Đề tài Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải phá

Chủ trương CPH một bộ phận DNNN là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong quá trình cải cách và sắp xếp lại các DNNN, nhằm đổi mới và phát triển kinh tế đất nước. Mặc dù đã đạt được một số kết quả nhất định, song công tác CPH vẫn diễn ra rất chậm và chưa hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch đặt ra.

 Trong thời gian học tập ở trường, em đã tập trung nghiên cứu hoạt động CPH – DNNN ở nước ta. Với vốn kiến thức đã được học, kết hợp với việc nghiên cứu tình hình thực tế, em đã trình bày một số vấn đề về thực trạng CPH-DNNN của nước ta. Nhưng vì thời gian và kiến thức có hạn, nên đề tài chưa đi sâu vào các công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ như chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ tác động trực tiếp lâu dài tới quá trình CPH. Các giải pháp trong đề tài chỉ mang tính chất cơ bản, chưa tạo ra bước ngoặt lớn trong quá trình CPH. Tuy nhiên, em cũng hy vọng rằng, những giải pháp này sẽ đóng góp một phần nào đó nhằm đẩy nhanh tiến độ CPH – DNNN ở nước ta hiện nay.

 

doc33 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1091 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải phá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à những bài học bổ ích và quý giá để Nhà nước tiến hành hoạch dịnh chính sách và tổ chứcthực hiện công việc CPH các DNNN tại Việt Nam. 2. Về các yếu tố khó khăn và cản trở - Khó khăn và cản trở lớn nhất trong quá trình CPH ở nước ta là do khu vực tư nhân nhỏ bé và yếu ớt. Sự nhỏ bé và yếu ớt của khu vực kinh tế tư nhân phản ánh trình độ chậm phát triển của kinh tế thị trường trong đó hình thái doanh nghiệp một chủ tự mình đứng ra kinh doanh là phổ biến, hình thái công ty cổ phần còn xa lạ với hầu hết mọi người. Điều này gây ra sự bỡ ngỡ, lúng túng cho cả người đầu tư lẫn người sử dụng vốn đầu tư dưới hình thức cổ phiếu,do đó làm cho việc tiến hành chương trình CPH ở nước ta phải thực hiện trong một thời gian dài song song với sự hình thành và phát triển hình thái công ty cổ phần cũng như xác lập môi trường pháp lý tương ứng. - Cùng với sự yếu ớt và nhỏ bé của khu vực kinh tế tư nhân là sự thiếu vắng một thị trường tài chính thực sự, trong đó có thị trường chứng khoán. Như chúng ta biết, thị trường chứng là trung tâm phản ánh trạng thái hoạt động của các công ty cổ phần trong một nền kinh tế thị trường: nó vừa là điều kiện, vừa là tấm gương phản chiếu sự ra đời và hoạt động của các công ty cũng như huy động vốn trên thị trường tài chính. Sự thiếu vắng thị trường chứng khoán đi liền với nó là thiếu hệ thống pháp lý và tổ chức vận hành đã gây khó khăn và cản trở cho quá trình CPH. Đó là việc định giá doanh nghiệp để CPH, việc phát hành và lưu thông cổ phiếu, việc mua bán chuyển nhượng cổ phiếu, hệ thống pháp lý và tổ chức để bảo đảm duy trì được hoạt động của thị trường chứng khoán. Đây là hai yếu tố quan trọng gây khó khăn và cản trở đến việc thực hiện CPH các DNNN ở Việt Nam. Ngoài ra, còn có một số yếu tố đặc thù khác cũng góp phần không nhỏ gây khó khăn và cản trở cho việc CPH đó là: Sự chưa ổn định trong chính sách vĩ mô của Nhà nước về luật pháp , thuế khoá, tiền tệ,… chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro cho những người muốn đầu tư lâu dài. Nhiều chính sách ra đời chồng chéo, mâu