Đề tài Cơ hội, thách thức và giải pháp đối với đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sau khi gia nhập WTO

Mục Lục

 

LỜI MỞ ĐẦU .1

CHƯƠNG I: ĐẶT VẤN ĐỀ CHUNG 3

1.Tiếp cận vấn đề nghiên cứu 3

1.1.Các khái niệm cơ bản 3

1.2.Tác động của đầu tư quốc tế. 3

1.2.1 Đối với nước chủ đầu tư. 3

1.2.2.Đối với nước tiếp nhận đầu tư 4

1.3. Đầu tư nước ngoài và đặc điểm đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. 5

1.3.1. Đầu tư gián tiếp. 5

1.3.1.1. Đặc điểm và hình thức của đầu tư gián tiếp. 5

1.3.1.2. Lợi thế và bất lợi của đầu tư gián tiếp nước ngoài. 6

1.4. Đầu tư trực tiếp nước ngoài 7

1.4.1.Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài 7

1.4.2.Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài . .7

1.4.3Lợi thế và bất lợi của đầu tư trực tiếp nước ngoài 8

1.5.Một số vấn đề chung về luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 9

1.6.Mục đích, phạm vi và phương pháp nghiên cứu. 10

CHƯƠNG II.CƠ HỘI VÀ THỰC TRẠNG CỦA VIỆT NAM VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI 11

2.1. Cỏ hội và thách thức đối với Việt Nam sau khi gia nhập WTO và tiếp nhận đầu tư nước ngoài 11

2.2. Thực trạng đầu tư nước ngoài. 14

2.3.Điểm sáng thu hút FDI tại Việt Nam – bài học kinh nghiệm. 17

CHƯƠNG III.GIẢI PHÁP VÀ CẢNH BÁO THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI. 20

3.1. Định hướng thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. 20

3.2.Giải pháp chung cho thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam 20

3.3 Cảnh báo đầu tư trong xu thế cảnh báo sớm kinh tế - yêu cầu cấp thiết trong xu thế toàn cầu hoá 24

3.2. Các biện pháp cụ thể, đồng bộ. 21

3.3.1. Lý thuyết cảnh báo sớm kinh tế. 25

3.3.1.1. Vai trò, mô hình cảnh báo của thế giới và thực trạng tại Việt Nam 25

3.3.2. Dự báo đầu tư nước ngoài vào Việt Nam năm 2009. 27

KẾT LUẬN 28

 

 

