Đề tài Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập WTO

Mục Lục

LỜI NÓI ĐẦU 1

CHƯƠNG I 2

THƯƠNG MẠI HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY 2

I. Thương mại hàng hóa VIỆT NAM những năm đổi mới 2

II. Thương mại dệt may trên địa thị trường thế giới 5

III. Thương mại dệt may VIỆT NAM 8

1. Một vài đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam. 8

2. Thương mại hàng dệt may ở Việt Nam những năm gần đây. 10

3. Tác động của việc bãi bỏ chế độ hạn ngạch đến ngành dệt may. 13

CHƯƠNG II 15

CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI THƯƠNG MẠI HÀNG DỆT MAY NƯỚC TA TRONG HỘI NHẬP WTO. 15

I. Những nét cơ bản về tổ chức thương mại thế giới WTO.

II. Cam kết về hàng dệt may của VIỆT NAM với WTO. 17

III . Cơ hội đối với thương mại hàng dệt may nước ta trong hội nhập 19

WTO. 19

IV. Thách thức đối vơi thương mại hàng dệt may nước ta trong hội nhập WTO. 21

CHƯƠNG III 29

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ TẬN DỤNG CÁC CƠ HỘI VÀ KHẮC PHỤC NHỮNG THÁCH THỨC. 29

I. Mục tiêu , phương hướng phát triển của thương mại hàng 29

dệt may Việt Nam. 29

1. Mục tiêu. 29

2. Phương hướng . 31

II. Giải pháp cho thương mại hàng dệt may Việt Nam. 33

III. Tạo lập điều kiện cần thiết để thực hiện những giải pháp. 39

1. Điều kiện vĩ mô. 39

2. Điều kiện vi mô. 41

Tài Liệu Tham Khảo. 43

 