thuẫn lẫn nhau và thay đổi đột ngột, lạm phát chưa được kiềm chế một cách chắc chắn và vẫn còn ở mức hai con số; sự đổi mới của hệ thống ngân hàng và cơ chế hoạt động tín dụng quá chậm trễ so với đòi hỏi của cơ chế thị trường là những yếu tố gây bất lợi cho môi trường đầu tư trong nước, và do đó gây bất lợi cho quá trình CPH các DNNN. Các DNNN hầu hết có trang bị máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu, biên chế cồng kềnh, khả năng cạnh tranh thấp.. do đó khó có thể tiến hành CPH các doanh nghiệp này; số doanh nghiệp có đủ khả năng hấp dẫn để CPH còn quá ít. Và những doanh nghiệp có lợi nhuận cao thì Nhà nước lại chưa có ý định tiến hành CPH. Điều này gây khó khăn cho việc lựa chọn các doanh nghiệp CPH cũng như thu hút sự hưởng ứng của đông đảo những người có vốn muốn đầu tư bằng cổ phiếu. Về tư tưởng và tâm lý của đa số mọi người trong xã hội còn chưa quen với vấn đề mới mẻ này, thậm chí còn có những phản ứng nhất định ở những người đang sống yên ổn trong khu vực Nhà nước. Về mặt suy nghĩ, nhiều người làm công tác lãnh đạo và quản lý Nhà nước vẫn chưa đoạn tuyệt được quan điểm coi kinh tế Nhà nước là CNXH và vì vậy, thu hẹp khu vực này có nghĩa là rời xa CNXH, là phá vỡ cơ sở của CNXH. Đa số các giám đốc và cán bộ quản lý doanh nghiệp thì ngần ngại, thậm chí phản đối vì sợ chuyển từ “người chủ” thành người “làm thuê cao cấp”, sẽ chịu sự đánh giá và kiểm soát của Hội đồng quản trị và các cổ đông về trình độ năng lực của mình, còn những người lao động thì lo sợ mất việc làm, mất biên chế Nhà nước… Đó là những trở ngại chủ quan không thể không được tính đến trong quá trình tiến hành CPH các DNNN. Nhà nước thiếu một nguồn tài chính cần thiết để giải quyết hàng loạt vấn đề liên quan đến chương trình CPH như các khoản trợ cấp cho người lao động thất nghiệp, chi phí đào tạo lại nghề mới và thời gian tìm việc, các chi phí cho chính sách xã hội và bảo hiểm, các chi phí để thực hiện công việc tư vấn, quảng cáo, môi giới đầu tư, chi phí phát hành và các dịch vụ về buôn bán cổ phiếu…Những khoản phí tổn này là không thể bỏ qua được và thường rất lớn. Đây là chưa kể đến chính sách bán cổ phiếu giá thấp và tín dụngcho một số đối tượng nhất định để khuyến khích và thực hiện mục tiêu xã hội sẽ làm cho chi phí tăng lên nhiều hơn nữa. Thêm vào đó, nạn tham nhũng và hối lộ sẽ lợi dụng cơ hội này để tẩu tán tài sản của Nhà nước nếu thiếu sự quản lý chặt chẽ. Hệ thống kiểm toán chưa trở thành một hoạt động phổ biến và thống nhất. Điều này gây nhiều trở ngại cho việc định giá giá trị của doanh nghiệp, tình hình và triển vọng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp được CPH…và do đó gây khó khăn cho việc cung cấp thông tin trung thực, tin cậy cho những người có nhu cầu đầu tư bằng cổ phiếu với những doanh nghiệp này. 3. Chủ trương và chính sách của Chính phủ về CPH – DNNN Mặc dù quan niệm và phương thức tiến hành CPH DNNN ở mỗi nước có những khác biệt nhất định, song đều nhằm mục đích chung là tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và văn hoá không ngừng tăng lên của xã hội. Để tạo cơ sở pháp lý cho CPH - DNNN, Chính phủ và các Bộ, ngành hữu quan đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách theo hướng ngày càng đổi mới, thông thoáng hợp với tình hình thực tế ở nước ta. Chủ trương CPH - DNNN được Chính phủ đề ra tại điều 22 của quyết định số 