doc35 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3758 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cơ hội, thách thức và giải pháp đối với đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sau khi gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i xử bình đẳng. - Hệ thống chính sách minh bạch, ổn định đã giúp tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư trong nước và nước ngoài. Cải cách các chính sách liên quan đến đầu tư theo hướng giảm thiểu các rào cản trái với quy định của WTO, bãi bỏ sự phân biệt đối xử theo MFN và NT, các nhà đầu tư đã yên tâm hơn khi tiến hành đầu tư vào thị trường tiêu thụ rộng. Việt Nam đã nhận được nhiều sự hỗ trợ về tài chính, tín dụng và viện trợ không hoàn lại của các tổ chức và các chính phủ nước ngoài. Việc thực hiện những cam kết về mở của thị trường dịch vụ chắc chắn cũng đã kéo theo một làn sóng đầu tư nước ngoài vào nhiều ngành kinh tế dịch vụ. Đầu tư nước ngoài gia tăng đã đem lại những lợi ích cho nền kinh tế như: - Tạo động lực tăng trưởng sản xuất công nghiệp. - Tác động mạnh mẽ tới tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu. - Góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh năng động, sáng tạo.. - Giải quyết việc làm cho lao động trực tiếp và gián tiếp trong nhiều ngành kinh tế. - Góp phần chủ yếu vào việc chuyển giao công nghệ, đầu tư nghiên cứu và phát triển. - Tăng mức độ cạnh tranh trên thị trường, giúp các doanh nghiệp và các nhà quản lý doanh nghiệp trong nước học hỏi thêm về cách thức bố trí sản xuất, quản lý, tiếp thu công nghệ, kiểu dáng sản phẩm và cách thức tiếp thị, phục vụ khách hàng… - Tạo điều kiện cải cách chính sách, thể chế luật pháp: + Việt Nam hoàn thiện hệ thống pháp luật, hoàn thiện cơ chế thị trường, cải cách hành chính và cải cách doanh nghiệp trong nước, minh bạch hóa toàn bộ các chính sách liên quan đến thương mại và thông báo các kế hoạch hành động để tuân thủ các nguyên tắc của WTO; + Hệ thống pháp luật sẽ phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, cạnh tranh lành mạnh và khuyến khích thương mại, đầu tư cũng như hợp tác về các vấn đề khác với cộng đồng quốc tế; + Doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài đầu tư ở Việt Nam được đối xử công bằng khi tham gia vào thị trường của các nước thành viên WTO. - Tạo điều kiện thuận lợi trong việc giải quyết tranh chấp thương mại: + Có lợi thế hơn trong giải quyết tranh chấp thương mại, do tiếp cận được hệ thống giải quyết tranh chấp công bằng và hiệu quả của WTO, tránh tình trạng bị các nước lớn gây sức ép trong các tranh chấp thương mại quốc tế. + Tạo điều kiện để Việt Nam không bị đối xử như một nền kinh tế phi thị trường (NME) trong các vụ tranh chấp thương mại như trước kia. Bên cạnh đó, việc gia nhập WTO cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với Việt Nam: * Thách thức đối với Chính phủ - Phải sửa đổi và xây dựng cơ chế chính sách phù hợp với các quy định của WTO: Sửa đổi và xây dựng mới khối lượng lớn văn bản luật và pháp lệnh Khuôn khổ pháp luật về kinh tế thương mại cần được hoàn thiện để hoạt động hiệu quả hơn và phù hợp hơn với các quy định và chuẩn mực quốc tế. Nội luật hóa những vấn đề mới phát sinh trong thương mại quốc tế Bỏ các phương thức quản lý không phù hợp với WTO như những lệnh cấm, hạn chế định lượng, trợ cấp không đúng qui định. Xây dựng các chính sách mới phù hợp với quy định của WTO như AMS, hỗ trợ xuất khẩu trong xúc tiến thương mại, nâng cao chất lượng hàng hóa, hỗ trợ cước vận tải.v.v… - Nguồn thu ngân sách bị suy giảm: Việc cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ làm giảm đáng kể nguồn thu ngân sách trong giai đoạn đầu. - Vấn đề cán cân thanh toán: Thâm hụt cán cân thanh toán sau