doc45 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2808 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cơ hội và thách thức đối với thương mại hàng dệt may trong hội nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p dệt may với cơ cấu cân đối cả Dệt - May - Các ngành phụ trợ thì sẽ có nhiều lợi thế vì có thể đáp ứng các đơn hàng chủ động hơn, nhanh hơn. - Thứ hai, cùng với xu thế tự do hoá thương mại, sản xuất không còn bó hẹp trong phạm vi một quốc gia, địa phương nữa, việc lựa chọn địa điểm sản xuất ở đâu cần phải được xem xét cẩn thận hơn rất nhiều. Các nhà sản xuất sẽ phải đối mặt với các quyết định về nguồn cung ứng đó là nên tự sản xuất hay mua ngoài nguyên liệu, phụ liệu cho sản xuất. Xu hướng chung của các quốc gia là sẽ sản xuất những mặt hàng nào có hiệu quả (lợi thế) hơn và nhập khẩu những mặt hàng nào mà việc sản xuất ở trong nước kém hiệu quả. Từ đó đặt ra vấn đề trong công tác tổ chức sản xuất là các doanh nghiệp nên hợp nhất theo chiều dọc việc sản xuất nguyên phụ liệu hay nên mua chúng từ những nhà cung ứng độc lập và cơ cấu sản xuất của ngành sẽ cần phải hoàn thiện theo chiến lược sản xuất ấy. - Thứ ba, khi chế độ hạn ngạch bị bãi bỏ, các khách hàng sẽ không chia lẻ đơn hàng cho các nhà sản xuất nhỏ như trước nữa mà tìm đến với những doanh nghiệp lớn có qui mô từ 1000 lao động trở lên và có uy tín để đặt những đơn hàng lớn. Trong xu thế ấy, chỉ những doanh nghiệp nào có quan hệ bạn hàng tốt, hệ thống phân phối tốt, biết liên kết để nâng cao sức cạnh tranh và uy tín trong quan hệ bạn hàng thì sẽ thắng còn những doanh nghiệp nhỏ lẻ, đơn độc sẽ khó tồn tại được. - Thứ tư, khi xoá bỏ hạn ngạch, sức ép về cạnh tranh sẽ ngày càng gia tăng, yêu cầu của khách hàng cũng khắt khe hơn. Do đó muốn đứng vững trong cạnh tranh thì tổ chức sản xuất phải trên cơ sở đáp ứng yêu cầu của các tiêu chuẩn quốc tế, phải hoà nhập vào hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000, quản lý môi trường ISO 14000 và hệ thống trách nhiệm xã hội SA 8000. CHƯƠNG II CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI THƯƠNG MẠI HÀNG DỆT MAY NƯỚC TA TRONG HỘI NHẬP WTO. Những nét cơ bản về tổ chức thương mại thế giới WTO. Lúc 17 giờ ngày 7.11.2006, tại Geneva Thụy Sĩ, chủ tịch đại hội đồng thế giới (WTO) Erik Glenne đã gõ búa chíng thức thông qua bộ hố sơ gia nhập WTO của Việt Nam. Hai tiếng đồng hồ sau đó, Bộ trưởng thương mại Trương Đình Tuyển và tổng giám đốc WTO Pascal Lamy đã ký vào Nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam . Chiều ngày 8/11/2006 với 444 phiếu tán thành, đạt tỷ lệ 90,24% tổng số đại biểu, Quốc Hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).Việt Nam được kết nạp trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới sau 11 năm đàm phán gian khổ và nhiều cam go, Việt Nam tiếp tục tiến bước trên con đường hội nhập và phát triển . Tổ chức Thương mại thế giới có trụ sở chính tại Giơnevơ Thụy Sĩ. Ngân sách của tổ chức là 169 triệu frans thụy Sĩ và có 600 nhân viên. Giám đốc là ông Pascal Lamy. Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO ) được thành lập sau vòng Đàm phán Uruguay (1986-1994), và tất cả những gì tổ chức này làm được đều thông qua con đường đàm phán . Nói một cách đơn giản, WTO là nơi đề ra những quy tắc thương mại giữa các quốc gia trên quy mô thế giới hoặc gần như toàn thế giới. Có nhiều cách nhìn nhận về tổ chức thương mại thế giới. Nó là tổ chức để tự do hóa thương mại , là diễn đàn để các chính phủ đàm phán các hiệp định thương mại , là nơi để họ giải quyết các tranh chấp thương mại. Nó điều hành hệ thống các quy tắc thương mại . Trước tiên, WTO là một khuôn khổ để đàm phán …WTO là diễn đàn, nơi các quốc gia thành viên thương lượng