217/HĐBT ngày 14/11/1997 của Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) và đã được nhấn mạnh trong Nghị quyết khoá họp thứ tư Quốc hội Khoá VIII, song vì chưa có hướng dẫn của các bộ, ngành chức năng nên chỉ có số ít các DNNN triển khai thực hiện và mỗi nơi làm một kiểu, dẫn đến tình trạng rời rạc không hiệu quả. Chỉ đến khi có quyết định số 202/CT ngày 08/06/1992 của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (nay là Thủ tướng chính phủ), kèm theo đề án triển khai thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần, thì chủ trương này mới thực sự được tiến hành có tổ chức, có hệ thống. Mặc dù vậy vẫn còn phải có sự đôn đốc của Thủ tướng Chính phủ bằng chỉ thị số 84/TTg ngày4/3/1993, Thông tư số 36/TC-CN ngày 7/5/1993 của Bộ tài chính, thông tư số 09/LĐTBXH-TT ngày 22/7/1992 của Bộ lao động thương binh và xã hội thì CPH mới thực sự đi vào sự nghiệp cải cách khu vực kinh tế Nhà nước. CPH một số DNNN là một chủ trương đúng đắn, song phải mất một thời gian dài, chính thức là 5 năm, từ phác thảo đến mô hình, cách đặt vấn đề cho đến lúc triển khai thực hiện một cách có tổ chức có hệ thống. Doanh nghiệp CPH được hưởng những ưu đãi sau: DNNN chuyển thành công ty cổ phần là hình thức đầu tư mới, được hưởng ưu đãi theo quy định của luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi). Trường hợp những doanh nghiệp không đủ điều kiện hưởng ưu đãi theo quy địng của luật khuyến khích đầu tư trong nước thì được giảm 50% thuế lợi tức (thuế TNDN) trong hai năm liên tiếp kể từ sau khi chuyển sang hoạt động theo luật công ty. Đựơc miễn lệ phí trước bạ đối với việc chuyển những tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của DNNN-CPH thành sở hữu của Công ty cổ phần. Được tiếp tục vay vốn tại Ngân hàng Thương mại, Công ty Tài chính, các tổ chức tín dụng khác của Nhà nước theo cơ chế và lãi suất như áp dụng đối với DNNN. Được tiếp tục XNK hàng hoá theo các chế độ quy định hiện hành như đối với DNNN trước khi CPH. Trước khi CPH được chủ động sử dụng số dư quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi (bằng tiền) chia cho người lao động đang làm việc (không phải nộp thuế thu nhập) để mua cổ phần. Được duy trì và phát triển quỹ phúc lợi dưới dạng hiện vật các công trình văn hoá, câu lạc bộ, bệnh xá, nhà điều dưỡng để đảm bảo phúc lợi cho người lao động trong Công ty cổ phần. Những tài sản này thuộc sở hữu của tập thể người lao động do Công ty cổ phần quản lý với sự tham gia của tổ chức công đoàn. Các khoản chi phí thực tế, hợp lý và cần thiết cho quá trình chuyển DNNN thành Công ty cổ phần được trừ vào tiền bán cổ phần thuộc vốn Nhà nước theo quy định của Bộ tài chính. Người lao động trong doang nghiệp CPH được hưởng những ưu đãi sau: Được nhà nước bán với giá ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp tuỳ theo năm công tác của từng người. Một năm làm việc cho nhà nước được mua tối đa 10 cổ phần (trị giá một cổ phần: 100.000 đồng) với mức giảm giá 30% so với các đối tượng khác. Tổng giá trị ưu đãi cho người lao động không quá 20% giá trị vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Người lao động sở hữu cổ phần nói trên có quyền chuyển nhượng để thừa kế và các quyền khác của cổ đông theo quy định của pháp luật và điều lệ tổ chức hoạt động của công ty cổ phần. b. Người lao động nghèo trong doanh nghiệp được mua cổ phần theo