * Phạm vi, vai trò của kinh tế nhà nước Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, ở các nước XHCN , các xí nghiệp quốc doanh chiếm tỉ trọng và số lượng lớn với phạm vi bao trùm lên hầu hết các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dâ. Việt Nam trong thời kỳ “cực thịnh” của kinh tế nhà nước cũng đã có hàng chục nghìn xí nghiệp quốc doanh. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước phải xác định rõ vai trò của kinh tế nhà nước cho phù hợp với các quy luật của nền kinh tế nhiều thành phần. Bởi vì, trong nền kinh tế thị trường tồn tại một cách khách quan sự phân công, phối hợp vai trò giữa các thành phần kinh tế trong tổng thể nền kinh tế quốc dân. Nội dung quản lý nhà nước với kinh tế nhà nước có thể được xác định khái quát trên mối quan hệ giữa Nhà nước với chủ thể kinh tế nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ giữa Nhà nước với chủ thể kinh tế nhà nước được thể trên hai phương diện cơ bản sau: Thứ nhất, với tu cách là người quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân gồm tất cả các chủ thể kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế, Nhà nước thực hiện sự quản lý với chủ thể kinh tế nhà nước theo chuẩn mực pháp luật chung về hoạt động kinh tế còn chủ thể kinh tế nhà nước hoạt động độc lập với Nhà nước, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ như mọi chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác. Nhà nước có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự chủ về tài chính, quyền chủ động trong các hoạt động của chủ thể kinh tế nhà nước còn chủ thể kinh tế nhà nước có nghĩa vụ tuân thủ nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Nhìn chung, ở khía cạnh này, quan hệ giữa Nhà nước và chủ thể kinh tế nhà nước cũng giống như quan hệ giữa Nhà nước với các loại chủ thể khác thuộc mọi thành phần kinh tế. Thứ hai, với tư cách là người đại diện cho sở hữu toàn dân thông qua hoạt động của chủ thể đầu tư vốn nhà nước thì vốn đó được chuyển giao cho các chủ thể kinh tế nhà nước nhưng tài sản của chủ thể kinh tế nhà nước lại được tách bạch khỏi khối tài sản của Nhà nước và thuộc quyền kinh doanh của các chủ thể đó. Nhà nước thành lập chủ thể kinh tế nhà nước nhưng chúng lại có tư cách chủ thế, độc lập về tài sản, hoạt động trên nguyên tắc bảo toàn và làm tăng giá trị tài sản của Nhà nước. Tài sản của chủ thể kinh tế nhà nước thuộc đối tượng sở hữu nhà nước nhưng người sử dụng (kinh doanh, khai thác dịch vụ) tài sản ấy lại là chủ thể kinh tế hoạt động độc lập với Nhà nước. Khi xem xét mối quan hệ giữa Nhà nước với chủ thể kinh tế nhà nước thì cần căn cứ vào tư cách pháp nhân của loại chủ thể này với tính cách là tổng hợp các dấu hiệu pháp lí thể hiện tập trung mối quan hệ giữa Nhà nước và chủ thể kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Nhà nước đầu tư vốn cho các chủ thể kinh tế nhà nước (thông qua các chủ thể đầu tư) không phải là kiểu “ban cho” như cấp trên giao cho cấp dưới trong quan hệ hành chính mà là quan hệ kinh tế bình đẳng thông qua hợp đồng, trong đó xác định đầy đủ lợi ích, nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi bên; Nhà nước không chịu trách nhiệm tài sản thay cho các chủ thể ấy dưới bất cứ hình thức nào. Trong nền kinh tế thị trường, thông qua quan hệ tài chính (đầu tư vốn), Nhà nước nắm được khâu then chốt, trọng yếu của nền kinh tế quốc dân qua đó đảm bảo tiềm lực kinh tế cho các chính sách và sự định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước; bảo đảm an ninh, quốc phòng và giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia. Khi xem xét mối quan hệ giữa Nhà nước với chủ thể kinh tế nhà nước thì cũng có vấn đề đặt ra là phân biệt giữa quản lý nhà nước về kinh tế và quản lý sản xuất kinh doanh cung ứng dịch vụ. Hoạt động quản lý của chủ thể kinh tế nhà nước là hoạt động quản lý trực tiếp (quản trị) gắn chặt với hoạt động tác nghiệp của các chủ thể ấy. Trong khi đó, hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước bao giờ cũng là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước. Nhà nước thực hiện quyền sở hữu tài sản thông qua hoạt động đầu tư vốn nhưng như thế cũng không có nghĩa cơ quan nhà nước là người đầu tư trực tiếp, kinh doanh trực tiếp kể cả trong lĩnh vực tài