khi gia nhập WTO là vấn đề lo ngại của các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. - Giải quyết vấn đề phát sinh như đào tạo lại để giải quyết việc làm cho những người lao động mất việc… - Việc cải cách doanh nghiệp đòi hỏi đầu tư rất nhiều về vốn, kỹ thuật và cả yếu tố con người. - Nguồn nhân lực là một yếu tố quan trọng và bao trùm nhiều thách thức lớn trong tiến trình hội nhập. Các cán bộ Việt Nam thường hạn chế về kinh nghiệm, kiến thức kinh tế thị trường, ngoại ngữ và đặc biệt là kỹ năng đàm phán. - Vấn đề an sinh xã hội: Giải quyết việc làm cho người lao động dư thừa do cải tổ ngành sản xuất trong nước để phát triển, đặc biệt đảm bảo đời sống của người nông dân; * Thách thức đối với doanh nghiệp. - Mở cửa thị trường dẫn tới cạnh tranh gay gắt trong khi doanh nghiệp Việt Nam phần lớn vốn ít, công nghệ không cao, năng suất lao động thấp, khả năng cạnh tranh không cao. - Doanh nghiệp không được Nhà nước bao cấp vì phải bỏ những loại trợ cấp, hỗ trợ trái quy định của WTO; - Các doanh nghiệp chưa sẵn sàng tận dụng những cơ hội tiếp cận thị trường mới do hạn chế khả năng và kiến thức hiểu biết thị trường bạn. Các nước lại có xu hướng áp đặt nhiều biện pháp bảo hộ thông qua các biện pháp kỹ thuật, chống bán phá giá, trợ cấp, tự vệ, tiêu chuẩn môi trường…; - Cạnh tranh trên thị trường nội địa sẽ tăng khi các hàng rào thương mại được cắt giảm; - Những doanh nghiệp năng lực cạnh tranh kém có nguy cơ phá sản, hoặc giảm lợi nhuận vì tác động của giảm thuế mở cửa thị trường; - Doanh nghiệp Việt Nam thường vấp phải nhiều tranh chấp trong thương mại quốc tế và luôn ở thế yếu hơn. * Thách thức đối với người dân và xã hội - Giải quyết lao động dôi ra do cải cách bộ máy hành chính, cải tổ ngành công nghiệp, nông nghiệp, doanh nghiệp phá sản, bị đóng cửa do làm ăn thua lỗ; - Khoảng cách giàu nghèo và mất công bằng trong xã hội gia tăng trong quá trình phát triển kinh tế nếu như không có sự can thiệp hợp lý của Chính phủ. - Đòi hỏi về trình độ lao động, chuyên môn, ngoại ngữ, tác phong lao động công nghiệp đối với người lao động ngày càng cao hơn, đòi hỏi họ phải không ngừng học hỏi thêm. Tuy nhiên đầu tư vào Việt Nam, cơ hội nhiều hơn thách thức. Đầu tư nước ngoài trong năm 2008 ngoài sự gia tăng đột biến với hơn 1.059 dự án với trên 60 tỷ USD cam kết trong đó giải ngân được hơn 10 tỷ USD, đã có những chuyển biến đáng kể về chất của dòng vốn đầu tư vào Việt Nam, với sự góp mặt của các tập đoàn công nghiệp Compac, Foxconn trong thời gian đây.Quy mô vốn cam kết của các dự án tăng dần, như dự án Công ty gang thép Hưng Nghiệp Formosa của tập đoàn Formosa – Đài Loan đầu tư vào Hà Tĩnh đạt gần 7,9 tỷ USD và Liên doanh nhà máy lọc dầu ở Nghi Sơn, Thanh Hoá với 6,2 tỷ USD…. Sự phát triển mạnh mẽ của khu vực có vốn đàu tư nước ngoài là do tính hấp dẫn bền vững của môi trường đầu tư và những lợi thế đặc thù của Việt Nam ( một nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng GDP luôn ổn định và ở mức cao. Trong bối cảnh kinh tế thế giới đang suy giảm nhưng kinh tế Việt Nam vẫn là một điểm sáng của bức tranh kinh tế toàn cầu.Việt Nam tiếp tục khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tham gia và các lĩnh vực xây dựng hạ tâng giao thông, cảng biển, kết cấu hạ tầng đô thị, viễn thông …. nhằm tạo bước đột phá về cơ sở hạ tầng. Trên thực tế nhiều nhà đầu tư quốc tế rất lạc quan về môi trường đầu tại Việt Nam. Chủ tịch Phòng thương mại châu Âu tại Việt Nam Alain Cany phân tích, mặc dù áp lực tài chính tăng trên toàn cầu, nhưng Việt Nam vẫn cải thiện được các chỉ số phát triển trong quý III/2008 và từng bước giảm bớt áp lực khó khăn của kinh tế vĩ mô. Sự cải thiện rõ nhất mà nhà đầu tư nước ngoài nhận thấy ở Việt Nam sau thời điểm