giá ưu đãi thì được hoãn trả trong 3 năm đầu để hưởng cổ tức và trả dần tối đa trong 10 năm không phải chịu lãi suất. Số cổ phần mua trả dần cho người lao động nghèo không vượt quá 20% tổng số cổ phần nhà nước bán theo giá ưu đãi. Người sở hữu cổ phần trả dần không đượcc chuyển nhượng khi chưa trả tiền cho nhà nước. Sau 12 tháng kể từ khi DNNN chyển thành Công ty cổ phần, nếu do nhu cầu tổ chức lại hoạt động kinh doanh, thay đổi công ghệ dẫn đến người lao động mất việc làm thì chính sách đối với những người lao động này được giải quyết theo những quy định hiện hành của Chính phủ. Phần II: Thực trạng vấn đề CPH các DNNN ở nước ta hiện nay. Tình hình tiến triển. CPH-DNNN được bắt đầu từ những năm 90, đã trải qua các thời kỳ thí điểm đến thực hiện một cách bình thường đối với các DNNN nằm trong danh mục cần tién hành CPH và đa dạng hoá các hình thức sở hữu, mô hình tổ chức quản lý. 1.1 Thời kỳ thí điểm. Thời kỳ này, thực hiện quyết định số 202/CT của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ), các bộ, các ngàng đã hướng dẫn DNNN đăng ký thực hiện thí điểm chuyển sang Công ty cổ phần. Trên cơ sở số lượng DNNN đã đăng ký, chủ tịch Hội đồng bộ trưởng đã ra quyết định số 203/CT ngày 8-6-1992 chọn 7 DNNN do Chính phủ chỉ đạo thí điểm chuyển thành Công ty cổ phần: Nhà máy xà bông (Thuộc liên hiệp Công ty bột giặt miền Nam, Tổng Công hoá chất II, Bộ công nghiệp nặng). Nhà máy diêm Thống Nhất (thuộc liên hiệp sản xuất – xuất nhập khẩu giấy gỗ diêm, Bộ công nghiệp nhẹ). Xí nghiệp nguyên liệu chế biến thức ăn gia súc (thuộc Công ty chăn nuôi và thức ăn gia súc I, Bộ Nông nghiệp và công nghệ thực phẩm). Xí nghiệp chế biến gỗ Long Bình (thuộc Tổng Công ty dịch vụ, sản xuất và xuất nhập khẩu lâm sản 3, Bộ lâm nghiệp). Công ty vật tư tổng hợp Hải Hưng (thuộc Tổng Công ty kinh doanh và chế biến lương thực Hà Nội, ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội). Xí nghiệp may mặc (thuộc Công ty dệt – da – may Legamex, UBND TP. Hồ Chí Minh). Tuy nhiên sau thời gian làm thử, 7 doanh nghiệp Nhà nước Chính phủ chọn thí điểm đều xin rút lui hoặc không đủ điều kiện để tiến hành CPH như Nhà máy xà bông miền Nam, Xí nghiệp may mặc (thuộc Công ty dệt – da – may Legamex)… Trong số hơn 30 DNNN đăng ký với Bộ Tài chính để thực hiện CPH thì sau hơn bốn năm thực hiện Quyết định số 202/CT có năm DNNN chuyển thành Công ty cổ phần là: Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển (Bộ giao thông vận tải). Công ty cổ phần cơ điện lạnh (TP. Hồ Chí Minh) Công ty cổ phần giầy Hiệp An (Bộ công nghiệp). Công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An (tỉnh Long An). Công ty cổ phần chế biến thức ăn gia súc (Bộ Nông nghiệp). 1.2 Thời kỳ mở rộng thí điểm và thực hiện bình thường (1996 -2000) Từ năm 1996 – 2000 là giai đoạn mở rộng thí điểm. Ngày 7/5/1996 chính phủ đã ban hành nghị định số 28/CP “ về việc chuyển một số DNNN thành Công ty cổ phần”, thay thế cho quyết định số 202/CT với những quy định cụ thể rõ ràng hơn. Thực hiện nghị định số: 28/CP, công tác CPH-DNNN đã được quan tâm hơn cụ thể: có 30 tỉnh, thành phố, Bộ , ngành và các tổng công ty 91 đã đăng ký thực hiện CPH hơn 200 DNNN, nhưng đến đầu năm 1998 mới có 18 DNNN thực hiện CPH, chuyển sang hoạt động theo luật Công ty với tổng số vốn là: 121384.000.000đ, trong đó: - Phân theo ngành: Ngành Giao thông vận tải 4 doanh