giải quyết những tranh chấp phát sinh trong quan hệ thương mại giữa họ. Các hoạt động mà WTO đang xúc tiến hiện nay chủ yếu xuất phát từ những cuộc đàm phán diễn ra từ năm 1986 đến 1994, mang tên vòng đàm phán Uruguay, và từ những cuộc đàm phán trước đó trong khuôn khổ Hiệp định chung về thuế quan và Thương Mại (GATT) . Đối với những nước mà phải đối mặt với những rào cản trong thương mại và muốn hạ thấp những rào cản này, thì đàm phán giúp thúc đẩy tự do hóa thương mại. WTO không chỉ tập trung vào mục tiêu tự do hóa thương mại, trong một số trường hợp, WTO còn đề ra những quy định ủng hộ duy trì rào cản thương mại, ví dụ như trong trường hợp chống sự lây lan của dịch bệnh hay bảo vệ người tiêu dùng. Nòng cốt của tổ chức là các hiệp định WTO được phần lớn các quốc gia thương mại tham gia đàm phán và kí kết. Những văn bản này trở thành quy tắc quy tắc pháp lý nền tảng của thương mại quốc tế và các quy tắc này, quy định này phải “minh bạch ” . Những quy tắc của hệ thông thương mại phải đảm bảo : Không phân biệt đối xử : không một nước nào được phân biệt đối xử giữa các đối tác thương mại của mình ( nghĩa là phải dành cho họ một cách công bằng quy chế “ đối xử tối huệ quốc ” hay còn gọi là quy chế MFN ), cũng như không được phân biệt đối xử giữa hàng hóa và dịch vụ ngoài nước ngoài. Dành ưu đãi cho các nước kém phát triển. Cho họ một thời gian dài và linh động hơn , cùng một số đặc quyền thương mại . Tự do hóa hơn trong thương mại, xóa bỏ rào cản thông qua con đường đàm phán . Cạnh tranh hơn : hạn chế những biện pháp thương mại không lành mạnh như trợ cấp xuất khẩu , bán phá giá . Dự đoán trứơc được phải đảm bảo cho các công ty, các nhà đầu tư và chính phủ nước ngoài rằng sẽ không áp dụng một cách tùy tiện các rào cản thương mại , mức thuế quan và các cam kết mở cửa thị trường được “ràng buộc” tại WTO. II. Cam kết về hàng dệt may của VIỆT NAM với WTO. Xét về chính sách kinh tế vĩ mô, theo Bộ trưởng Trương Đình Tuyển: đa số các cam kết đa phương trong đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) là phù hợp với luật pháp và đường lối đổi mới của Việt Nam nên sẽ không gây ra biến động lớn. Bộ văn kiện gia nhập WTO của Việt Nam, được Ban công tác phê chuẩn vào ngày 26/10/2006 (trước khi Đại hội đồng chính thức bỏ phiếu thông qua việc kết nạp chính thức Việt Nam vào 7/11). Theo bô trưởng Trương Đình Tuyển : “Gia nhập WTO là gửi ra bên ngoài một tín hiệu mạnh về quyết tâm đổi mới của ta. Đầu tư trong nước và nước ngoài nhiều khả năng sẽ tăng lên và tăng nhanh, qua đó tạo ra năng lực sản xuất và năng lực xuất khẩu mới. Đây là cơ hội rõ nhất mà việc gia nhập WTO tạo ra và được nhiều tổ chức quốc tế cũng như giới doanh nghiệp thừa nhận ”. Việt Nam đồng ý tuân thủ toàn bộ các hiệp định và các quy định mang tính ràng buộc của WTO từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, do là nước đang phát triển ở trình độ thấp, lại đang trong quá trình chuyển đổi nên Việt Nam đã yêu cầu và WTO đã chấp nhận hưởng một thời gian chuyển đổi để thực hiện một số cam kết có liên quan đến thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), trợ cấp cho phi nông nghiệp, quyền kinh doanh, v.v. Cam kết của VIỆT NAM với WTO đối với Dệt may: các thành viên WTO sẽ không được áp dụng hạn ngạch dệt may đối với Việt Nam khi vào WTO. Riêng trường hợp vi phạm quy định WTO về trợ cấp bị cấm đối với hàng dệt may thì một số nước có thể có biện pháp trả đũa nhất định. Ngoài ra thành viên WTO cũng sẽ không được áp dụng tự vệ đặc biệt đối với hàng dệt may của Việt Nam.Cam kết cắt giảm thúê nhập khẩu trong đàm phán WTO cúa hàng dệt may: thuế suất MFN là 37,3% ; thuế xuất khi gia nhập 13,7%; thuế suất cuối cùng 13,7%; thời gian thực hiện là ngay