tháng 9/2008 là giá trị đồng Việt Nam ổn định, vốn đầu tư nước ngoài vẫn ồ ạt đổ vào Việt Nam, nguồn dự trữ ngoại tệ hơn 20 tỷ USD đã hỗ trợ đồng tiền Việt Nam và giúp cân bằng cán cân thanh toán. 2.2. Thực trạng đầu tư nước ngoài. Luỹ kế tình hình ĐTNN từ 1988 đến hết năm 2007 : Tính đến hết năm 2007, cả nước có 8.684 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 85,05 tỷ USD, vốn thực hiện (của các dự án còn hoạt động) đạt gần 30 tỷ USD. (Nếu tính cả các dự án đã hết hiệu lực thì tổng vốn thực hiện đạt hơn 43 tỷ USD ). Phân theo ngành: Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất chiếm 67% về số dự án và 60% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo là lĩnh vực dịch vụ chiếm 22,3% về số dự án và 34,3% (tăng từ mức 30,7% đến hết năm 2006) về số vốn đầu tư đăng ký. Số còn lại thuộc lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp .Phân theo hình thức đầu tư:- Hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm 77,6% về số dự án và 61,6% về tổng vốn đăng ký; Liên doanh chiếm 18,8% về số dự án và 28,8% về tổng vốn đăng ký. Số còn còn lại đầu tư theo hình thức Hợp doanh, BOT, công ty cổ phần và công ty quản lý vốn. Phân theo nước: Đã có 82 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, trong đó nước châu Mỹ chiếm 4% vốn đăng ký. Riêng 4 nền kinh tế đứng đầu trong đầu tư vào Việt các nước châu Á chiếm 66% tổng vốn đăng ký; các nước châu Âu chiếm 29% tổng vốn đăng ký; các Nam theo thứ tự: Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan và Nhật Bản đã chiếm 55% tổng vốn đăng ký. Phân theo địa phương: Các thành phố lớn, có điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi thuộc các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và phía Bắc vẫn là những địa phương dẫn đầu thu hút ĐTNN, trong đó 5 địa phương dẫn đầu theo thứ tự như sau: (1) TP. Hồ Chí Minh chiếm 27,6% về số dự án và 20% tổng vốn đăng ký; (2) Hà Nội chiếm 11,6% về số dự án; 14,9% tổng vốn đăng ký; (3) Đồng Nai chiếm 10,5% về số dự án; 13,7% tổng vốn đăng ký; (4) Bình Dương chiếm 18,2% về số dự án; 10,0% tổng vốn đăng ký; (5) Bà Rịa –Vũng Tàu chiếm 1,8% về số dự án; 7,2% tổng vốn đăng ký; Sau gần 2 năm gia nhập sân chơi lớn WTO, đã có những tác động nhiều mặt đến nền kinh tế Việt Nam, trong đó nhìn về tổng thể tác động ròng là tích cực với tốc độ tăng trưởng cao. GDP năm 2007 tăng 8,47% (trong khi đó GDP chỉ tăng 7% trong những năm 90 và 7,8% từ năm 2000- 2006). Sản xuất công nghiệp năm 2007 tăng 10,3%; dịch vụ tăng 7,15%, nông nghiệp tăng 3,84%. Đi đôi với việc tốc độ tăng trưởng cao là việc mở rộng sản xuất trong các ngành sử dụng nhiều lao động, phát triển các đô thị mới, các dự án đầu tư ở nhiều địa phương. Vốn FDI vào Việt Nam 11 tháng đầu năm 2008 vượt 60 tỷ USD: Trong 11 tháng đầu năm, lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký vào Việt Nam đạt gần trên 60 tỷ USD, phần nhiều từ các dự án công nghiệp quy mô lớn. Theo Cục đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính cả lượng cấp mới và tăng vốn tại các dự án đang hoạt động, nguồn vốn mà các doanh nghiệp nước ngoài đăng ký là 60,09 tỷ USD, trong đó các dự án mới chiếm 59 tỷ USD. Riêng trong tháng 11, lượng vốn FDI đăng ký đạt trên 781 triệu USD. Công nghiệp và xây dựng là những dự án thu hút nhiều vốn cấp mới nhất, 32,5 tỷ USD, trong đó công nghiệp nặng và dầu khí là những ngành chiếm lượng vốn lớn. Các ngành dịch vụ có lượng vốn đăng ký lớn thứ hai, với khoảng 26,2 tỷ USD. Nông - lâm - ngư nghiệp vẫn thu hút ít vốn hơn cả, với gần 250 triệu USD. Malaysia, với dự án khu liên hợp thép của tập đoàn Lion tại Ninh Thuận liên doanh với Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin) trị giá gần 9,8 tỷ USD, tiếp tục là đối tác đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam. Dự án này cũng vừa được khởi công tại Ninh Thuận. Đài Loan và Nhật là những đối tác FDI lớn tiếp theo của Việt Nam. Các địa phương thu hút nhiều vốn FDI tiếp tục là Ninh Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu và TP HCM. Dự kiến cả năm 2008, tổng vốn FDI ước đạt từ 65 tỉ USD – 67 tỉ USD. Trên lĩnh vực đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã tạo nên những bước phát triển nhảy vọt, nếu năm 2007 nguồn FDI đăng ký là 20,3 tỷ USD thì những tháng đầu năm 2008 đã lên đến 31,6 tỷ USD và dự báo cả năm là từ 65 đến 67 tỷ USD. Đóng góp của FDI vào GDP đạt 22% trong năm 2007 (trong khi đó năm 2006 là 17%). Nguồn FDI đầu tư vào các ngành sản xuất chiếm 70% vốn đăng ký trong giai đoạn 2001-2006. Từ năm 2007 nguồn FDI tăng mạnh trong lĩnh vực dịch vụ, bất động sản, công nghiệp nặng, nhiều dự án lớn và phân bổ rộng hơn. Từ những kết quả trên, FDI có vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế- xã hội. Từ những thành công trong thu hút đầu tư nước ngoài, thị trường xuất khẩu của Việt Nam đa dạng hơn, xuất khẩu năm 2007 tăng 22%, thì trong những tháng đầu năm 2008 tăng đến 31,8%. Điều quan trọng hơn là Việt Nam chuyển dần từ xuất khẩu nguyên liệu thô sang xuất khẩu các mặt hàng chế tác (tỷ trọng năm 2005 là 50,4%, năm 2007 là 52,4%). Về nhập khẩu tăng 39,6% trong năm 2007 và những tháng đầu năm 2008 tăng 60,3%. Trong đó, máy móc và nguyên liệu công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn; hàng tiêu dùng chiếm tỷ trọng thấp nhưng đang có xu hướng tăng (năm 1996- 2006 là 7,5% thì năm 2007 là 11,4%). Tuy nhiên, do mới bước vào sân chơi lớn, chúng ta vẫn gặp phải những tồn tại do chậm cải thiện môi trường kinh doanh, khoảng cách giữa luật và thực tế, giữa các tỉnh, thành phố còn lớn. Theo đánh giá của các nhà quản lý, mặc dù vốn ĐTNN trong 11 tháng qua tăng mạnh nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, đặc biệt là vốn thực hiện vẫn còn thấp so với vốn cam kết; còn có sự mất cân đối ngành nghề, vùng lãnh thổ, nhất là đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và chế biến nông sản còn ít. ĐTNN vẫn chủ yếu tập trung vào những vùng kinh tế trọng điểm; ngành công nghiệp phụ trợ chưa thu hút được nhiều vốn ĐTNN. Nguyên nhân do tình hình khó khăn chung của nền kinh tế VN từ đầu năm 2008 đến nay: Giá vật tư quan trọng cho sản xuất tăng cao, chỉ số giá tiêu dùng, tổng kim ngạch nhập khẩu và nhập siêu tăng cao, tổng dư nợ của nền kinh tế đều tăng cao hơn nhiều so với các năm trước, cùng với đó là thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh..., đặc biệt là phải chịu tác động không nhỏ do suy thoái kinh tế toàn cầu. Về nguyên nhân nội tại, đó kết cấu hạ tầng của Việt Nam quá kém, thủ tục hành chính rườm rà, nguồn nhân lực trình độ cao thiếu hụt trầm trọng không đáp ứng được yêu cầu của các làn sóng đầu tư… Sự ưu đãi đối với các tập đoàn kinh tế và doanh nghiệp nhà nước chưa phù hợp với cam kết WTO. Chậm tiến bộ về công khai minh bạch thông tin kinh tế (như thông tin về tín dụng, về hoạt động của SCIC, các tập đoàn kinh tế, các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán...). Những điểm còn chưa thuận lợi ở Việt nam: Chi phí kinh doanh còn cao là điểm bất lợi thứ nhất đối với các nhà đầu tư. Cước viễn thông, phí internet, phí cảng biển còn cao. Hệ thống cơ sở hạ tầng ở Việt nam nhìn chung đã được nâng cấp tuy nhiên chất lượng một số hàng hoá và dịch vụ công vẫn còn thấp. Tính ổn định thấp, tính hay thay đổi, cắt điện đột xuất đã gây ra những chi phí phụ thêm cho người sử dụng và cản trở nhà đầu tư chuyển giao công nghệ cao vào Việt nam. Lợi thế về giá nhân công thấp ngày càng giảm do tăng lương nhưng năng