nghiệp Ngành Công nghiệp 7 doanh nghiệp Ngành xây dựng 1 doanh nghiệp Ngành chế biến Nông lâm thuỷ hải sản 3 doanh nghiệp Ngành dịch vụ 3 doanh nghiệp Phân theo lãnh thổ: TP. Hồ Chí Minh 10 doanh nghiệp TP. Hà Nội 1 doanh nghiệp TP. Hải Phòng 1 doanh nghiệp Tỉnh Long An 1 doanh nghiệp Tỉnh Ninh Bình 1 doanh nghiệp Tỉnh Bình Định 1 doanh nghiệp Tỉnh Cà Mau 1 doanh nghiệp Tỉnh An Giang 1 doanh nghiệp TP. Đà Nẵng 1 doanh nghiệp Trong số 18 công ty cổ phần có 1 công ty cổ phần nhà nước không nắm giữ cổ phần, 17 công ty còn lại nhà nước nắm giữ cổ phần ít nhất là 18%, cao nhất là 51%, cổ phần còn lại do cổ đông ngoài xã hội chiếm giữ. So với yêu cầu cải cách doanh DNNN và số lượng doanh nghiệp nhà nước trong diện CPH thì kết quả đạt được trong các năm 1992 – 1998 là quá ít, tốc độ cổ phần hoá rât chậm. Từ năm 1998 đến nay là giai đoạn thực hiện bình thường và phổ biến đối với tất cả các DNNN tthuộc danh sách cần phải CPH. CPH DNNN có chuyển biến rõ rệt và đáng khích lệ từ khi có nghị định số 44/NĐ-CP ngày 29/6/1998 của Chính phủ “ về việc chuyển DNNN thành Công ty cổ phần”. Riêng 6 tháng cuối năm 1998 đã cổ phần hoá được 90 DNNN. Năm 1999 cổ CPH được 250 DNNN, gấp 7 lần so với 6 năm trước đó (1992 – 1997) cộng lại. Đến đầu năm 2000 cả nước đã CPH được 370 DNNN, và đến cuối năm 2000 cả nước đã có 523 DNNN chuyển thành Côn ty cổ phần chiếm 8,5% tổng số DNNN hiện có. Tính đến tháng 9/2001 thì cả nước đã có khoảng 700 DNNN được CPH. Con số này quả là đáng khích lệ. Tốc độ thực hiện CPH một bộ phận DNNN ở nước ta gần đây đang gia tăng. nhưng so với kế hoạch được duyệt từ 150 – 200 doanh nghiệp được CPH trong năm 1998; 400 – 500 doanh nghiệp trong năm 1999 là 1000 doanh nghiệp cho năm 2000 thì tốc độ CPH hiện nay vẫn còn quá chậm. Kết quả thực hiện Bên cạnh những chuyển biến về mặt số lượng như trên, bước đầu quá trình CPH DNNN đã tạo ra một số kết quả tích cực sau: 2.1 Nghị định số 44/1998/NĐ-CP đã kế thừa được nhiều nội dung tốt nếu trong các quy định của nghị định 28/CP, đồng thời bổ sung sửa đổi và phát triển được nhiều điểm mới để đáp ứng yêu cầu CPH. Đặc biệt nghị định 44/1998/NĐ-CP đã quy định cụ thể các chính sách khuyến khích đối với doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp CPH thể hiện ở nhiều cơ chế ưu đãi đồng thời có phân cấp cụ thể đối với các cấp trong quá trình triển khai thực hiện CPH, do đó tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp và các cấp quản lý triển khai thực hiện quy trình kế hoạch CPH. 2.2 Công tác hướng dẫn phổ biến, tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về CPH đã được chú trọng triển khai tích cực hơn. Thông qua các lớp tập huấn cho cán bộ, các văn bản hướng dẫn thì các chủ trương chính sách và chính sách và quy trình CPH được phổ biến sâu rộng làm cho nhiều người, nhiều cấp quan tâm hiểu rõ cách thức CPH. Các phương tiện thông tin đại chúng như các báo, đài ở trung ương và địa phương bằng nhiều hình thức phong phú: mở chuyên mục, diễn đàn, đối thoại, phỏng vấn…về CPH đã đưa tin kịp thời góp phần tích cực tuyên truyền phổ biến, biểu dương các đơn vị điển hình, phản ánh kịp thời những vướng mắc cần thiết phải tháo gỡ để đẩy nhanh tiến trình CPH. 2.3 Về thực hiện mục tiêu CPH-DNNN, tuy số lượng doanh nghiệp CPH mới chiếm 7% tổng số doanh nghiệp hiện có nhưng qua đó bước đầu đã huy động thêm được các nguốn vốn khác