sau khi gia nhập (thực tế đã thực hiện theo hiệp định dệt may với Mỹ và EU) . Trong quá khứ, các nước tiến hành các biện pháp nhập khẩu tràn lan. Từ năm 1974 cho đến trước vòng Uruguay, thương mại hàng dệt may được điều chỉnh bởi hiệp định Đa sợi (MFA). Theo hiệp định này, các nước (chủ yếu là các nước phát triển) có quyền thiết lập hạn ngạch hạn chế số lượng hàng nhập khẩu. Việc áp dụng hạn ngạch đối với hàng dệt may là trái với các nguyên tắc cơ bản của WTO. Chính vì vậy, tại vòng đàm phán Uruguay, các nước đang phát triển đã đấu tranh giành thắng lợi trong việc thiết lập Hiệp định Dệt may(ATC) dẫn tới loại bỏ hạn ngạch cũng như tất cả các biện pháp hạn chế nhập khẩu đối với hàng dệt may. Hiệp định ATC quy định rõ lịch trình loại bỏ hạn ngạch và hạn chế số lượng theo 4 giai đoạn cụ thể, bắt đầu vào năm 1995 và hoàn thành vào 31/12/2004. Để đảm bảo ATC được các nước thực hiện một cách nghiêm túc, WTO thiết lập hẳn một cơ quan giám sát hàng dệt. III . Cơ hội đối với thương mại hàng dệt may nước ta trong hội nhập WTO. Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Dệt may Việt Nam, ông Lê Quốc Ân, khẳng định sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, ngành dệt may sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển. Cái được đầu tiên khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO là ngành dệt may sẽ không bị áp dụng chế độ hạn ngạch đối với thị trường Mỹ. Ngành cũng sẽ được đối xử bình đẳng ở nhiều thị trường. Hạ tầng cơ sở và cả nguồn nhân lực cũng sẽ được cải thiện bởi dòng đầu tư sẽ đổ vào Việt Nam mạnh hơn, trong đó có dệt may. Ngay năm 2007, khi đã là thành viên của WTO ngành dệt may có cơ hội tiếp cận một cách bình đẳng tại các thị trường thế giới. Hơn nữa xu hướng đầu tư chuyển dịch từ các nước công nghiệp mới như Nhật Bản , Hàn Quốc …sang những quốc gia phát triển, như Việt Nam sẽ mạnh mẽ lên khi Việt Nam là thành viên của WTO, khiến ngành dệt may có điều kiện phát triển hơn. Đầu tư nước ngoài vào dệt may tăng lên đáng kể, đặc biệt là đầu tư vào lĩnh vực hạ tầng của ngành . Gia nhập WTO sẽ là cơ hội cho các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu khi không bị áp hạn ngạch. Giá cả, chất lượng sản phẩm và thời gian giao hàng của các doanh nghiệp sẽ được bình đẳng với các nước và ngành Dệt may Việt Nam có điều kiện huy động tối đa năng lực thiết bị và tay nghề hiện có. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã có uy tín trên thị trường quốc tế, được khách hàng trong và ngoài nước biết đến như Việt Tiến, Nhà Bè, Phương Đông, May Sài Gòn 3, May Sài Gòn 2, Dệt Phong Phú, Dệt Thành Công, Dệt may Hà Nội, May Scavi, May An Phước, May 10, May 28… sẽ có cơ hội tiếp nhận các đơn hàng lớn. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam làm ăn, góp phần tạo nên sự tăng trưởng mạnh về kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may. Ngành Dệt May có đủ sức cạnh tranh và phát triển nếu trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, không cần ưu đãi. Với những điều kiện đó thì chắc chắn ngành Dệt May sẽ có 3 cái lợi là xuất khẩu không bị khống chế quota; một số thị trường đang đối xử phân biệt về thuế, sẽ đưa thuế nhập khẩu xuống bình thường; được hưởng những lợi ích từ môi trường đầu tư. Nhưng xét cho cùng thì nguy cơ cạnh tranh trong một sân chơi không bình đẳng của doanh nghiệp dệt may thời hội nhập là có thật. Bởi hàng rào bảo vệ thị trường nội địa bằng thuế thu nhập sẽ giảm xuống tới mức tối đa (thuế nhập khẩu hiện hành 40% với vải và 50% với hàng may mặc, hàng rào này sẽ được giảm còn bình quân khoảng 15%). Bên cạnh đó, các rào cản của nước ngoài sẽ được dựng lên, như các vấn đề về môi trường, chống bán phá giá… Ông Diệp Thành