chính. Kinh nghiệm chuyển đổi chức năng kinh tế của nhà nước ở các nước cho thấy sự rõ ràng, rành mạch về quyền tài sản giữa Nhà nước và chủ thể kinh tế nhà nước cần được bảo đảm bằng thể chế quản lý tài sản nhà nước. Nội dung quản lý Nhà nước cũng cần có sự phân biệt với mỗi loại chủ thể kinh tế nhà nước như doanh nghiệp hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp hoạt động công ích; doanh nghiệp với các tổ chức hoạt động trong các lĩnh vực văn hoá, khoa học, y tế, giáo dục, thông tin… Trong điều kiện ở Việt Nam hiện nay, nền kinh tế thị trường đang trong quá trình hình thành, hơn lúc nào hết kinh tế nhà nước phải là lực lượng có đủ sức mạnh để dẫn dắt kinh tế nhà nước phải là lực lượng có đủ sức mạnh để dẫn dắt các thành phần kinh tế khác phát triển. Vì thế không thể coi nhẹ mặt noà trong mục tiêu tổng hợp về kinh tế - xã hội trong hoạt động của kinh tế tế nhà nước. Nhà nước không thể chỉ theo đuổi các mục tiêu xã hội bằng hoạt động của doanh nghiệp công ích và các tổ chức sự nghiệp mà không chú trọng kinh doanh trong các ngành nghề, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế. Chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay là tăng cường năng lực tài chính của Nhà nước để tập trung đầu tư cho loại hình doanh nghiệp, tổ chức kinh tế này vì đây là sứ mệnh đặc thù của Nhà nước mà không thành phần kinh tế nào có thể gánh vác thay được. Tuy vậy, Nhà nước cũng không thể lấy toàn bộ việc đầu tư vào các dịch vụ công cộng dẫn đến sự quá tải của Nhà nước mà hậu quả là không đảm bảo được các nhu cầu và lợi ích của xã hội. Ngày nay, Nhà nước phải thực hiện xã hội hoá từng bước việc việc cung ứng các sản phẩm dịch vụ công cộng, san sẻ gánh nặng của mình một cách linh hoạt bằng cách giao bớt cho tư nhân thực hiện các dịch vụ công cộng, san sẻ gánh nặng của mình một cách linh hoạt bằng cách giao bớt cho tư nhân thực hiện các dịch vụ công cộng thông qua hình thức pháp lí thích hợp. Nhìn chung có thể nhận thấy quan hệ tài sản giữa Nhà nước với chủ thể kinh tế nhà nước ở Việt Nam hiện nay còn đang trong quá trình chuyển đổi. tuy nhiên, vấn đề quản lí Nhà nước đối với chủ thể kinh tế nhà nước nói chung và đối với doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh sao cho có hiệu quả bao giờ cũng là vấn đề khó khăn, phức tạp cả về lí luận và thực tiễn bởi vì đồng thời phải đạt cả ba yếu cầu là hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và đảm bảo định hướng XHCN. * Phương thức quản lý nhà nước đối với kinh tế nhà nước Phương thức quản lý nhà nước đối với kinh tế nhà nước là tổng hợp các hình thức, phương thức quản lí của nhà nướ đối với các chủ thể kinh tế nhà nước. Phương thức quản lí nhà nước đối với chủ thể kinh tế này không tách biệt với phương pháp quản lí nhà nước về kinh tế nói chung. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phương thức tác động của Nhà nước vào các chủ thể kinh tế nhà nước đã được chuyển đổi căn bản so với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Hướng cải cách quan trọng về chế dộ quản lí tài sản nhà nước trong nền kinh tế thị trường là chuyển từ chế độ quản lí hiện vật là chủ yếu sang chế độ quản lý giá trị là chủ yếu. Do đó, phương thức quản lý nhà nước đối với kinh tế nhà nước lúc này cũng được chuyển từ phương thức quản lí mang tính chất trực tiếp sang phương thức quản lí có tính chất gián tiếp (quản lí vĩ mô) bằng các hình thức, biện pháp như pháp luật, kế hoạch, chính sách, các công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng; thông qua hoạt động đầu tư vốn nhà nước của các công ty tài chính… * Tính chất chung của bộ máy Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nếu quan niệm bộ máy Nhà nước là “vận tải” chức năng của Nhà nước thì chức năng của Nhà nước được “chuyển tải” thông qua hoạt động của toàn thể các bộ phận cấu thành nên nhà nước . Nhưng việc thực hiện chức năng kinh tế của bộ máy nhà nước lại được thể hiện khác nhau trong các mô hình kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, sự tồn tại và phát triển của các chủ thể kinh tế ngày càng đa dạng, phong phú nhưng tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước không phải tỉ lệ thuận về phạm vi và số lượng với chủ thể kinh tế mà theo nguyên tắc đa chức năng, đa lĩnh vực. Bộ máy nhà