ngoài nguồn vốn nhà nước để đầu tư vào doanh nghiệp CPH. Mặt khác, thực tế cho thấy, phần vốn nhà nước tại các doang nghiệp CPH không những không bị giảm đi mà ngược lại đã tăng lên từ 10-15% so với giá trị ghi trên sổ sách. Thay đổi phương thức quản lý tạo độg lực cho thúc đẩy kinh doanh đạt hiệu quả cao. Vai trò làm chủ thực sự của người lao động với tư cách là cổ đông trong công ty cổ phần bước đầu khơi dậy, phát huy thể hiện ở tinh thần hăng say, tự giác làm việc, ý thức tổ chức kỷ luật và tiết kiệm trong sản xuất – kinh doanh được nâng lên, nhằm chi tiêu kinh tế tăng lên rõ rệt so với thời kỳ trước khi CPH. 2.4 Về phạm vi và tổ chức chỉ đạo thực hiện CPH thì hiện nay theo tinh thần của Nghị định 44/1998/NĐ-Cp có nhiều Bộ, ngành, địa phương, nhiều Tổng công ty 91 đã chủ trương lựa chọn và xác định diện DNNN cần thực hiện CPH, không chỉ bó hẹp trong một vài doanh nghiệp của TP. Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Nam như trước đây. Hiện tại đã có 7/13 bộ, 10/17 Tổng công ty 91, 43/61 tỉnh thành đã có DNNN được CPH. Đặc biệt là có một số Bộ, ngành, tỉnh, Tổng Công ty 91 đã tích cực triển khai CPH doanh nghiệp như: Hà nội, TP. HCM, Nam định, Thanh Hoá, Tuyên Quang, Bình Định, Lầm Đồng, Bộ Xây Dựng, Bộ NN và PTNT, Tổng công ty Hàng Hải, Tổng công ty Xi măng, Tổng công ty cà phê. 2.5 Hiệu quả kinh doanh có tiến bộ đáng kể. Báo cáo hoạt động của 50 doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá hơn một năm cho thấy hầu hết các doanh nghiệp đều có chuyển biến tích cực trên nhiều mặt, kể cả các doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá bị thua lỗ, doanh thu hàng năm tăng trên 25%, có một số tăng 50%. Trong 6 tháng đầu năm 1999 có công ty cổ phần đạt doanh thu gấp đôi so với trước khi CPH. điển hình là công ty cơ điện lạnh đạt 353 tỷ đồng so với 78 tỷ đồng, công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển đạt 163 tỷ đồng so với 16 tỷ đồng. Số lao động không bị giảm mà còn tăng bình quân 10%, có công ty tăng trên 20%. Ví dụ công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An từ 900 người lên 1280 người, công ty cổ phần cơ điện lạnh từ 334 người tăng lên 739 người, công ty cổ phần đại lý liên hợp vận chuyển từ 85 người tăng lên 350 người. Thu nhập của người lao động tăng bình quân 20%(chưa kể thu nhập cổ tức), điển hình là công ty liên hiệp vận chuyển, trước khi CPH thu nhập là 1.1 triệu đồng/người/tháng, nay đạt 4.4 triệu đồng/người/tháng. công ty cổ phần chế biến thức ăn gia súc từ 524 ngàn đồng tăng lên 1.3 triệu đồng. Lợi nhuận trước thuế hàng năm tăng lên 26%, có công ty đạt tổng lợi nhuận gấp hai ba lần so với trước khi CPH. Ví dụ: Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển lãi từ 4.1 tăng lên 37 tỷ đồng, công ty cổ phần cơ điện lạnh lãi từ 8.8 tỷ đồng tăng lên 34 tỷ đồng. Nộp ngân sách hàng năm tăng bình quân trên30%, một số công ty đạt gấp đôi so với trước khi CPH. Chẳng hạn năm 1998, công ty CP Cơ điện lạnh nộp ngân sách 68 tỷ đồng so với 3,7 tỷ đồng trước khi CPH; Công ty CP đại lý Liên hiệp vận chuyển nộp ngân sách 40 tỷ đồng so với 5,1 tỷ đồng trước khi CPH. Vốn điều lệ tăng bình quân trên 25%/năm, có một số tăng lên 2 lần. Lãi cổ tức đạt cao hơn lãi tiết kiệm bình quân đatẹ 12% /tháng, Công t CP sửa chữa và đóng tàu thuyền Bình Định đạt 20% trong năm 98, các Côngty CP sơn Bạch Tuyết , chế biến thức ăn gia súc, chế biến hàng xuất khẩu Long An đều đạt cổ tức 2% /tháng. 