suất lao động tăng chậm đã dẫn dến chi phí lao động đang ngày một tăng lên. Khả năng dự báo của các chính sách thấp, không ít chính sách hay thay đổi mà không tham khảo ý kiến doanh nghiệp và đánh giá tác động của quy chế pháp luật. Lợi ích nhóm có ảnh hưởng đến một số quyết định chính sách. Nền kinh tế còn kém hiệu quả, chi phí cao, năng lực cạnh tranh hạn chế, nhiều vấn đề mới nảy sinh. Khi gia nhập WTO, nước ta có những cơ hội lớn trong phát triển kinh tế đối ngoại, phát triển kinh tế- xã hội, đẩy mạnh công cuộc đổi mới...nhưng cũng đối mặt với nhiều thách thức vì vậy chúng ta cần sớm khắc phục những điểm yếu, bất lợi của kinh tế đất nước như: tiềm lực kinh tế- tài chính mỏng. Cơ sở hạ tầng yếu kém. Cơ cấu kinh tế lạc hậu, phát triển dựa vào vốn và lao động giá rẻ. Cơ cấu công nghiệp; công nghệ lạc hậu, giá trị gia tăng thấp, thiếu công nghiệp phụ trợ, nhiều ngành kém cạnh tranh. Các ngành dịch vụ chưa phát triển tốt, tỷ trọng dịch vụ có giá trị gia tăng cao còn nhỏ. Khai thác cạn kiệt và hủy hoại nguồn tài nguyên. Lao động dư thừa, trình độ thấp, năng suất thấp, tính kỷ luật yếu. Cấu trúc thị trường không đồng bộ, bị chia cắt, môi trường kinh doanh chưa bình đẳng, kém cạnh tranh. Nhà nước “thừa” và “thiếu”, năng lực điều hành hạn chế, phối hợp chính sách kém hiệu quả. Khu vực doanh nghiệp (quốc doanh và tư nhân) yếu. Sự cạnh tranh yếu, chậm cải thiện 2.3.Điểm sáng thu hút FDI tại Việt Nam – bài học kinh nghiệm. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (KTTĐPN) được hình thành từ năm 1993 đến nay với 8 tỉnh, Thành phố: TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, Tây Ninh, Bình Phước, Long An và Tiền Giang với nhiệm vụ chủ yếu là giữ vai trò trung tâm phát triển kinh tế cả về công nghiệp, thương mại, dịch vụ …. nhằm đạt được sự tăng trưởng bền vững không chỉ cho bản thân vùng, khu vực lân cận mà còn của cả nước.Về lĩnh vực thu hút FDI, TP Hồ Chí Minh (TPHMC) và vùng KTTĐPN là nơi đi đầu và đạt được nhiều kết quả nhất so với cả nước. Trong thời kỳ 20 năm (1988 – 2007). Vùng KTTĐPN đã thu hút được 6.375 dự án với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 52,515 tỷ USD. Tính đến hết năm 2007 toàn vùng có 88 khu công nghiệp – khu chế xuất (KCN- KCX) chiếm 49,16% tổng số KCN –KCX trên cả nước; đã thu hút tổng vốn FDI là 22,461 tỷ USD chiếm tỷ trọng 73,50% so với cả nước và vốn đầu tư trong nước là 109.378 tỷ đồng chiếm 55,33% so với cả nước. Trong đó TPHCM giữ vai trò là đầu tàu, là hạt nhân phát triển cho cả vùng. Có được thành công trên đó là sự năng động, sáng tạo, chủ động nắm bắt thời cơ của các địa phương Vùng KTTĐPN, các địa phương đã hình thành nhiều mô hình kinh tế mới có sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài. Nổi bật là các mô hình Mô hình xây dựng khu chế xuất trên địa bàn TPHCM. KCN – KCX TP.HCM đã đưa ra hình mẫu về xây dựng hạ tầng cho phát triển công nghiệp, gắn kinh tế với xã hội trước hết là lao động và môi trường. Đến cuối năm 2007, sau 16 năm xây dựng và phát triển KCX Tân Thuận được đánh giá là đồng bộ và hoàn thiện nhất trên cả nước. Tính đến cuối năm 2007 KCX Tân Thuận được đánh giá là đồng bộ và hoàn thiện nhất trên cả nước. Năm 2007 KCX Tân Thuận đã thu hút được 129 dự án FDI, vốn đầu tư đăng ký 847 triệu USD trong đó có 107 dự án đã thực hiện sản xuất kinh doanh, vốn thực hiện là 577 triệu USD, giải quyết 59.762 lao động làm việc trực tiếp tại các doanh nghiệp. Tổng kim nghạch xuất khẩu hàng hoá hàng năm của KCX Tân Thuận gần 3 tỷ USD. Ngay trong 10 năm đầu tiên hoạt động KCX Tân Thuận đã xuất siêu được 500 triệu USD. KCX Tân Thuận được đánh giá là mô hình thành công không những ở Việt Nam mà còn được xếp vào hàng các KCX tốt nhất khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Mô