Kiệt, Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt May Thêu-Đan TP.HCM cũng nhận định: “Những doanh nghiệp xuất khẩu sẽ có những cơ hội rất lớn. Tức là họ có thể xuất hàng ra tất cả các thị trường trên thế giới. Ngược lại, tiến đến thương mại tự do theo đúng nghĩa, thì rõ ràng bây giờ họ cũng có những thách thức. Các nước nhập khẩu chỉ chấp nhận những doanh nghiệp nào, quốc gia nào xuất hàng sang họ với một giá bán hợp lý, kiểu dáng, mẫu mã phong phú. Đó là thách thức lớn nhất đối với chúng ta”. Kết thúc tháng 4/2007, kim ngạch xuất khẩu dệt may đạt 600 triệu USD, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sau bốn tháng đầu năm đầu tiên khi chúng ta gia nhập WTO lên 2,19 tỷ USD. Như vậy, dệt may vẫn là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao và ổn định nhất từ đầu năm đến nay, trung bình đạt trên 550 triệu USD/ tháng. IV. Thách thức đối vơi thương mại hàng dệt may nước ta trong hội nhập WTO. Thứ nhất, khó khăn đối với ngành dệt may Việt Nam đang phải gặp phải đó chính là sự thiếu năng động và xông xáo trong việc tìm kiếm khách hàng và thị trường. Theo các chuyên gia CBI (tổ chức xúc tiến nhập khẩu từ các nước đang phát triển của chính phủ Hà Lan ), hạn chế lớn nhất của các doanh nghiệp Việt Nam là chưa tiếp xúc trực tiếp với với khách hàng mà phải qua trung gian.Điều này là do đa số doanh nghiệp Việt Nam vẫn giữ kiểu làm ăn “truyền thống ”, tức chỉ làm gia công hteo đơn đặt hàng từ nước thứ 3, chứ không tự mình tìm tới khách hàng để giành đơn hàng .Điều này sẽ gây bất lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam vì sẽ bị thua cuộc trước những đối thủ cạnh tranh đầy năng động và xông xáo .Vì khi gia nhập WTO chúng ta buộc phải cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp nước ngoài . Thứ hai, thách thức tiếp theo với các doanh nghiệp Việt Nam là yếu kém trong việc xây dựng thương hiệu, quảng bá thương hiệu, thậm chí các doanh nghiệp không cần cả thương hiệu, chỉ cốt bán được hàng .Hậu quả là tuy chung ta xuất khẩu đạt kim ngạch cao nhưng có ít người biết đến thương hiệu của doanh nghiệp Việt Nam. Thứ ba, hàng rào bảo hộ tại thị trường nội địa sẽ không còn. Toàn bộ thuế nhập khẩu hiện nay (đối với sản phẩm may mặc là 50%, sản phẩm sợi là 20% và sản phẩm vải là 40%) sẽ phải giảm xuống mức thấp, khoảng từ 10-15%, là mức chung của các thành viên WTO. Như vậy, sản phẩm dệt may Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với hàng dệt may nhập khẩu ngay tại thị trường nội địa Thứ tư, khó khăn lớn đối với ngành dệt may hiện nay là để mất thị trường Mỹ. Để Quốc hội Mỹ chấp thuận thông qua việc áp dụng Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn đối với Việt Nam (PNTR), Chính phủ Mỹ đã cam kết sẽ áp dụng chế độ theo dõi đặc biệt đối với ngành dệt may Việt Nam và áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Có năm mặt hàng là “sơ mi, quần dài, đồ bơi, đồ ngủ, áo len ” đã năm trong “tầm ngắm ”. Phía Hoa Kỳ sẽ định kỳ thống kê 6 tháng một lần để làm cơ sổ điều tra, đó là một thực tế khó khăn cho ngành dệt may Việt Nam.Nếu có những tình huống khẩn cấp xảy ra thì có thể cho phép áp dụng mức thuế sơ bộ có tính hồi tố và một khi việc bán phá giá xảy ra thì Bộ thương mại Mỹ sẽ tự tiến hành điều tra chống bán phá giá đối với các sản phẩm liên quan . Mặc dù chúng ta cho rằng, đây là việc làm không phù hợp với quy định của WTO song đó là thực tế mà chúng ta khó tránh khỏi. - Có thể liệt kê ra rất nhiều công ty đang sản xuất hàng may mặc tại Việt Nam (trong đó có cả các công ty trong nước và đầu tư nước ngoài) bị đóng cửa hoặc sản xuất cầm chừng vì các nhà nhập khẩu lo ngại cơ chế chống bán phá giá sẽ gây rủi ro cho việc kinh doanh của họ. Cụ thể hiện nay, Công ty Việt - Mỹ và Công ty Đại Hoàng Gia tại các khu công nghiệp thuộc tỉnh Quảng Ngãi, một tỉnh nghèo tại miền trung Việt Nam - đang phải đóng cửa vì không còn đơn hàng. Điều đáng lo ngại là vì cơ chế này nên hiện nay các đơn hàng cho quý III và quý IV phía Mỹ đang rất dè dặt và chưa đặt hàng. Bên cạnh đó các nhà nhập khẩu như Nike, Adidas.. còn giảm các đơn hàng đã có kế hoạch đặt trước. - Việc giám sát này đang gây nên những thiệt hại to lớn chẳng những cho các nhà sản xuất Việt Nam, hàng triệu lao động Việt Nam mà còn gây thiệt thòi cho các nhà nhập khẩu và ngành công nghiệp bán lẻ của Mỹ với trên 15 triệu lao động. Hầu hết các nhà nhập khẩu Mỹ đã ngừng hoặc giảm đáng kể đơn đặt hàng cho 6 tháng cuối năm vì e ngại tính rủi ro của cơ chế giám sát. - Trước thực trạng trên, theo giới chuyên gia kinh tế cho rằng , nếu Mỹ áp dụng biện pháp chống bán phá giá với hàng dệt may Việt Nam thì tình hình còn tồi tệ hơn chính sách hạn ngạch . Bởi trước khi áp dụng chính sách hạn ngạch , bên cạnh mặt tiêu cực làm hạn chế xuất khẩu đối với hàng dệt may Việt Nam còn có mặt tích cực là làm giảm thiểu tối đa khả năng bị áp dụng các rào cản thương mại – trong đó có chống bán phá giá vì sản xuất nội địa của nước nhập khẩu bị giới hạn bởi một lượng quota nhất định. Nay khi cơ chế này mất đi, sẽ có ảnh hưởng tất yếu theo chiều hướng ngược lại .Cứ theo quy chế này thì bất cứ lúc nào phía Mỹ cũng có thể áp mức thuế cao để ngăn chặn hàng dệt may Việt Nam .Như vậy các doanh nghiệp luôn ở trạng thái bất an.Thực tế một số nhà nhập khẩu Mỹ đang muốn chuyển đơn hàng sang nước khác. Điều này là đáng lo ngại do 70% hàng dệt may VN là xuất khẩu sang Mỹ . - Tất cả các nhà nhập khẩu Mỹ cho rằng việc áp dụng biện pháp này sẽ gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của họ, bởi họ không thể lường trước được khi nào sẽ bị tăng thuế. Điều này đồng nghĩa với việc nhiều nhà nhập khẩu Mỹ sẽ quay lưng lại với hàng dệt may Việt Nam và Theo ông Ân, nhiều nhà nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam ở Mỹ đang chuyển hướng đầu tư và đơn hàng sang các nước khác. "Theo dự báo trước đây, kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may sẽ tăng 15-20%/năm, nhưng nếu Mỹ áp dụng chế độ theo dõi đặc biệt đối với ngành dệt may Việt Nam và áp dụng biện pháp chống bán phá giá, thì mức tăng chỉ còn khoảng 5-7%/năm" - Hiện ngành dệt may có khoảng 2 triệu lao động đang làm việc và việc Mỹ áp dụng chế độ theo dõi đặc biệt đối với ngành dệt may sẽ gây khó khăn cho người lao động. Theo ông Lê Quốc Ân, có thể số lao động ngành dệt may chưa bị giảm đi trong năm 2007 vì Mỹ mới bắt đầu áp dụng chế độ theo dõi này, nhưng từ năm 2008 trở đi, mức độ ảnh hưởng sẽ tăng cao. Thứ năm, thuế nhập khẩu hàng dệt may đã cắt giảm ngay ở mức tương đối lớn, điều này sẽ dẫn tới một số thay đổi trong thị trường nội địa. Các DN nhỏ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Nhưng trong thời gian tới, nếu ngành dệt may VN không tích cực đầu tư làm chủ khâu nguyên liệu và thiết kế mẫu mã thì lợi thế cạnh tranh sẽ kém dần đi. Tháng 1-2007, thuế nhập khẩu hàng dệt may đã cắt giảm ở mức tương đối lớn. Cụ thể, thuế suất thuế nhập khẩu nhóm hàng xơ, sợi giảm từ 20% xuống còn 5%; nhóm hàng vải giảm từ 40% xuống còn 12% và đặc biệt, nhóm hàng may sẵn giảm từ 50% xuống còn 20%. Điều này sẽ tạo ra những thay đổi lớn ở thị trường nội địa. Đó là những tổ hợp các công ty nhỏ trong lĩnh vực dệt sẽ rất khó khăn và việc đóng cửa hàng loạt doanh nghiệp trong ngành là hoàn toàn có thể. Đặc biệt, với nhóm quần áo và đồ may sẵn, việc cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu là cơ hội để các thương hiệu quần áo may sẵn đẩy mạnh hoạt động tại thị trường Việt Nam. Theo phân tích