3. Tình hình CPH- DNNN ở một số địa phương. 3.1. CPH-DNNN ở thành phố Hà Nội. Hà Nội là một trong số các địa phương có nhiều DNNN được CPH. Trong số 880 DNNN trên địa bàn Hà Nội có 320 DN do địa phương quản lý. Qua khảo sát cho thấy, phần lớn số doanh nghiệp Nhà nước do địa phương quản lý có quy mô nhỏ bé, trong đó 87 DN quy mô vốn chỉ dưới 1 tỷ đồng(chiếm 26,5%). Xét về hiệu quả trong số 320 DN có 219 DN làm ăn có lãi, gần 1/3 kinh doanh chỉ hoà hoặc lỗ vốn, trong đó 33 DN thua lỗ kéo dài. Do vậy CPH - DNNN ở Hà Nội là một vấn đề cấp thiết. Trong thời gian 5 năm từ 1992 - 1997, Hà Nội mới chỉ thực hiện CPH được 5 DNNN. Năm 1998, Hà Nội hoàn thành CPH 30 DNNN và đến hết tháng 10/1999 lại tiếp tục CPH thêm 30 DNNN nữa trong chỉ tiêu 40 DNNN cần CPH của năm 1999. Về hiệu quả sản xuất kinh doanh, tuy các DNNN được thực hiện vào nhiều thời điểm khác nhau, song đều sớm đi vào ổn định và phát triển, cụ thể là: Công ty sứ Bát Tràng 6 tháng đầu năm 1998 chỉ có 5 mẫu hàng mới – bị thua lỗ 13 triệu đồng; sau khi thực hiện CPH, 6 tháng cuối năm cho ra đời 44 mẫu hàng mới, lãi 164 triệu đồng, mức cổ tức đạt 1,438%/tháng;Công ty Phú Gia sau khi CPH, hệ số sử dụng buồng phòng đạt 70%, hàng tháng tiết kiệm được 50% tiền điện so với trước,chi phí hành chính vệ sinh giảm 30%. Đặc biệt là Simex sau khi CPH, doanh thu tăng 18%, lợi nhuận trước thuế tăng 83%, thu nhập bình quân đầu người đạt hơn 1,9 triệu đồng/tháng., lợi tức cổ phiếu đạt 1,59%/tháng. 3.2. CPH-DNNN ở Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí Minh là một trong các địa phương đi đầu trong thí điểm thực hiện CPH-DNNN. Trong thời kỳ thí điểm thành phố có hai DNNN chuyển thành Công ty CP là Công ty CP cơ điện lạnh và Công ty Ong mật, sau đó lại chững lại. Tính đến cuối năm 1997, do thực hiện Nghị định 28/CP, Thành phố CPH thêm được 4 DNNN là: Khách sạn Sài Gòn(tháng2/1997) Trung tâm nghiên cứu và sản xuất hoá mỹ phẩm(tháng6/1997) Xí nghiệp sơn Bạch Tuyết(11/1997) Xí nghiệp bông Bạch Tuyết(12/1997) Mặc dù vậy, tiến triển CPH ở Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn rất châm. Tính đến tháng 5/1999, toàn thành phố mới chuyển đổi được 10 DNNN sang hoạt động theo luật Công ty CP. Đến quýIII/1999, Thành phố dự kiến xét duyệt chuyển 13 DNNN thành Công ty CP, hỗ trợ 16 DNNN có vướng mắc về tài sản,công nợ, chọn thêm 50 DNNN xin đưa vào kế hoạch CPH năm 2000 3.3. CPH - DNNN ở Hải Phòng. Hải Phòng nằm trong tam giác kinh tế trọng điểm ở phía Bắc có nhiều lợi thế để thúc đẩy kinh tế phát triển.Tuy nhiên, quá trình CPH-DNNN lại chưa được đẩy lên tương xứng.Trên địa bàn thành phố hiện nay có 140 DNNN, nhưng cho đến nay tổng số DNNN được CPH cũng chỉ dừng lại ở con số 17. Trong năm 2000, Hải Phòng tiến hành chuyển đổi hình thức sở hữu cho khoảng 80 DNNN và áp dụng một số biện pháp mạnh mẽ để đẩy nhanh quá trình CPH-DNNN, tập trung vào các DN làm ăn có hiệu quả. 3.4. CPH - DNNN ở TP Đà Nẵng. So với các thành phố lớn khác trong cả nước, tiến độ CPH-DNNN ở Đà Nẵng trong các năm qua diễn ra một cách chậm chạp. Đến nay, sau 3 năm kể từ ngày chia cách địa giới hành chính, toàn thành phố đã chuyển được 4 DNNN sang công ty CP là: Công ty CP Khí công nghiệp và hoá chất Đà Nẵng. Công ty CP khai thác và dịch vụ thuỷ sản Đà Nẵng. Công ty CP xây dựng Miền Trung. Công