hình khu đô thị mới – khu đô thị Nam TP.Hồ Chí Minh ( thường gọi là khu Nam Sài Gòn). Cho đến nay không ai là không thừa nhận khu đô thị Phú Mỹ Hưng là mô hình thành công nhất về xây dựng đô thị mới. Ngày 19/6/2008 Bộ Xây Dựng có quyết định công nhận Phú Mỹ Hưng là đô thị đâuf tiên kiểu mẫu đầu tiên tại Việt Nam. Đô thị của công trình hoa lệ đẹp như tranh vốn là khu đất thấp hoang vắng, sình lầy, ngập mặn. Mô hình phát triển khu đô thị gắn với KCN. TP. HCM là nơi khởi xướng mô hình mới này bằng dự án khu đô thị công nghiệp Tây Bắc Củ Chi. Mô hình kết hợp xây dựng khu đô thị, dân cư với KCN được đánh giá là nhân tố đảm bảo cho phát triển bền vững KCN, đồng thời tăng thêm nguồn thu cho chính quyền địa phưong do có thể khai thác đất và các lợi ích khác. Đến hết năm 2006 các tỉnh như Đồng Nai, Bình Dương đã có các mô hình triển khai tiếp theo như KCN Sóng Thần 3, KCN Kim Huy, KCN An Hoà, KCN Phú Gia và KCN Đại Năng. Ông Min Yuong, Tổng lãnh sự Hàn Quốc tại TP. HCM đã phát biểu:” Khu liên hợp công nghiệp dịch vụ đô thị Bình Dương thực sự là hình mẫu về sự phát triển của một đô thị công nghiệp hiện đại đạt tiêu chuẩn quốc tế”. Mô hình hợp tác giữa TP. HCM với các địa phương. Đến năm 2007, TP. HCM đã hợp tác với trên 30 tỉnh, thành phố trong đó TP.HCM chuyển giao một số nghành mà các tỉnh khác cần thu hút đầu tư. Trong quá trình thu hút đầu tư FDI, các địa phương vùng KTTĐPN đã đưa ra nhiều chủ trương mà hiệu quả của nó góp phần đáng kể trong việc tăng cường thu hút FDI cho địa phương mình có thể kể đến như phương châm ‘ biến người có đất thành chủ đầu tư”, “ biến nông dân thành cổ đông”…. để có thể giải quyết nhanh chóng các khó khăn về vốn, đất, giải phóng mặt bằng, tái định cư di chuyển…. Vùng KTTĐPN ngoài việc phát triển các ngành công nghiệp nhẹ tạo điều kiện cho nhiều lao động, còn phát triển nhiều nghành công nghiệp mũi nhọn và cơ bản như khai thác, chế biến, dầu khí, luyện thép, phân bón, vật liệu mới để làm nền tảng thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hóa, là động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế của vùng và cả nước. Để phát huy vai trò đối với cả nước, vùng đang nỗ lực thực hiện tốt các mục tiêu được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt: GDP của vùng năm 2010 đạt ít nhất gấp 2,5 lần so với năm 2000 và năm 2020 đạt ước ít nhất gấp 2,3 - 2,5 lần so với năm 2010; giá trị xuất khẩu tăng gấp hơn 2 lần mức tăng GDP; mức thu ngân sách tăng từ 16 – 18% /năm; tỷ lệ lao động không có việc làm dưới mức 5%; tốc độ đổi mới công nghệ phấn đấu bình quân mỗi năm 20 -25%, tỷ lệ lao động qua đào tạo trên 50% vào năm 2010 và trên 70% vào năm 2020. ( thông tin về KTTĐPN đang được cập nhật theo báo Thời báo Ngân Hàng các số 155 ra ngày 25/12/2008 và số 157 ra ngày 30/12/2008 và số 159 ra thứ 7 ngày 3/1/2009 do đó sẽ chưa thật đầy đủ ) CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP VÀ CẢNH BÁO THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI. 3.1. Định hướng thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Theo đó, hệ thống luật pháp và cơ chế chính sách phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế sẽ được tập trung hoàn thiện. Cải cách hành chính theo cơ chế "một cửa" trong việc giải quyết thủ tục đầu tư cũng sẽ được tiến hành mạnh mẽ, nhằm triển khai đề án thúc đẩy giải ngân vốn ĐTNN; tập trung các nguồn lực để đầu tư nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông, cảng biển... chú trọng công tác đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp ĐTNN nói riêng. Bộ cũng tập trung điều chỉnh các quy hoạch ngành theo hướng phù hợp với những thỏa thuận và cam kết quốc tế, trong đó chú trọng chất lượng công tác dự báo, tính