từ Trung tâm Xúc tiến thương mại Việt Nam và Đầu tư TP Hồ Chí Minh cho thấy, vấn đề mấu chốt trong cuộc cạnh tranh này là kênh phân phối và thương hiệu, vốn là những lĩnh vực yếu của doanh nghiệp Việt Nam. Kết quả cuộc cạnh tranh là gì? Là các thương hiệu may sẵn của Việt Nam sẽ nhường chỗ cho các thương hiệu nước ngoài và sự sụt giảm lượng khách đáng kể tại các nhà may do nhu cầu sử dụng hàng hiệu giá rẻ tăng cao. Thứ sáu, hàng dệt may VN sẽ bị cạnh tranh ngay tại thị trường nội địa bởi hàng Trung Quốc (TQ), Ấn Độ và Pakistan sau khi thuế nhập khẩu 50% đối với hàng may mặc và 40% đối với vải được giảm xuống 10-15% đẩy các doanh nghiệp Việt Nam vào thế bất lợi ngay trên sân nhà . Hệ thống các công ty bán lẻ của nước ngoài với tiềm lực lớn về vốn và kinh nghiệm sẽ cạnh tranh mạnh mẽ với các công ty bán lẻ của VN, ảnh hưởng cả đến hệ thống các cửa hàng bán lẻ truyền thống của doanh nghiệp (DN). Thứ bảy, Việc bỏ quota vào thị trường Mỹ là một thuận lợi nhưng thị trường Mỹ từ lâu đã được chia phần. Nếu tính theo sản lượng xuất khẩu vào thị trường Mỹ năm 2005 thì Trung Quốc chiếm 26% thị phần, Ấn Độ 5%, Pakistan 4,5%, Việt Nam chỉ chiếm 1,7% thị phần. Khả năng mở rộng thị phần sẽ gặp nhiều khó khăn vì ngành dệt may Việt Nam chủ yếu là làm gia công, trong khi khách hàng Mỹ chỉ muốn doanh nghiệp xuất theo giá FOB. Như vậy, trước mắt sẽ có nhiều khó khăn. Việt Nam chỉ có khả năng xuất khẩu hàng may mặc vào Mỹ, nhưng các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu chỉ làm gia công. Công nghiệp phụ trợ của ngành dệt may Việt Nam hiện quá yếu. Ngành dệt may hiện phải nhập khẩu hầu hết nguyên phụ liệu cho sản xuất: bông là 90%, xơ sợi tổng hợp nhập gần 100%, hóa chất thuốc nhuộm và máy móc thiết bị nhập gần 100%, vải 70%, sợi trên 50%, phụ liệu may khoảng 50%. Do vậy, kim ngạch xuất khẩu của ngành sang Mỹ - cho dù có bỏ quota - ước cũng chỉ tăng tối đa khoảng 8-10% mỗi năm. Sau năm 2008, khi TQ không còn bị khống chế bằng biện pháp tự vệ đặc biệt của Mỹ và châu Âu như hiện tại, có khả năng xuất khẩu hàng dệt may VN sẽ bị giảm do cạnh tranh bởi hàng TQ. Khi bỏ quota thì có thể nói sẽ diễn ra mấy khuynh hướng sau: Thứ nhất, tăng trưởng quá mức, tăng trưởng quá mức như vậy có khi phải giảm giá, nếu giá giảm làm cho nhà sản xuất dệt may Hoa Kỳ có ý kiến, khi có ý kiến thì dễ dàng bị điều tra chống bán phá giá, và điều tất yếu xảy ra là mặc dù họ chưa đưa ra kết luận nhưng mà chỉ công bố điều tra thì nhà nhập khẩu sẽ sợ và dẫn đến bỏ nhập khẩu của Việt Nam. Do đó, chúng ta phải làm thế nào để vẫn thúc đẩy sự tăng trưởng vì đó là nhiệm vụ của chúng ta. Thứ hai, đó là doanh nghiệp để bán được nhiều sản phẩm có khi hạ giá xuống, lúc đó sẽ dẫn đến thiệt hại cho doanh nghiệp và giảm lương người lao động nhưng khi hạ giá lại cạnh tranh với hàng của Hoa Kỳ sản xuất trong nước. Như vậy, có nguy cơ người ta điều tra về bán phá giá có khi chúng ta không bán phá giá nhưng cũng có tiếng xấu. Một mặt khác mẫu mã của hàng dệt may Việt Nam không đa dạng , nghèo nàn , chưa có sự thay đổi kịp thời để nhanh chóng nắm bắt thị hiếu người tiêu dùng là điểm yếu khá lớn của các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam.Vấn đè nay đang được xem là khó khăn rất lớn của các sản phẩm may mặc Việt Nam. Khi gia nhập WTO hàng hóa may mặc của các nước với mẫu mã đa dạng phong phú , sẽ tràn vào Việt Nam, đây là một thách thức lớn với các doanh nghiệp của chúng ta. Trong những tháng đầu năm khi chúng ta gia nhập WTO tính đến tháng 4 năm 2007 mức độ sụt giảm kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường EU, thậm chí tới mức báo động ở một số thị trường lớn như Anh, Đức, Pháp, đã làm cho giới chuyên môn lo ngại mục tiêu xuất khẩu của ngành dệt may trong năm 2007 sẽ khó khăn để đạt được. Một số chủng loại hàng dệt may trước đây vốn là thế mạnh chủ lực của Việt Nam sang thị trường Mỹ nhưng nay cũng giảm tới 30-40%. Thực trạng này đã làm cho nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ có vốn đầu tư nước ngoài đứng trước nguy cơ thiếu đơn hàng khó vượt qua nếu không có những giải pháp quyết liệt ngay từ bây giờ. Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam, trong quý 1, năm 2007 này xuất khẩu hàng dệt may sang EU đã giảm 8% so với cùng kỳ năm ngoái, riêng thị trường Đức đã giảm tới 27,3%, Anh giảm 26% và Pháp giảm 20%. Theo các chuyên gia, nguyên nhân chính của tình trạng này là do các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đang vấp phải sự cạnh tranh khốc liệt của hàng dệt may Trung Quốc có giá rẻ và mẫu mã phong phú hơn. Bên cạnh đó việc Trung Quốc đã được dỡ bỏ hạn ngạch vào các thị trường trong khi Việt Nam vẫn phải chịu hạn ngạch cũng là rào cản lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam.  Tại thị trường EU, hàng dệt may Việt Nam đã được bãi bỏ hạn ngạch, nhưng kim ngạch xuất khẩu cũng không tăng như dự báo ban đầu bởi Việt Nam vẫn bị áp đặt thuế nhập khẩu lên tới 12%. Xét về yếu tố chủ quan, với những điểm yếu cố hữu như sức cạnh tranh yếu, khả năng đáp ứng đơn hàng chậm, mẫu mã đơn giản, nguyên phụ liệu phải nhập khẩu nhiều, các doanh nghiệp Việt Nam khó lòng có thể cạnh tranh được với ngay cả hàng dệt may của một số nước trong khu vực như Inđônêxia, Lào, Campuchia - những nước được Mỹ, Eu xem xét bãi bỏ thuế nhập khẩu. Một nguyên nhân nữa làm kim ngạch xuất khẩu của ngành giảm sút là cung cách điều hành hạn ngạch của các cơ quan quản lý còn khá chậm chạp, thiếu linh hoạt. Điển hình là quy chế chuyển nhượng hạn ngạch vào Mỹ đã được Thủ tướng thông qua từ tháng 2 nhưng tới đầu tháng 4 mới được liên Bộ Thương mại, Công nghiệp ban hành, làm nhiều doanh nghiệp bị lỡ cơ hội giành được đơn hàng. CHƯƠNG III PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ TẬN DỤNG CÁC CƠ HỘI VÀ KHẮC PHỤC NHỮNG THÁCH THỨC. Mục tiêu , phương hướng phát triển của thương mại hàng dệt may Việt Nam. Mục tiêu. Nói chung, dệt may là ngành đã đạt được hại mục tiêu quan trọng mà Đảng và nhà nước hết sức quan tâm, tăng cường xuất khẩu và thu hút ngoại tệ mạnh và hiện đang là một trong hai ngành đạt được kim ngạch xuất khẩu lớn trong vòng nhiều năm (chỉ sau ngành dầu khí ), hai là taqọ công ăn việc là cho hàng triệu lao động ,thu hút thêm hàng vạn lao động mỗi năm. Phát triển ngành dệt may trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu; thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước; tạo nhiều việc làm cho xã hội; nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới. Kim ngạch xuất khẩu đến năm 2010: 8.000 đến 9.000 triệu đô la Mỹ. Dệt may Việt Nam phấn đấu đến năm 2010 trở thành tập đoàn đa sở hữu hàng đầu về quy mô SX-KD lẫn năng lực cạnh tranh sản phẩm trong khu vực Đông Nam Á: Xây dựng được một số thương hiệu sản phẩm hàng đầu trong khu vực; phát triển hệ thống bán lẻ phủ kín cả nước; XK đạt 2,5 tỉ USD, thu hút khoảng 150.000 lao động. “Top 10 ” trong số các nước xuất khẩu dệt may trên thế giớ đang là mục tiêu hướng tới của ngành dệt may Việt Nam.Với kinm ngạch XK năm 2006 đạt 5,8 tỷ USD, tăng trên 20% so với năm trước Việt Nam được xếp hạng 16/153 nước xuất khẩu dệt may trên thế giới. Đây là nền tảng để ngành dệt may Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu trong năm 2007 và những năm tiếp theo. Đầu tàu để đưa Việt Nam lên hạng, thay đổi bản đồ xuất khẩu trong bối cảnh cạnh tranh là Vinatex . Đó là chỉ đạo của

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc412.doc
Tài liệu liên quan