ty CP xi măng Ngũ Hành Sơn. Sau khi đã được CPH cả 4 DN trên đều làm ăn có hiệu quả. Trong năm 2000, Đà Nẵng tiến hành CPH 10 DNNN, trong đó có nhiều doanh nghiệp trong danh sách từ các năm trước chuyển sang và hiện đang phải đối mặt với nhiều khó khăn. Đến quý I/2000, trong số 10 DNNN được đề cử CPH, có 3 DN đã xây dựng xong đề án CPH, xác định dự án doanh nghiệp hiện đang bán cổ phần, có 6 DN đã và đang thẩm tra giá trị,hoàn chỉnh đề án CPH. Quá trình CPH - DNNN còn diễn ra ở nhiều tỉnh thành khác trên cả nước, tuy nhiên so với kế hoạch của Nhà nước và công tác CPH còn diễn ra quá chậm chạp, chưa năm nào đạt được chỉ tiêu đăt ra. Đây là vấn đề đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải tìm ra những giải pháp để thúc đẩy nhanh việc cải cách và sắp xếp lại DNNN trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta. Một số nhận định bước đầu: Các DNNN thực hiện CPH do huy động thêm được vốn để đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ nên năng lực sản xuất kinh doanh, năng suất, hiệu quả, lợi nhận cao hơn trước. Quyền lợi của người lao động trong công ty đồng thời là các cổ đông gắn với quyền lợi của công ty. Người lao động một mặt làm việc với tinh thần trách nhiệm cao vì quyền lợi của mình, mặt khác cũng yêu cầu HĐQT, giám đốc điều hành phải chỉ đạo và lãnh đạo công ty hoạt động có hiệu quả để lợi nhuận cao hơn. Phương pháp quản lý, điều hành doanh nghiệp thay đổi, từ việc Giám đốc doanh nghiệp nhà nước do cấp trên chỉ định sang hình thức cổ đông bầu HĐQT, Ban kiểm soát và Ban giám độc do đó trách nhiệm của hội đồng quản trị và giám đốc điều hành cao hơn, hoạt động của doanh nghiệp có tính đến hiệu quả cụ thể hơn. CPH là chuyển từ sở hữu Nhà nước sang sở hữu nhiều thành phần, tạo điều kiện cho người lao động thật sự làm chủ doanh nghiệp, làm cho tài sản xã hội tăng lên. Tính khả thi và hiệu quả của các DNNN - CPH nói riêng và các doanh ngiệp cổ phần nói chung đã được thực tế chứng minh. Một không khí sản xuất mới đã dược thiết lập. Tình trạng lãng phí của cải, tài sản giảm thiểu, vấn đề ăn nhậu xa hoa không còn, tiền phong bao cũng không có. Bởi vì thông thường điều lệ của các công ty quy định rất rõ định mức các khoản chi nhất là chi tiếp khách. Nhà nước đã thu về được một lượng vốn đáng kể, các chỉ tiêu khác như vốn, nộp ngân sách, việc làm, thu nhập bình quân đều tăng đáng kể. Nhờ sự làm ăn có hiệu quả tốt nên giá cổ phiếu của công ty CPH đã tăng nhanh. Giá trị cổ phiếu bình quân tăng 2 đến 3 lần Một số vấn đề tồn tại. Chỉ thị số 20/1998/CT-TTg ngày 21/4/1998 “về đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới DNNN” quy định đến hết năm 2000, sẽ chuyển khoảng 20% DNNN, tức là 1200 đơn vị thành công ty cổ phần. Nhưng cho đến hết năm 1999 mới thực hiện được 370 DNNN, năm 2000 thực hiện được 500 DNNN và đến tháng 9 năm 2001 cũng chỉ thực hiện được khoảng 700 DNNN. Còn cách quá xa chỉ tiêu dự định CPH - DNNN trong năm 2000. 4.1 Số DNNN được CPH còn chiếm tỷ trọng thấp so với kết quả phân loại doanh nghiệp. Số DNNN đã CPH chỉ chiếm 6,8% tổng số DNNN do địa phương quản lý và khoảng 36% tổng số DNNN cần CPH tại địa phương. Đối với các Bộ, ngành Trung ương thì con số tương tự là 5,5% và 29,6%. Một trong những mục tiêu của CPH – DNNN là thu hút vốn ngoài xã

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0785.doc
Tài liệu liên quan