khả thi và định hướng cho nhà đầu tư… Thực hiện tốt công tác tham mưu trong việc duy trì cơ chế đối thoại thường xuyên giữa lãnh đạo Chính phủ, các bộ, địa phương với cộng đồng nhà đầu tư, từ đó kịp thời giải quyết những khó khăn nảy sinh... nhằm đưa hoạt động này vào thực chất, nhanh chóng đưa từng đồng vốn vào sản xuất - kinh doanh, tạo ra sản phẩm xã hội. 3.1.1. Giải pháp chung cho thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam Thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm tới mục tiêu đầu tư phát triển xã hội của Việt Nam là: tăng nhanh vốn đầu tư phát triển kinh tế, xã hội; xây dựng cơ cấu kinh tế có hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh. Hoàn chỉnh một cách cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng. Tạo điều kiện đầu tư thích đáng cho các vùng kinh tế trọng điểm; hỗ trợ đầu tư nhiều hơn cho các vùng còn khó khăn. Trong đó, định hướng sử dụng nguồn vốn ODA: tiếp tục tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng tài trợ nhằm hỗ trợ cho phát triển kinh tế - xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực và tạo tiền đề cho sự phát triển nhanh, bền vững. Để thực hiện mục tiêu trên , Việt Nam cần thực hiện tốt các biện pháp chủ yếu sau: Đảm bảo sự ổn định vĩ mô nền kinh tế, phát huy lợi thế, tạo thế và lực trong xu thế hội nhập quốc tế. Chủ động hội nhập, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ kinh tế quốc tế. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp theo hướng đầy đủ hơn, đồng bộ hơn, nhất quán hơn và minh bạch hơn. Cải cách cơ chế quản lý theo hướng đơn giản, gọn nhẹ, tránh lãng phí ngân sách Nhà nước và không sách nhiễu, tạo thuận lợi nhất, thông thoáng nhất cho các hoạt động kinh tế. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế phát huy sức mạnh, đầu tư sản xuất kinh doanh. Đổi mới và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trong đó có đội ngũ cán bộ hoạt động trên lĩnh vực hợp tác và đầu tư quốc tế. Thực hiện tốt công tác quy hoạch tổng thể về đầu tư, công tác này phải kết hợp chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của đất nước; công tác đền bù giải phóng mặt bằng, tái định cư, giải quyết việc làm phải được chú trọng giải quyết kịp thời, thoả đáng hạn chế các tiêu cực phát sinh. Tiến hành cổ phần hóa mạnh mẽ các doanh nghiệp Nhà nước, nhất là những doanh nghiệp thua lỗ Tập trung vào những dự án sản xuất chế tạo, định hướng xuất khẩu và sử dụng nhiều nhân công (như điện tử, máy tính, thông tin liên lạc). Đây là những ngành mà Việt nam có thể phát huy được lợi thế tương đối. Tăng cường xã hội hóa một số ngành sản xuất, dịch vụ, chú ý hơn nữa phát triển khu vực tư nhân, cho phép các doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước đóng vai trò lớn hơn theo khả năng của họ trong nền kinh tế cộng đồng. Cải thiện hệ thống ngân hàng và hệ thống pháp lý về ngân hàng. Xóa bỏ độc quyền đối với điều kiện xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp nhà nước mà dần tiến hành cơ chế cạnh tranh, doanh nghiệp chứng minh được bằng khả năng thực tế - cụ thể trong thị trường, tuân thủ pháp luật, đều có cơ hội ngang nhau 3.2. Các biện pháp cụ thể, đồng bộ. Giải pháp 1: Cần phải đẩy nhanh tiến độ đền bù giải phóng mặt bằng, giao đất cho nhà đầu tư đúng tiến độ và có những chính sách hỗ trợ nhà đầu tư. Những bất cập này chủ yếu liên quan đến chính sách dân sinh và an sinh xã hội, công tác tái định cư cho người dân tại các địa phương có vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn rất lúng túng. Giải pháp 2: Cần ổn định nền kinh tế vĩ mô, đảm bảo tăng trưởng và phát triển vì hiện nay Việt Nam đang đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22678.doc
Tài liệu liên quan