nước là hệ thống quản lí, điều hành trực tiếp nên cứ hễ nền kinh tế có bao nhiêu lớp đối tượng thì có bấy nhiêu hệ cơ quan quản lí chuyên ngành của Nhà nước được lập ra. Đây là đặc điểm đặc trưng và đương nhiên, trong mô hình kinh tế ấy, bộ máy nhà nước trở nên cồng kềnh, phức tạp với nhiều tầng nấc trung gian. Điều này cũng nói lên tính phức tạp của cơ chế tác động, quan hệ qua lại giữa Nhà nước và các quá trình kinh tế, trong đó cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động, phạm vi thẩm quyền của cơ quan, nhân viên nhà nước là sự biểu hiện đặc thù cho chức năng kinh tế của nhà nước. Sự thay đổi của nền kinh tế tất yếu kéo theo những thay đổi về vai trò, tính chất cơ cấu tổ chức và thẩm quyền của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. So với bộ máy Nhà nước trong nền kinh tê kế hoạch hoá tập trung thì tính chất chung của bộ máy nhà nước trong nền kinh tế thị trường đã chuyển đổi từ tính chất trực tiếp sang tính chất gián tiếp. Những quan hệ kinh tế trực tiếp dưới hình thái thể hiện vật trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây đã và đang nhường chỗ cho các quan hệ kinh tế gián tiếp dưới hình thái giá trị. * Nội dung thẩm định của các cơ quan nhà nước trong quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Vấn đề thẩm quyền của các cơ quan nhà nước trong quản lí nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có thể được xem xét từ những khía cạnh sau: a. Từ sự phân công và phối hợp thực hiện quyền lực nhà nước. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, Việt Nam đã tiến hành cải cách tổ chức hoạt động bộ máy nhà nước, xác định cơ cấu thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước theo yêu cầu của nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện mới. Bộ máy Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN được tổ chức và hoạt động trên cơ sở phân công chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và sự phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực thi quyền lực nhà nước, đảm bảo tính thống nhất của quyền lực nhà nước. Tổ chức và hoạt động của bộ máy đó đảm bảo tính nhân dân, tính dân chủ rộng rãi, kết hợp với việc đề cao trách nhiệm của mối cơ quan, cá nhân người lãnh đạo; đảm bảo tính chủ động, nhánh nhạy trong quản lí nhà nước, đáp ứng những đòi hỏi bức xúc trước mắt và lâu dài trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. b. Từ tổ chức bộ máy và thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước. Chuyển sang cơ chế thị trường, bộ máy hành chính quan liêu ấy không những không còn tác dụng mà lại ngăn trở sự phát triển của nền kinh tế vì nó tạo ra những rào cản vô lí cũng như các đặc quyền, đặc lợi và nguy cơ tham nhũng. Do vậy, cải cách mạnh mẽ hệ thống hành chính là yêu cầu khách quan của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Cải cách hành chính là vấn đề có nội dung sâu sắc và rộng lớn mà việc xác định nguyên tắc tổ chức và vi phạm thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước cho phù hợp với cơ chế kinh tế mới là nội dung cốt lõi. Trong đó, trước hết cần chú trọng nguyên tắc chuyên môn hoá nguyên tắc chủ đạo trong tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước. Nguyên tắc này thể hiện tập trung mối liên hệ hữu cơ giữa tổ chức bộ máy, thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước với các yêu cầu của nền kinh tế quốc dân. Nhìn chung, trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước thì mỗi cơ quan với thẩm quyền và nội dung hoạt động cụ thể đều đóng vai trò nhất định trong việc thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước đồng thời sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan ấy trên cơ sở thống nhất vai trò của Nhà nước tạo nên sức mạnh của hệ thống hành chính nhà nước, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả kinh tế - xã hội của hệ thống đó và của bộ máy Nhà nước nói chung. Từ những trong chuyển đổi trong nội dung quản lý nhà nước về kinh tế tất yếu dẫn đến những đổi mới về tổ chức bộ máy nhà nước phá bỏ các tầng nấc trung gian và bao nhiêu cản trở vô lí khác cho sự phát triển của nền kinh tế. Những năm qua, Việt Nam đã có sự phát triển của nền

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32293.doc
Tài liệu liên quan